09/09/2014
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam năm 2013
Bài tập học kỳ Luật Tài chính 9 điểm.

Tính đến năm 2013, thuế giá trị gia tăng (GTGT) chiếm 26% tổng thu ngân sách, trong khi thuế Thu nhập doanh nghiệp và thuế Thu nhập cá nhân đã giảm mức động viên, nên sắc thuế gián thu này có vai trò ngày càng quan trọng trong tổng thu ngân sách nhà nước. Cùng với sự biến động của nền kinh tế đất nước nguồn thuế này trong năm 2013 cũng xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực trong đó hiện tượng gian lận về hoàn thuế giá trị gia tăng xảy ra gần đây gợi lại tình trạng tương tự trong thời gian đầu áp dụng thuế GTGT ở nước ta. Hoàn thuế GTGT quả thực là một trong những vấn đề nan giải nhất đối với công tác quản lý thuế. Để tìm hiểu rõ các nguyên nhân của hiện tượng này cũng như tìm hiểu rõ hơn các yếu tố ảnh hưởng đến thuế GTGT, em xin chọn để tài: " Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam năm 2013 và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế GTGT"

B. NỘI DUNG CHÍNH

I. KHÁI QUÁT CHUNG: 

1.  Khái niệm thuế GTGT 

Thuế là phạm trù được biết đến từ thời kỳ đầu của lịch sử nhà nước với những biểu hiện khác nhau và phát triển cùng sự phát triển của nhà nước. Trong lịch sử Việt Nam đã từng tồn tại nhiều loại thuế như thuế thân, thuế  hộ, thuế điệu, thuế thổ sản,.... Trong các loại thuế hiện nay thì thuế GTGT là thuế có nguồn gốc từ thuế doanh thu và được ban hành đầu tiên tại Pháp  năm 1954. Thuế GTGT theo như quy định tại điều 2 Luật thuế GTGT của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2008 sửa đổi năm 2013 thì “Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”. Như  vậy, bản chất của thuế GTGT là một loại thuế gián thu. Các nhà sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng  mới là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa dịch vụ.  

2.  Đặc điểm của thuế GTGT 

Là một loại thuế độc lập nên thuế GTGT cũng có những đặc điểm riêng biệt để phân biệt nó với các loại thuế khác như sau: 

Một là thuế GTGT có đối tượng chịu thuế rất lớn. Đó là mọi đối tượng tồn tại trong xã hội, kể cả cá nhân và tổ chức đều phải chi trả thu nhập của mình để thụ hưởng kết quả sản xuất kinh doanh tạo ra cho xã hội. Việc đánh thuế  trên phạm vi lãnh thổ với mọi đối tượng thể hiện sự công bằng của thuế, đồng thời thể hiện thái độ của Nhà nước đối với các loại tiêu dùng trong xã hội. Đối với trường hợp cần khuyến khích tiêu dùng hoặc hạn chế việc trả tiền thuế của người tiêu dùng, Nhà nước sẽ không đánh thuế hoặc đánh thuế với mức thuế suất thấp nhất.  

Hai là thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ. Việc đánh thuế chỉ trên phần giá trị tăng thêm mà không phải đối với toàn bộ giá trị hàng hóa dịch vụ làm cho số thuế GTGT áp dụng trong mỗi khâu của quá trình lưu thông không gây ra những đột biến về giá cả cho người tiêu dùng. Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt thuế GTGT với những loại thuế gián thu khác. Nếu như thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ đánh một lần ở khâu sản xuất hay nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ; thuế xuất - nhập khẩu chỉ đánh ở khâu xuất hoặc nhập khẩu thì thuế GTGT lại đánh ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa. 

Ba là, nếu dựa trên giá mua cuối cùng của hàng hóa dịch vụ, số thuế GTGT phải nộp không thay đổi phụ thuộc vào các giai đoạn lưu thông khác nhau. Đánh thuế ở tất cả các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa trong nước, nhập khẩu và lưu thông hàng hóa nhập khẩu nhưng cơ sở xác định số thuế phải nộp chỉ là phần giá trị mới tăng thêm của khâu sau so với khâu  trước  nên  nếu  coi  giá  thanh  toán  tính  đến  khi  người  tiêu  dùng  thụ hưởng hàng hóa dịch vụ đã xác định trước và không thay đổi, các phần giá trị hàng hóa, dịch vụ có bị chia nhỏ và đánh thuế, tổng số thuế GTGT phải nộp qua các khâu chính là số thuế cuối cùng tính trên tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ mà người tiêu dùng phải gánh chịu. 

II.  Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT    

1. Các yếu tố khách quan. 

a) Đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước 

Bản chất của thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Vì vậy, Thuế GTGT là sự thể chế hóa các chính sách mà Đảng, Nhà nước đề ra; được quy định nhằm phục vụ chính sách phát triển kinh tế và chính sách thuế ở Việt Nam. Xuất phát từ mục đích này mà  việc thực thi pháp luật thuế GTGT chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. 

Hiện nay, chiến lược  phát  triển  kinh tế-  xã  hội  mà  Đảng  đề  ra  trong  giai  đoạn 2011 – 2020 là: Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau. "

Tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII đã xác định mục tiêu kinh tế tổng quát của năm 2013 là: “Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012. Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng...”, với tốc độ tăng GDP khoảng 5,5% và kiểm soát CPI dưới 8%."

Muốn thực hiện được chiến lược trên thì Nhà nước ta phải có một chính sách thuế  GTGT hợp lý. Chính sách đó vừa phải đảm bảo nguồn thu cho Nhà nước vừa “vừa sức” với người tiêu dùng nói chung. Hiện nay, quy định hiện nay của Luật thuế GTGT 2008 đã thể hiện khá tốt việc thể chế hóa chiến lược phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước. Bên cạnh ban hành các mức thuế suất hợp lý thì việc quy định 25 nhóm đối tượng không chịu thuế GTGT cũng là một ví dụ thể hiện sự thể chế hóa này: 

- Để phát triển, nâng cao trình độ internet, viễn thông cho người dân: quy định đối tượng không chịu thuế là dịch vụ bưu chính, viễn thông công ích và In-ter-net phổ cập theo chương trình của Chính phủ. (Khoản 10, Điều 5 Luật thuế GTGT 2008). 

- Để thúc đẩy phát triển nông nghiệp: quy định đối tượng không chịu thuế là tưới, tiêu nước; cày, bừa đất; nạo vét kênh, mương nội đồng phục vụ sản xuất nông nghiệp; dịch vụ thu hoạch sản phẩm nông nghiệp. (Khoản 3, Điều 5, Luật thuế GTGT 2008). 

- Thúc  đẩy  việc  sử  dụng  các  phương  tiện  giao  thông,  công  cộng:  Vận chuyển hành khách công cộng bằng xe buýt, xe điện. (Khoản 16 Điều 5, Luật 
thuế GTGT 2008).v.v.. 

Giả  sử,  nếu  pháp  luật  không  có  những  quy  định  về  các  đối  tượng  không chịu thuế như trên, mà Nhà nước vẫn yêu cầu thực hiện thành công các chiến lược quốc gia, thì chắc chắn, việc thực thi thuế GTGT sẽ kém, không đạt hiệu quả cao. 

b. Thực trạng nền kinh tế nước ta năm 2013

Các nhà khoa học kinh tế cho rằng: thuế GTGT là 1 trong những đặc điểm riêng có của một nền kinh tế phát triển, quản lý theo cơ chế thị trường. Thuế GTGT được tính và thu qua mỗi lần chuyển giao hàng hoá và cung cấp dịch vụ trong quá trình sản xuất lưu thông đến tiêu dùng. Ở đâu, khi nào các hoạt động chuyển giao hàng hoá và cung cấp dịch vụ diễn ra một cách sôi động thì ở đó, khi đó có khả năng thu thuế GTGT lớn và ngược lại. Bởi thuế có nguồn gốc từ giá trị thặng dư của xã hội, nên nền kinh tế phát triển, hoạt động sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp ổn định, có hiệu quả và thực hiện quản lý theo cơ chế thị trường là điều kiện quan trọng nhất để áp dụng thuế GTGT. 

Năm 2013 là năm thứ 6, Việt Nam rơi vào trì trệ, tăng trưởng dưới tiềm năng. Đây cũng là giai đoạn bất ổn kinh tế vĩ mô kéo dài nhất, tính từ đầu thập niên 1990 đến nay

Bước vào năm 2013, tuy tình hình có cải thiện hơn, nhưng về cơ bản nền kinh tế đang đối diện với 4 thách thức ngắn hạn như sau :

Thứ nhất, nguy cơ tái lạm phát cao kèm theo sự trì trệ của thị trường sẽ làm cho tình hình khó khăn thêm. Mặc dù CPI 8 tháng đầu năm 2013 chỉ tăng 3,53% so với tháng 12/2012, nhưng nguy cơ lạm phát vẫn “rình rập” khi mà nguyên nhân bên trong của nền kinh tế chưa được giải quyết.

Thứ hai, tình hình nợ xấu chưa được cải thiện, nên dòng tín dụng vẫn bị tắc nghẽn, nền kinh tế không hấp thụ được vốn. Tình trạng thừa tiền, thiếu vốn còn kéo dài. Khả năng tiếp cận vốn của DN vẫn còn khó khăn, nhất là DN vừa và nhỏ.

Thứ ba, khả năng kéo giảm lãi suất cho vay không nhiều; khó đáp ứng sự mong đợi của DN, do hoạt động kém hiệu quả của DN lẫn hệ thống ngân hàng thương mại. Nếu lạm phát kỳ vọng cả năm là 7%, thì việc kéo giảm lãi suất tiết kiệm tiền gửi có kỳ hạn không còn nhiều dư địa và lãi suất cho vay vẫn còn khá cao, đặc biệt là lãi suất vay trung - dài hạn. Điều này sẽ không kích thích được các DN đang có thị trường mở rộng đầu tư và vẫn là nguy cơ làm tăng nợ xấu đối với những DN đang nỗ lực phục hồi sản xuất.

Thứ tư, những nỗ lực để làm “ấm” thị trường bất động sản chưa thể mang lại kết quả, nên thanh khoản của thị trường này khó được cải thiện. Gói hỗ trợ lãi suất 30.000 tỷ đồng để hỗ trợ thị trường bất động sản cho đến nay chưa mang lại kết quả đáng kể. Một khi thanh khoản của thị trường bất động sản chưa cải thiện, thì việc xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại cũng sẽ khó khăn.

Cộng với đó là, trong năm 2013 tình hình kinh tế thế giới còn diễn biến thất thường, có tác động bất lợi đối với những nền kinh tế có độ mở lớn như nền kinh tế Việt Nam.

Tình hình kinh tế khó khăn khiến cho việc thực thi pháp luật thuế GTGT sẽ có thể tiển theo chiều hướng xấu. Lúc đó, sự làm ăn gặp nhiều khó khăn hơn thì có thể lợi nhuận,  tiền bạc mới là cái mà các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu, dẫn đến việc trốn thuế. Từ khó khăn về kinh tế trên nên đòi hỏi chính phủ phải có những chính sách về thuế GTGT phù hợp. Cụ thể, Chính phủ tiếp tục thực hiện biện pháp hoãn thời hạn nôp thuế, gia hạn thêm thời gian nộp thuế giá trị gia tăng, miễn giãm thuế... Tại Kỳ họp thứ 5 (tháng 5-6/2013), Quốc hội đã sửa đổi một số điều của Luật Thuế thu nhập DN và Luật Thuế giá trị gia tăng nhằm miễn giảm thuế cho một số đối tượng để kích thích thị trường và giảm khó khăn cho DN. Áp dụng thuế suất thu nhập DN là 22% từ tháng 1/2014 và 20% từ tháng 01/2016 để khuyến khích DN mở rộng đầu tư, giảm 50% thuế giá trị gia tăng cho nhà giá thấp….

c. Chi phối bởi yêu cầu thu ngân sách Nhà nước. 

Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. Thuế GTGT là một trong những loại thuế giữ vai trò này. Hiện nay, nguồn thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chịu sức ép của quan hệ “mua bán sòng phẳng”,“có vay, có trả”, thuế GTGT phải là công cụ quan trọng góp phần tích cực giảm bội chi ngân sách, giảm lạm phát, ổn định kinh tế - xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển đất nước lâu dài. Vì vậy, yêu cầu thu ngân sách nhà nước là một yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực thi pháp luật thuế GTGT. Điều này thể hiện ở một số điểm sau: 

Thứ nhất, nhu cầu thu về thuế gián thu. Ở Việt Nam hiện nay, đa số các nguồn thu đều xuất phát từ thuế gián thu. Thuế GTGT là một loại thuế gián thu. Vì vậy, đối với các tổ chức thu thuế, việc thu loại thuế này khá dễ dàng, không vấp phải sự phản đối của nộp, cũng như người chịu thuế. 

Thứ hai, nhu cầu thu của Nhà nước về thuế. Một nhà nước cần một nguồn thu lớn để vận hành bộ máy nhà nước và thực hiện những công việc của đất nước thì các loại thuế sẽ được đặt ra càng nhiều. Mặt khác, nếu nhu cầu thu cao thì nhà nước cần phải thiết lập một bộ máy thực thi việc thu thuế có hiệu quả, từ đó cũng phần nào tránh được việc trốn thuế, gian lận thuế. Tuy nhiên, cũng không thể tránh khỏi trường hợp, nếu nhà nước quy định quá nhiều mức thuế cao trong luật thuế GTGT thì người dân sẽ khó mà có thể thực thi đúng đắn được. 

d. Hệ thống pháp luật 

Một trong những yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến việc thực thi pháp thuế GTGT là hệ thống pháp luật. Để thực thi pháp luật thuế GTGT đạt hiệu quả cao trên thực tế đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn thiện, hoặc tương đối hoàn thiện, nghĩa là hệ thống pháp luật đó phải đảm bảo tính toàn diện (đầy đủ), tính đồng bộ (không trùng lắp, chồng chéo), tính phù hợp (không cao quá hoặc thấp quá so với trình độ phát triển của KT-XH) và tính kỹ thuật pháp lý cao. Ngược lại, pháp luật thuế GTGT còn thiếu các quy định cần thiết, còn nhiều bất cập với thực tế thì không thể thực thi pháp luật thuế GTGT hoặc việc thực thi không đạt hiệu quả cao, gây ra nhiều hậu quả xấu, làm phát sinh nhiều vướng mắc, giảm hiệu quả của pháp luật thuế GTGT. Trước tình hình một số doanh ngiệp(DN) lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để trục lợi từ việc hoàn thuế gây rối loạn thị trường Bộ Tài chính đã có Công văn số 7527/BTC-TCT ngày 12/6/2013 và Công văn 9345/BTC-TCT ngày 19/7/2013, về việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế đối với các DN có dấu hiệu rủi ro cao về thuế. Tuy nhiên, việc triển khai lại làm nảy sinh một số vướng mắc. Theo phản ánh của DN và hiệp hội, DN xuất khẩu thường mua hàng qua nhiều tầng nấc trung gian nên rất khó để kiểm tra những người bán hàng trước. Nếu có kiểm tra thì cũng tốn rất nhiều thời gian, khiến việc hoàn thuế bị chậm trễ.

Sau nhiều kiến nghị, thảo luận với những phương án đề xuất, ngày 15/10/2013 Bộ Tài chính có Văn bản số 13706/BTC-TCT hướng dẫn một số nội dung về hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT), trách nhiệm của cơ quan thuế trong công tác quản lý thuế đối với các DN kinh doanh, tổ chức mua nông, lâm, thủy, hải sản để bán cho DN sản xuất, chế biến, kinh doanh xuất khẩu... được xem như đã “cởi trói” cho DN.

Cụ thể đối với hồ sơ hoàn thuế GTGT của DN thuộc danh sách “DN xuất khẩu uy tín” năm 2012-2013 do Bộ Công Thương công bố tại Quyết định 2390/QĐ-BCT ngày 15/4/2013 và Quyết định số 4169/QĐ-BCT ngày 24/6/2013 cả trường hợp DN xuất khẩu mặt hàng không phải mặt hàng được công nhận trong danh sách “DN xuất khẩu uy tín” và trường hợp Chi nhánh DN hạch toán phụ thuộc thực hiện xuất khẩu cơ quan thuế thực hiện hoàn thuế trước, kiểm tra sau theo quy định. Thực hiện hoàn thuế trước, kiểm tra sau đối với các DN xuất khẩu nông, lâm, thủy, hải sản đã hoạt động sản xuất, kinh doanh từ 24 tháng tính đến ngày phát sinh hồ sơ hoàn thuế không bị xử phạt về gian lận thuế, trốn thuế gồm tất cả các sắc thuế theo quy định của pháp luật.

Hệ thống thuế GTGT vẫn còn nhiều quy định không phù hợp với thực tiễn làm cho quá trình thực thi luật này không đạt hiệu quả cao. Luật thuế GTGT 2008 quy định có hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT. Phương pháp khấu trừ thuế được áp dụng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trừ những đối tượng phải nộp thuế theo phương pháp trực tiếp được quy định trong luật thuế GTGT, như các cá nhân SXKD, các tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt Nam không theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế; cơ sở kinh doanh mua bán vàng bạc, đá quý. Về bản chất, phương pháp tính trực tiếp là phương pháp tính thuế trên cơ sở GTGT, nó đòi hỏi phải tính trực tiếp được phần GTGT (các chi phí đầu tư thêm) của hàng hoá dịch vụ phát sinh trong từng giai đoạn luân chuyển từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Đây là việc làm phức tạp tốn nhiều công sức và rất khó xác định, vì vậy, hiện nay Luật thuế GTGT quy định việc xác định phần GTGT của hàng hoá dịch vụ theo một cách đơn giản và cũng chỉ mang tính ước lệ: Giá trị gia tăng bằng giá trị thanh toán của hàng hoá dịch vụ bán ra trừ giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ mua vào tương ứng. Giá thanh toán của hàng hoá dịch vụ bán ra, mua vào gồm giá bán cộng thuế GTGT. Như vậy, ở đây giá tính thuế của phương pháp trực tiếp không phải là giá chưa có thuế GTGT như đã dẫn ở trên mà là giá đã bao gồm cả thuế GTGT, do đó đã gây ra sự bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế, rõ ràng những đơn vị phải xác định nghĩa vụ thuế GTGT theo phương pháp này sẽ ở vào vị thế bất lợi hơn, trong khi đó họ thường là những chủ thể kinh doanh có ít vốn, phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ. Ở đây pháp luật thuế GTGT không đảm bảo được nguyên tắc dù tính thuế theo phương pháp nào thì các đối tượng có hoạt động kinh doanh như nhau, áp dụng thuế suất như nhau với mặt bằng giá giống nhau thì phải nộp thuế như nhau. Việc phân định “giá trị tăng thêm”, “giá trị đầu vào”, “giá trị đầu ra”, xét dưới góc độ tính thuế, hạch toán thuế và thu thuế là không có ý nghĩa thực tế, vì vậy việc quy định hai phương pháp tính thuế GTGT đã phần nào gây ra sự bất ổn và chưa thực tế.  

Ngoài ra luật thuế GTGT còn quy định ứng với hai phương pháp tính thuế có hai loại hoá đơn tương ứng đó là hoá đơn GTGT (dùng cho đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ) và hoá đơn bán hàng (dùng cho đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp). Hoá đơn GTGT là căn cứ pháp lý xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ, hoá đơn bán hàng không được coi là căn cứ pháp lý xác định số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Mặc dù chúng đều là hoá đơn hợp pháp do BTC phát hành. Thực tế thực hiện giá tính thuế GTGT ở nước ta hiện nay nổi cộm vấn đề giá ghi trong hoá đơn chứng từ thường thấp hơn rất nhiều so với giá thực bán đặc biệt đối với các mặt hàng tiêu dùng mà trong đó tiêu biểu là mặt hàng xe máy. Với thủ thuật “đao giá” này tất cả các DNTN cũng như CTTNHH kinh doanh xe máy đóng trên địa bàn Hà Nội không có DN nào có lãi nên họ vừa không phải nộp thuế thu nhập DN vừa lại được hoàn thuế GTGT vì giá đầu vào bao giờ cũng cao hơn giá đầu ra. Trong khi đó người tiêu dùng lại hoàn toàn thờ ơ về vấn đề này, bởi họ thấy rằng việc lấy hoá đơn hay không lấy hoá đơn khi mua hàng, hoá đơn ghi cao hơn hay thấp hơn giá thực tế mà họ phải trả cũng không ảnh hưởng gì đến quyền lợi của mình. Đây chính là “cơ hội vàng” cho những cơ sở kinh doanh làm ăn không chân chính để trốn thuế, lậu thuế.  

2. Yếu tố chủ quan:

2.1. Trình độ quản lý của cơ quan thuế, cán bộ thuế.  

Thuế GTGT là thuế gián thu, đánh trên bình diện rộng, mang bản chất liên hoàn có cơ chế vận hành phức tạp nên đòi hỏi một trình độ quản lý cao ở cán bộ thuế và phương tiện quản lý hiện đại ở cơ quan thuế, phải có hệ thống máy tính nối mạng, đủ khả năng để quản lý, kiểm soát hoạt động của các đối tượng nộp thuế. Bởi, nếu cán bộ thuế không có trình độ tương xứng để quản lý các hành vi chuyển giao thuế GTGT giữa các chủ thể kinh doanh thì khó lòng đảm bảo nguồn thu cho NSNN. Có thể thấy rằng cơ sở hạ tầng, phương tiện vật chất kĩ thuật của quá trình thực thi pháp luật thuế GTGT có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả thực hiện luật này trên thực tế. Nếu các cơ quan thuế được trang bị đầy đủ các phương tiện kĩ thuật hỗ trợ đắc lực cho quá trình làm việc thì quá trình thu thuế, kê khai thuế, hoàn thuế… được thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác. Nếu các phương tiện quá lạc hậu, điều kiện cơ sở vật chất không đáp ứng đầy đủ cho các cán bộ thuế làm việc sẽ hạn chế tính chính xác, ảnh hưởng tới tâm lí của cán bộ thuế. Từ đó dẫn tới hiệu quả làm việc không cao. Không gian của hoạt động kinh doanh thường rộng lớn. Một doanh nghiệp ở Cà Mau có thể mua bán với các doanh nghiệp ở Lạng Sơn, Gia Lai hoặc Bình Phước, và cũng có thể xuất khẩu thông qua nhiều cửa khẩu. Vì vậy, thông tin về lô hàng của từng đợt xuất nhập khẩu phải được phối kiểm trên phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại một địa phương. Trong khi đó, thời gian xét hoàn thuế lại ngắn, nên cơ quan thuế không đủ sức thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng như lai lịch của các bên có liên quan. Điều này dễ gây ra những sai sót không chủ ý và xảy ra những sai lệch khi hoàn thuế. Ngay công tác kiểm tra sau thông quan cũng khó mang lại kết quả tốt vì thiếu hệ thống điện toán toàn diện, thiếu máy kiểm tra chuyên dùng, camera, cân điện tử,... Khi công cuộc cải cách hành chính thuế được thực hiện thì công nghệ tin học sẽ được ứng dụng mạnh mẽ và đòi hỏi chất lượng cao, nhưng thực tế hiện nay công tác triển khai và ứng dụng còn nhiều khó khăn và bất cập. Cục thuế chưa thành lập phòng hoặc tổ máy tính mà hoạt động chung với phòng kế hoạch – kế toán – thống kê với số lượng khoảng từ 2 đến 3 cán bộ nên công việc hết sức vất vả nhất là đối với các tỉnh có địa bàn hành chính rộng, có số thu lớn và có nhiều Chi cục trực thuộc ở cách xa. Hơn nữa, hầu hết đội ngũ cán bộ Chi cục làm công tác máy tính được chuyển từ các bộ phận khác sang nên việc sử dụng máy tính còn nhiều hạn chế, dễ gây sai sót trong việc quản lý thuế. Về trang thiết bị máy tính các cơ quan quản lý thuế được cung cấp tương đối đầy đủ, song sự phân phối thiết bị mang tính chất cào bằng, ở những địa phương có  địa bàn rộng, số thu lớn cần máy tính nhiều thì không đủ máy tính, còn những địa bản số thu ít lại thừa máy tính hoặc sử dụng không đúng mục đích hoặc phát huy không hết tính năng của máy tính dẫn đến sự khập khiễng lớn trong việc sử dụng máy tính. Các phần mềm ứng dụng trong công tác truyền tin ở một số nơi được sử dụng chưa có hiệu quả, chức năng truyền tin hiện nay chỉ thực hiện để truyền dữ liệu mã số thuế và báo cáo nhanh từ Chi cục thuế về TCT, còn lại công việc truyền dữ liệu từ Chi cục thuế về Cục hầu như chưa được thực hiện, có chăng chỉ là trao đổi thư từ hoặc sử dụng phần mềm FPT để sao chép phần mềm đơn thuần. Trang Website Taxweb quản lý văn bản theo tiêu chuẩn Internet trong ngành không được cập nhật thường xuyên nên chỉ mang tính hình thức không phát huy hiệu quả trong công tác triển khai các chính sách, văn bản theo đúng nghĩa nhanh chóng, cập nhật. Có một số địa phương dù đã được trang bị đầy đủ máy tính cấu hình cao, modern truyền tin nhưng ít khi thực hiện việc thông tin theo đường truyền tin. Công tác đào tạo cán bộ làm công tác tin học những năm trở lại đây tuy đã được TCT quan tâm nhưng chất lượng chưa cao, nhiều khoá học chỉ mang tính chất giới thiệu chương trình không đi sâu thực tế nên việc ứng dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn còn khó khăn. 

Trình độ quản lý chưa tương xứng với yêu cầu của công tác quản lý nên các cơ quan quản lý bị các doanh nghiệp “qua mặt” một cách dễ dàng; thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng như giữa cơ quan đăng kí kinh doanh với cơ quan thuế, giữa cơ quan thuế với cơ quan hải quan, giữa cơ quan thuế, cơ quan hải quan với cơ quan công an…  nên không phát hiện được và ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận thương mại hoàn lậu thuế. 

Trình độ chuyên môn của cán bộ thuế cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực thi luật thuế GTGT có hiệu quả hay không. Nếu các cán bộ thuế có trình độ chuyên môn tốt, có kinh nghiệm trong quá trình quản lý và thực thi luật thuế GTGT, hiểu chính xác về các quy định của pháp luật từ đó có thể áp dụng đúng, khoa học và đầy đủ trong thực tế. Ngược lại, nếu cán bộ thuế có trình độ chuyên môn không tốt sẽ dẫn tới hiểu sai và áp dụng không đúng các quy định pháp luật trong thực tế, tạo điều kiện cho các đối tượng nộp thuế trốn thuế, lậu thuế. Mặt khác không chỉ trình độ chuyên môn mà phẩm chất, đạo đức của các cán bộ thuế cũng ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình thực thi luật thuế GTGT. Những món lợi về thuế thường có giá trị lớn, nếu cán bộ thuế không có phẩm chất đạo đức tốt, không trung thực, làm việc có trách nhiệm thì rất dễ bị cám dỗ bởi những khoản lợi ích vật chất to lớn, dẫn tới cấu kết với đối tượng nộp thuế để trốn thuế, lậu thuế. Hiện nay, chúng ta thấy rằng ngay cả những cán bộ ở Tổng cục thuế vẫn còn một số nhận thức chưa chính xác về quy định pháp luật thuế GTGT, dẫn tới đưa ra những hướng dẫn chưa đúng đắn. Chẳng hạn, theo hướng dẫn của Tổng cục Thuế thì thuế suất GTGT đối với một số dịch vụ mà các cơ sở kinh doanh nội địa cung cấp cho doanh nghiệp chế xuất như: dịch vụ vận chuyển hàng hoá từ cảng vào khu phi thuế quan và ngược lại; dịch vụ khai thuế hải quan, dịch vụ xếp dỡ container từ bến bãi cảng lên tàu và ngược lại… được hưởng mức thuế suất 0%. Nhưng, việc Tổng cục Thuế gom tất cả các loại phí của dịch vụ xuất nhập khẩu vào chung với dịch vụ vận chuyển là chưa hợp lý, không đúng với quy định về ngành kinh tế do Thủ tướng Chính phủ ban hành, gây khó khăn cho hoạt động chung của các doanh nghiệp chế xuất cũng như các doanh nghiệp trong nước cung cấp các sản phẩm dịch vụ này.  

2.2. Ý thức chấp hành của người dân:

Sự lợi dụng chính sách của các chủ thể sản xuất, kinh doanh và thói quen tiêu dùng của người dân Chính sách thuế giá trị gia tăng chủ yếu bị lợi dụng là hoàn thuế. Các doanh nghiệp thường khai khống hóa đơn bán hàng để làm sai lệch thuế giá tính thuế giá trị gia tăng. Giá ghi trong hóa đơn chứng từ thường thấp hơn rất nhiều so với giá bán thực tế, đặc biệt là các mặt hàng tiêu dùng. Ví dụ thường gặp đó là các đại lý bán xe máy. Nhờ vào thủ đoạn này, các doanh nghiệp luôn ở trong tình trạng thua lỗ trên giấy tờ - không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp lẫn thuế giá trị gia tăng. Trong khi đó, người tiêu dùng hầu như không quan tâm đến vấn đề này vì họ chỉ cần biết giá thực tế họ mua được là bao nhiêu. Việc làm này của người tiêu dùng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trốn thuế, vừa nhận được một khoản lợi bất chính từ việc hoàn thuế của nhà nước, do giá đầu vào thường được khai cao hơn giá đầu ra. Đối với hàng hóa xuất khẩu hoặc một số hàng hóa được áp dụng mức thuế 5%, các doanh nghiệp có thể lợi dụng sự ưu đãi này trong việc khai khống bản kê mua bán hàng hóa là nông lâm thủy sản chưa qua chế biến của người bán không có hóa đơn để chiếm đoạt tiền khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng; lập hồ sơ khống hàng nông, lâm, thủy sản chưa qua chế biến xuất khẩu qua đường biên giới đất liền để chiếm đoạt tiền hoàn thuế... Việc sử dụng hóa đơn, chứng từ là công cụ để tính toán thuế giá trị gia tăng cũng bị lợi dụng bởi việc mua bán hóa đơn chứng từ giả bởi các “doanh nghiệp ma”. Với những hóa đơn này, giá đầu vào của các doanh nghiệp được đội lên rất lớn. Nhà nước không những không thu được thuế vào ngân sách mà còn phải trích ngân sách để hoàn thuế giá trị gia tăng cho các doanh nghiệp làm ăn phi pháp. Điều này là một trong những yếu tố làm hạn chế tính cạnh tranh lành mạnh của thị trường, và hạn chế khả năng phát triển của các doanh nghiệp chân chính.

III. Giải pháp hoàn thiện pháp luật thuế giá trị gia tăng 

1.  Hoàn thiện hệ thống pháp luật:

Nâng cao hiệu quả trong việc thực thi pháp luật thuế giá trị gia tăng ở Việt NaM. Hoàn thiện pháp luật Pháp luật thuế giá trị gia tăng hiện nay đã được coi là một thành công trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Năm 2014, Luật thuế GTGT sửa đổi bổ sung năm 2013 sẽ có hiệu lực và đi vào thực tế với nhiều sửa đổi, bổ sung như: sửa đổi bổ sung 1 số đối tượng không chịu thuế, quy định thêm giá tính thuế, thuế suất....

Sang đầu năm 2013, do tình hình chiếm dụng tiền hoàn thuế GTGT đối với hàng nông sản xuất khẩu qua biên giới Tây Nam diễn ra phức tạp, Bộ Tài chính đã có công văn số 7527/BTC-TCT yêu cầu Cục Thuế các tỉnh, TP tăng cường kiểm tra trước khi hoàn thuế đối với các trường hợp có rủi ro cao. Trong quá trình triển khai thực hiện, với nội dung phản ánh đa chiều của cộng đồng DN, ngày 15/10/2013 Bộ Tài chính đã ban hành công văn 13076/BTC-TCT để tháo gỡ vướng mắc về thủ tục hồ sơ hoàn thuế GTGT, nhất là việc hoàn thuế đối với hàng nông sản.

Vậy, thuế GTGT của nước ta sắp tới nên đi theo hướng nào? Nhiều chuyên gia cho rằng, hướng đi của thuế GTGT nên tiếp cận theo 2 chỉ dẫn chủ yếu: vừa củng cố vai trò tạo lập nguồn thu cho ngân sách của thuế GTGT, vừa phù hợp với khả năng quản lý thuế. Muốn thế, cần duy trì xu hướng siết chặt điều kiện khấu trừ, hoàn thuế GTGT để giảm bớt hoàn thuế, củng cố nguồn thu quan trọng cho ngân sách và tập trung phát triển năng lực thanh tra thuế để đáp ứng yêu cầu quản lý thuế, vì thực tiễn cho thấy, thuế GTGT thực sự hoạt động hiệu quả khi dựa trên nền tảng cơ chế tự khai và sự vững mạnh của thanh tra, kiểm tra thuế.

2. Tăng cường ý thức của người thực thi pháp luật và người chấp hành pháp luật.

Huy động người tiêu dùng cùng tham gia chống lại hành vi gian lận thuế của các doanh nghiệp. Từ trước tới nay, người tiêu dùng vẫn được coi là “tiếp tay” cho doanh nghiệp trong việc kê khai hóa đơn chứng từ giả do họ không mặn mà với việc lấy hóa đơn khi mua hàng. Điều này xuất phát từ việc quyền lợi của người tiêu dùng không bị ảnh hưởng gì từ những chiếc hóa đơn mua hàng, dẫn đến doanh nghiệp tự do thao túng. Nhà nước cần có chính sách để thay đổi nhận thức của người tiêu dùng về vấn đề này, đồng thời bảm đảo quyền lợi của họ. Hiện nay, người dân phải chịu thuế thu nhập cá nhân và cả thuế giá trị gia tăng khi đi mua hàng. Về bản chất, đây là việc thuế đánh chồng lên thuế khiến người tiêu dùng chịu nhiều thiệt thòi. Cơ quan quản lí thuế nên xem xét việc khấu trừ thuế giá trị gia tăng cho người tiêu dùng. Như vậy khiến người dân không bị đánh chồng thuế đồng thời khuyến khích họ lấy hóa đơn khi mua hàng. Một khi người dân được khấu trừ thuế giá trị gia tăng thì việc họ lấy hóa đơn khi mua hàng hóa là điều tất yếu để tính thuế khấu trừ. Điều này có thể giúp giải quyết tình trạng các doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa không xuất hóa đơn. Cơ quan thuế có thể cho phép người dân khấu trừ thuế theo tháng, quý hoặc theo năm theo công thức: 

Số thuế TNCN phải nộp trong tháng (hoặc trong quý) = Số thuế TNCN phải nộp trong tháng (hoặc trong quý) theo cách tính hiện hành - Số thuế GTGT trên hóa đơn mua hàng trong tháng (hoặc trong quý). 

Ngoài ra, trong tháng hoặc trong quý có số thuế GTGT được khấu trừ lớn hơn số thuế TNCN phải nộp theo cách tính hiện hành thì được kết chuyển sang tháng, quý hoặc năm sau nhưng không được kê khai hoàn thuế GTGT như vậy thì mới khuyến khích người dân lấy đủ hóa đơn khi mua hàng. Điều này sẽ giúp giải quyết triệt để tình trạng các doanh nghiệp bán hàng không xuất hóa đơn trên toàn quốc. 

3. Tăng cường công tác quản lý thuế: 

Bên cạnh những đường lối chính sách đúng đắn thì  một yếu tố cũng cần phải được nâng cấp nhằm chống lại các hành vi tiêu cực đó là năng lực quản lí của các cơ quan quản lí thuế cùng đội ngũ cán bộ chuyên ngành có trình độ. Cần cải thiện một số vấn đề sau: 

+ Tăng cường tính minh bạch, công khai của quy trình quản lý thuế GTGT, quy định thống nhất trong Luật quản lý thuế; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục kiến thức chung về pháp luật thuế đến mọi đối tượng trong xã hội nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp dân cư trong xã hội về nghĩa vụ nộp thuế, từng bước cải thiện tính tuân thủ pháp luật về thuế của các đối tượng. 

+ Tăng cường và hợp lí hóa quy trình quản lí hóa đơn, sổ sách, chứng từ kế toán. Hiện nay chế độ kế toán, thông tin báo cáo, hóa đơn chứng từ còn nhiều bất cập, chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời để làm cơ sở cho việc tính toán và xác định nghĩa vụ  thuế một cách chính xác và hiệu quả. Do đó, cần cải cách chế độ kế toán, thông tin báo cáo, hóa đơn chứng từ cho phù hợp với từng loại hình doanh nghiệp và đối tượng nộp thuế  nhằm đảm bảo tính rõ rang, minh bạch trong tính toán, xác định nghĩa vụ thuế và hoàn thuế.

+ Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối tượng nộp thuế kết hợp với tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan thuế với các cơ quan chức năng trong công tác quản lí thuế nhằm  đảm bảo thiết lập trật tự, kỷ cương trong quản lí thuế GTGT, đặc biệt là khâu hoàn thuế.

+ Khuyến khích phát triển hệ thống dịch vụ tư vấn thuế dưới cả hình thức Nhà nước (do cơ quan thuế tổ chức) và tư nhân (do các doanh nghiệp tư vấn thuế tổ chức thực hiện) để đảm bảo nâng cao hiệu quả của công tác quản lí thuế, đặc biệt là tiết kiệm chi phí đối với người nộp thuế. 

+ Tăng cường đào tạo nghiệp vụ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ  thuế. Hiện nay, đại bộ phận đội ngũ cán bộ thuế chưa có kĩ năng chuyên nghiệp, chưa được đào tạo bài bản về nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp, khả năng ứng dụng công nghệ tin học vào quản lí thuế chưa phù hợp với yêu cầu cải cách hành chính thuế. Cần tổ chức lại và kiện toàn bộ máy cơ quan thuế kết hợp với tăng cường đào tạo chuyên sâu về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ thuế nhằm tạo ra cơ sở vững chắc về tổ chức bộ máy và con người để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế.

C. KẾT LUẬN:

Trong năm 2013, tình trạng xuất khống hàng hóa để lợi dụng chính sách hoàn thuế Giá trị gia tăng đang diễn biến ngày càng phức tạp, các doanh nghiệp vẫn tiếp tục chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT gây tình trạng thâm hụt nguồn ngân sách của nhà nước. Từ đó đòi hỏi Nhà nước ta phải có những biện pháp nhằm ngăn chặn tình hình này. Tuy còn nhiều bất cập trong việc thực thi pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay nhưng không một ai có thể phủ nhận tính tích cực của thuế GTGT đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng. Muốn thực thi tốt pháp luật thuế GTGT cần có sự nhận thức về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế GTGT, để từ đó có hướng điều chỉnh phù hợp. 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thuế Việt Nam., Nxb Tư pháp. Hà Nội, 2004. 
2. Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
3. Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020.
4. Luật thuế GTGT năm 2013

No comments:

Post a Comment