31/10/2014
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu 2005 - 9 điểm

Thuế là một nguồn thu tài chính quan trọng, không thể thiếu để xây dựng và ổn định một Nhà nước. Pháp luật thuế nhập khẩu là một trong những chế định quan trọng của nhà nước nhằm quản lý, bảo đảm việc thực thi thuế nhập khẩu nói riêng và thực thi pháp luật thuế của nhà nước nói chung trong thực tế. Từ khi Nhà nươc ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005, việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng không tránh khỏi những bất cập, hạn chế. Vậy những yếu tố nào đã ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trong những năm gần đây, chúng ta cùng tìm hiểu vấn đề này.


NỘI DUNG

Khái quát chung

Dựa trên Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 và Luật hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 thì Thuế nhập khẩu có thể được định nghĩa là loại thuế đánh vào hàng hóa được nhập khẩu vào “những khu vực trong lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, nơi Luật hải quan được áp dụng”

Thuế nhập khẩu có một số đặc điểm nổi bật là:

Đối tượng chịu thuế là các hàng hóa được phép vận chuyển qua biên giới

Bản chất của thuế nhập khẩu không hoàn toàn là thuế gián thu hay thuế trực thu.

Thuế nhập khẩu gắn liền với hoạt động kinh tế đối ngoại của mỗi quốc gia trong từng thời kì bởi hoạt động ngoại thương là công cụ góp phần thực hiện vai trò quản lý, kiểm soát hoạt động ngoại thương của nhà nước.

Thuế nhập khẩu được quản lý thu bởi cơ quan chuyên trách là cơ quan hải quan.

Thuế nhập khẩu bị chi phổi bởi nhiều yếu tố đặc biệt là yếu tố hội nhập kinh tế quốc tế của quốc gia.

Thuế nhập khẩu có vai trò quan trọng đối với hoạt động quản lý, sử dụng thuế của nhà nước nói riêng và đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Thuế nhập khẩu góp phần quan trọng trong việc tạo nguồn thu cho NSNN; Là công cụ điều tiết hoạt động ngoại thương, hướng dẫn tiêu dùng xã hội và là công cụ hỗ trợ giúp bảo hộ nền sản xuất trong nước, chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa ngoại nhập.

Theo đó, pháp luật thuế nhập khẩu là tập hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng kí, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lý các vi phạm, tranh chấp về thuế nhập khẩu phát sinh giữa nhà nước với người nộp thuế. Như vậy pháp luật thuế nhập khẩu là bao gồm cả các quy định trong pháp luật quốc gia và quy định trong pháp luật quốc tế về thuế nhập khẩu như: Hiệp định CEPT, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ, Hiệp định GATT, Hiệp định WTO,…Trong hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 giữ vai trò quan trọng, là cơ sở pháp lý chủ yếu điều chỉnh những vấn đề cơ bản trong việc quản lý những hoạt động liên quan đến thuế nhập khẩu nói chung.

Việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trong thực tế là một vấn đề không đơn giản, đòi hỏi phải có sự hoạt động tích cực của cá cơ quan chuyên môn có thẩm quyền. Trong điều kiện Việt Nam đang ở trong giai đoạn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế theo xu hướng chung của thế giới thì pháp luật thuế nhập khẩu bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt là bị chi phối của các quan hệ kinh tế. Trong rất nhiều yếu tố chi phối đến pháp luật thuế nhập khẩu thì có một số yếu tố cơ bản như: chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước; những yêu cầu và cam kết trong hội nhập quốc tế; nhu cầu thu Ngân sách của Nhà nước; thực trạng kinh tế - xã hội của quốc gia.

Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam.

Thứ nhất, chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước.

Chính sách phát triển kinh tế của một số quốc gia là sự điều hành của nhà nước đối với nền kinh tế của một quốc gia. Chính sách kinh tế thực chất thể hiện thái độ, quan điểm của Nhà nước đối với các quan hệ kinh tế và được thể hiện thông qua hệ thống pháp luật. Pháp luật thuế nhập khẩu nằm trong hệ thống các chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế của quốc gia nên khi hệ thống này có sự thay đổi thì bản thân pháp luật thuế nhập khẩu cũng có sự thay đổi để phù hợp với toàn bộ hệ thống. Điều này thể hiện rõ nhất khi có sự thay đổi trong chính sách kinh tế đối ngoại.

Pháp luật thuế nhập khẩu thể hiện chính sách thương mại quốc tế của quốc gia. Chính sách thương mại gồm hai dạng điển hình là chính sách tự do hóa thương mại và chính sách bảo hộ mậu dịch. Hai xu hướng này tuy về mặt lý thuyết chúng trái ngược nhau nhưng trên thực tế chúng lại tồn tại song song với nhau. Chính sách tự do hóa thương mại nhằm thúc đẩy khả năng cạnh tranh bình đẳng giữa hàng hóa trong nước với hàng ngoại nhập thông qua việc cắt giảm thuế xuất khẩu hoặc các biện pháp khuyến khích khác để thúc đấy xuất khẩu, xóa bỏ hoặc cắt giảm thuế xuất khẩu để hàng hóa nước ngoài tràn vào nhằm mở rộng thị trường nội địa, đặc biệt là hàng hóa nước mình sản xuất với chi phí cao. Đây là quá trình giảm bớt sự can thiệp mang tính chất bảo hộ của nhà nước vào hoạt động thương mại, theo đó vai trò của nhà nước chỉ nên giới hạn ở việc tạo ra môi trường phù hợp cho các quan hệ thương mại. Chính sách bảo hộ mậu dịch lại bảo hộ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài bằng cách áp dụng thuế nhập khẩu cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu. Pháp luật thuế nhập khẩu có chức năng đặc thù là bảo hộ nần sản xuất trong nước, chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa nước ngoài. Nhưng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, xu hướng tự do hóa thương mại ngày càng trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới thì pháp luật thuế nhập khẩu cũng phải theo xu hướng giảm dần mức thuế suất. Như vậy pháp luật thuế nhập khẩu luôn bị ảnh hưởng của chính sách thương mại quốc tế trong quá trình hội nhập.

Thứ hai, những yêu cầu và cam kết trong hội nhập quốc tế.

Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX (năm 2001), Đảng ta nhận định: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh”. Như vậy, các quốc gia không thể đứng ngoài xu hướng toàn cầu hóa mà phải nắm bắt những cơ hội của nó để đưa đất nước nhanh chóng hội nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện qua việc một quốc gia tham gia vào các tổ chức hay liên minh kinh tế quốc tế giữa hai nước, trong khu vực hay trên thế giới. Sự tham gia đó được chứng nhận thông qua việc quốc gia tiến hành kí kết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương và quốc gia đó phải tuân thủ những điều ước đó một cách nghiêm túc ngay khi điều ước đó có hiệu lực. Để làm được điều này thì quốc gia thành viên phải xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp với quy chế của điều ước quốc tế đã kí kết. Luật thuế nhập khẩu là một bộ phận trong hệ thống pháp luật quốc gia, nó là loại thuế phản ánh rõ nhất tiến trình hội nhập của quốc gia đó nên khi xây dựng hệ thống pháp luật thuế nhập khẩu thì mỗi quốc gia phải “nội luật hóa” các cam kết quốc tế về thuế nhập khẩu bằng cách bổ sung, ban hành các quy định mới về thuế nhập khẩu hoặc sửa đổi những quy định cũ về thuế nhập khẩu để phù hợp với các cam kết đó.

Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ ngày 7/11/2006 và chính thức trở thành thành viên của WTO từ ngày 15/01/2007. Trước khi gia nhập tổ chức này, Việt Nam đã tiến hành cải cách hệ thống pháp luật (như Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi, bổ sung năm 2005 là một ví dụ) để tương thích với các quy chế của WTO. Sau khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật bổ sung, hướng dẫn thực hiện quy định pháp luật thời kỳ hậu WTO. Hội nhập mang lại nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức cho các quốc gia đang phát triển. Tự do hóa thương mại ở những mức độ khác nhau sẽ làm sẽ làm yếu đi hoặc mất dần các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, từ đó tác động sâu sắc đến những hoạt động liên quan đến những hàng rào thuế quan này, trong đó thuế nhập khẩu có vai trò quan trọng. Như vậy, những yêu cầu về hội nhập kinh tế quốc tế và việc thực hiện những cam kết thương mại quốc tế đã ảnh hưởng rất lớn đến hệ thống pháp luật trong đó có pháp luật thuế nhập khẩu.

Thứ ba, nhu cầu thu Ngân sách của Nhà nước

Ngân sách Nhà nước (NSNN) được ban hành để Nhà nước thực hiện việc điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội, đồng thời tạo ra các hành hóa, dịch vụ công cộng phục vụ cho người dân. Thuế, trong đó có thuế nhập khẩu là nguồn thu chủ yếu của NSNN. Thuế nhập khẩu tuy có chức năng chính là bảo hộ nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh của hành hóa nước ngoài nhưng đối với Việt Nam, một nước đang phát triển thì thuế nhập khẩu là một nguồn thu quan trọng của NSNN. Những số liệu về tỷ trọng của số thu hải quan so với tổng thu NSNN từ trong những năm qua đã thể hiện rõ điều đó (từ năm 2000 đến năm 2005, số thu hải quan luôn chiếm hơn 20% trong tổng thu NSNN). Khi hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam kí kết và thực hiện các cam kết về thương mại quốc tế, trong đó có những cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu. Việc cắt giảm này cũng gây ra những tác động đến nguồn thu NSNN. Khi thuế nhập khẩu bị cắt giảm, giá cả một số mặt hàng như máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu nhập khẩu từ nước ngoài cũng giảm theo. Từ đó những sản phẩm sản xuất trong nước cũng tăng lên về sản lượng và giảm giá thành. Việc hàng hóa trong nước tăng về số lượng và giảm về giá thành sẽ thúc đẩy nhu cầu mua sắm, tiêu dùng trong nước và làm tăng thu NSNN từ các loại thuế khác như thuế Giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp,… mặt khác, khi Việt Nam thực hiện các cam kết thương mại quốc tế thì nhứng nước thành viên khác cũng phải cắt giảm thuế quan, điều này sẽ kích thích các doanh nghiệp trong nước tăng lượng hàng xuất khẩu và từ đó sẽ tăng thu Ngân sách từ các hoạt động xuất khẩu đó. Như vậy việc cắt giảm thuế nhập khẩu sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước và tăng nguồn thu NSNN. Tuy nhiên việc giảm thuế nhập khẩu cũng làm cho nguồn hàng nhập khẩu trở nên dồi dào với giá thành thấp, từ đó đặt hàng hóa trong nước vào tình thế phải cạnh tranh khốc liệt với hàng hóa ngoại nhập. Các doanh nghiệp trong nước sẽ phải tăng cường năng lực sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng đồng thời hạ giá thành sản phẩm nếu như không muốn bị ra khỏi cuộc chơi. Việc cắt giảm thuế nhập khẩu cũng làm giảm đi một phần thu từ các loại thuế khác có liên quan đến nhập khẩu như thuế Giá trị gia tăng hàng nhập khẩu, thuế Tiêu thụ đặc biệt,… Như vậy việc cắt giảm thuế nhập khẩu vừa làm giảm nguồn thu NSNN từ hàng nhập khẩu nhưng đồng thời lại làm tăng nguồn thu tương ứng cho NSNN từ các loại thuế khác. Số thu NSNN sẽ không thay đổi nhiều nếu như Việt Nam thực hiện các cam kết thương mại quốc tế. Tuy nhiên sẽ có sự thay đổi trong cơ cấu thu NSNN. Vì vậy, khi tiến hành xây dựng chính sách pháp luật thuế nhập khẩu thì phải tính đến nhu cầu thu NSNN để bảo đảm cho ngân sách quốc gia có được nguồn thu ổn định, lành mạnh.

Thứ tư, thực trạng kinh tế - xã hội của quốc gia.

Pháp luật bao giờ cũng là sự phản ánh đối với hình thức pháp lý các quan hệ xã hội, một sự phản ánh lệ thuộc vào những biến đổi xã hội. Để phát huy được vai trò tác dụng của mình trong đời sống xã hội, pháp luật luôn phản ánh đúng, đầy đủ hiện thực khách quan, những tiến trình đang diễn ra trong đời sống xã hội. Nếu không có những kiểm soát, đánh giá từ thực tiễn cuộc sống thì không thể có cơ sở khoa học và thực tiễn xác đáng để xây dựng và thực hiện pháp luật, không phát huy được vai trò của nó trong cuộc sống.

Đối với pháp luật thuế nhập khẩu có mục tiêu quan trọng, là công cụ khuyến khích hỗ trợ, bảo vệ nền sản xuất trong nước. Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung bộ phận pháp luật này cần thiết căn cứ thực trạng phát triển của nền sản xuất trong nước, sức cạnh tranh của hàng hóa nước mình trên thị trường quốc tế. Trong điều kiện hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, các quốc gia phải cam kết giảm thuế quan theo lộ trình nhất định. Vì vậy, mỗi quốc gia cần phải nghiên cứu đánh giá những lợi thế so sánh trong từng ngành hàng cụ thể để xác định những ngành hàng sản xuất nào cần được bảo hộ, mức độ bảo hộ và thwoif hạn bảo hộ,… Đối với hàng hóa có uy tín trên trường quốc tế có khả năng cạnh tranh cao thì không cần sự bảo hộ mà lấy đó làm cơ sở cho việc đàm phán thương mại và quy định mức thuế đối với từng nhóm hàng hóa nhập khẩu trong pháp luật thuế nhập khẩu của mình. Từ thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa để phát hiện ra hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế và tác động cụ thể của nó đối với nền kinh tế quốc gia mình để từ đó ban hành sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật thuế nhập khẩu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như ys chí chủ quan của nhà lập pháp, trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu hay trình độ nhận thức của người dân…

Thực tiễn thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam trong thời gian qua

Từ khi Quốc hội ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 1991 (sửa đổi, bổ sung năm 1993 và 1998), Luật đã tạo ra môi trường pháp lý thống nhất, tạo cơ sở cho hoạt động thu, nộp thuế nhập khẩu tiến hành một cách hiệu quả, góp một khoản thu quan trọng cho NSNN, củng cố quan hệ kinh tế quốc tế giữa Việt Nam với các nước qua các thời kì. Tuy nhiên trải qua 13 năm thực hiện, Luật thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu đã bộc lộ nhiều thiếu sót, gây thất thu cho NSNN và ảnh hưởng đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong thời kì mới, nhất là khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập WTO.

Để khắc phục những điểm yếu đó, Quốc hội đã thông qua Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ngày 14.6.2005 và có hiệu lực từ ngày 1.1.2006. Thực tế thực hiện luật mới cho thấy: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 về cơ bản đã được xây dựng phù hợp với các nguyên tắc và chế định của pháp luật kinh tế quốc tế, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế đối ngoại và yêu cầu về thu NSNN. Luật đã có những quy định mới về đối tượng không chịu thuế và miễn thuế, về giá trị hải quan, kiểm tra hải quan tạo ra môi trường bình đẳng cho các loại hàng hóa nhập khẩu vào nước ta… Tuy nhiên trong những năm qua, việc thực thi Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng đã thể hiện một số điểm bất cập như sau:

Một là, có nhiều quy định còn chưa thống nhất, nhiều quy định của luât này còn gây khó hiểu như quy định về thuế suất thông thường là không quá 70% thuế suất ưu đãi. Điều này có thể làm cho người dọc hiểu là thuế suất thông thường chỉ nhỏ hơn hoặc bằng 70% thuế suất ưu đãi. Quy định này cũng đồng nghĩa là Bộ Tài Chính có thể áp dụng mức thuế suất trong khoảng từ 100% đến 170% so với thuế suất ưu đãi của loại hàng hóa tương ứng, nhưng theo Thông Tư 113/2005/TT – BTC của Bộ Tài Chính thì lại quy định mức thuế suất này bằng 150% thuế suất ưu đãi. Như vậy, việc áp dụng quy định này là chưa linh hoạt, chưa thực sự hợp lý với những loại hàng hóa nhập khẩu khác nhau.

�Hai là, hệ thống văn bản pháp luật chưa đầy đủ, gía trị pháp lý của các văn bản pháp luật cũng chưa tương xứng với các nội dung điều chỉnh. Trong tình hình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, phạm vi của các hoạt động thương mại là rất lớn, có nhiều loại hàng hóa nhập khẩu vào nước ta. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã có những quy định về các biện pháp về thuế bổ sung như thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa. Bảo hộ nền sản xuất trong nước là một nội dung quan trọng của pháp luật thuế nhập khẩu nhưng trên thực tế hiện nay Ủy ban Thường Vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về thuế tự vệ (năm 2002), Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá và Pháp lệnh về thuế chống trợ cấp, Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế. Chính phủ ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành nhưng có một số nghị định chưa phù hợp các Hiệp định của WTO nên trên thực tế thuế chống bán phá giá, thuế đỗi kháng, thuế chống phân biệt đối xử, thuế tự vệ chỉ mới tồn tại trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu chưa thế đưa vào áp dụng trong thực tiễn. Khi Việt Nam đã gia nhập WTO như hiện nay, nếu những quy định trên không được sửa đổi, bổ sung thì sẽ là một điều bất lợi lớn cho quá tình bảo hộ một cách hợp lý nền sản xuất trong nước.

Những quy định của pháp luật thuế nhập khẩu còn chồng chéo, gây khó khăn cho việc thực hiện và thực tế quản lý. Như quy định tại Điều 15 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 đã đề ra những thời hạn nộp thuế rõ ràng trong khi Khoản 1 Điều 28 Luật hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 lại quy định về kiểm tra, đăng kí hồ sơ hải quan lấy tiêu chí ý thức chấp hành tốt luật này là chính. Khi thực hiện việc thu thuế sẽ gây ra những chồng chéo, phức tập nhất định cho cả chủ thể nộp thuế và cơ quan thu thuế. Ngoài ra những quy định về bảo lãnh riêng cho hàng nhập khẩu là hàng tiêu dùng so với hàng hóa nhập khẩu khác cũng chưa thống nhất. Trong khi Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 đặt ra những điều kiện đối với những đối tượng hàng hóa nhập khẩu (Điều 15) thì Nghị định 149/2005/NĐ – CP ngày 8/12/2005 và Thông tư 113/2005/TT – BTC lại lấy tiêu chí chính là sự tuân thủ pháp luật của chủ thể nộp thuế.

�Ba là , những bất cập về những quy định mới về việc không truy thu đối với hàng hóa thuộc diện phải truy thu nếu chuyển nhượng lại cho các tổ chức, cá nhân thuộc diện miễn, xét miễn thuế (Khoản 1, Điều 21, Nghị định 149/2005/NĐ – CP hướng dẫn thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005). Quy định này có thể dẫn đến việc chủ thể nộp thuế sẽ câu kết với các tổ chức cá nhân thuộc diện này hoặc cán bộ hải quan làm hồ sơ giả để không bị truy thu thuế. Điều này sẽ gây thất thu cho NSNN.

Bốn là, có những quy định về khung pháp lý liên quan đến quy trình thu hải quan do các Bộ, ngành và Tổng cục hải quan ban hành còn chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn cho việc thực thi quy trình thủ tục tại cửa khẩu. Theo thống kê, tỉ lệ các văn bản do Tổng cục hải quan ban hành chỉ chiếm 20% tổng số các văn bản pháp quy mà cơ quan Hải quan tại cửa khẩu phải thực hiện. Bên cạnh đó, bộ hồ sơ hải quan hiện nay còn nặng nề, nhiều nội dung trùng lặp gây khó khăn cho cả doanh nghiệp và cán bộ hải quan. Bộ hồ sơ theo quy định hiện hành của Hải quan Việt Nam nhiều hơn bốn giấy tờ so với Công ước Kyoto, gồm: chứng thư giám thị, bản kê khai chi tiết hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa, tờ khai trị giá. Hay như quy định tại Khoản 1, Điều 15 Luật hải quan sủa đổi, bổ sung năm 2005 thì kiểm tra hải quan được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá việc chấp hành pháp luật của chủ hàng, mức độ rủi ro về vi phạm pháp luật hải quan để bảo đảm quản lý nhà nước về hải quan và không gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Quy định này cho thấy một hạn chế đó là việc kiểm tra hải quan phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan hải quan.

Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay.

Thứ nhất là định hướng hoàn thiện:

Hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu cần phải quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế, phải chủ động, tích cực hội nhập để phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đầy đủ cam kết của mình trong tiến trình hội nhập, từ đó nâng cao vị thế của Việt Nam trong quan hệ kinh tế quốc tế.

Hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu cần quan tâm đến vấn đề bảo đảm nguồn thu cho NSNN. Đây là chức năng quan trọng của thuế nói chung và thuế nhập khẩu nói riêng. Hàng năm thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đóng góp một tỉ trọng lớn vào tổng thu NSNN (khoảng 15%).

Hoàn thiện phá luật thuế nhập khẩu bảo đảm sự bảo hộ đúng đắn nền sản xuất trong nước. Bảo hộ sản xuất trong nước cũng là một trong những chức năng của thuế nhập khẩu. WTO có những ưu đãi về thuế nhập khẩu và các loại thuế nhập khẩu bổ sung. Việt Nam phải xây dựng lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu phù hợp để bảo hộ một cách hợp lý nền sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh khốc liệt của xu hướng toàn cầu hóa thương mại.

Hoàn thiện pháp luật thuế nhập khẩu phải hướng tới một hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, có tính ổn định cao, minh bạch, thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nước và quốc tế.

Thứ �ail à các giải pháp cụ thể gồm:

Ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật cho phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế.

Hoàn thiện các biện pháp tổ chức và bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về thuế nhập khẩu.

Hoàn thiện các biện pháp tổ chức và bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam về thuế nhập khẩu.

Như vậy, vấn đề thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở nước ta trong những năm qua còn không ít những phức tập nhất định, đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền và nhà nước phải nhanh chóng có những chính sách phù hợp nhằm bảo đảm sự ổn định của vấn đề thuế quan nói riêng và ổn định kinh tế, thì trường nói chung.

KẾT LUẬN

Trong những năm qua, cùng với việc sửa đổi, bổ sung và ban hành, áp dụng mới các sắc thuế nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, pháp luật về thuế nói chung và thuế nhập khẩu nói riêng đã từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Như chúng ta biết pháp luật thuế nhập khẩu phản ánh rõ nhất mức độ hội nhập và sự bảo bộ của nhà nước đối với nền kinh tế. Vì vậy cần thiết phải xây dựng hoàn thiện thuế nhập khẩu để có thể bảo hộ đúng mức hợp lý dựa trên năng lực canh tranh của nền kinh tế đồng thời đảm bảo thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và các cam kết quốc tế của mình để đảm bảo cho việc hội nhập quốc tế hiện nay đạt hiệu quả cao nhất, giữ vững, ổn định và phát triển nền kinh tế đất nước trong thời đại mới.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình “Luật Thuế Việt Nam”, NXB. Tư Pháp, Hà Nội – 2005.

La Thị Tuyết Anh, Khóa luận tốt nghiệp, Pháp luật Thuế Nhập Khẩu ở Việt Nam trong điều kiện họi nhập kinh tế quốc tế, Hà Nội – 2007.

Thuế Xuất Nhập Khẩu – Biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu Tổng hợp thuế giá trị gia tăng, NXB. Lao Động – Xã Hội.

Hỏi đáp về Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, NXB. Lao Động, Hà Nội – 2005.

Các quy định pháp luật về chế độ, chính sách xuất nhập khẩu, NXB. Thống kê.

No comments:

Post a Comment