09/01/2015
Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài. Nêu hướng hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này - Bài tập học kỳ - Tư pháp quốc tế
Thừa kế là một trong  những chế định quan trọng của dân luật các nước và cũng là chế định quan trọng trong tư pháp quốc tế. về nguyên tắc, các quan hệ nảy sinh trong phạm vi quốc gia nào thì do pháp luật của quốc gia đó điều chỉnh. Tuy nhiên trong điều kiện giao lưu và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển thì nhiều  quan hệ về thừa kế đã vượt ra khỏi phạm vi điều chỉnh của hệ thống pháp luật một nước. đó là những quan hệ có yếu tố nước ngoài. Những quan hệ này thuộc phạm vi điiều chỉnh của tư pháp quốc tế và thường nảy sinh trong các trường hợp: khi người để lại thừa kế và người hưởng thừa kế mà tài sản đang ở nước ngoài, khi di chúc được lập ở nước ngoài, theo pháp luật nước ngoài. Ngày nay, do nhiều nguyên nhân khác nhau, các vụ việc về thừa kế có yếu tố nước ngoài phát sinh trong đời sống quốc tế ngày càng phát triển đa dạng, phong phú, phức tạp. giải quyết tốt các vụ việc này có tầm quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của công dân các nước khác nhau, đồng thời góp phần vào sự phát triển quan hệ hợp tác giữa các quốc gia . Chính vì tầm quan trọng của chế định thừa kế trong tư pháp quốc tế, trong bài tập lớn của mình, em xin trình bày đề tài: “ Bình luận những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành trong việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài. Nêu hướng hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này”.

NỘI DUNG

I. Khái quát chung về thừa kế và xung đột pháp luật về thừa kế trong TPQT

1. Một số khái niệm

Thừa kế

Theo quan niệm truyền thống “thừa kế” được hiểu là việc người đang còn sống thừa hưởng tài sản của người đã qua đời. Việc thừa kế chỉ được thực hiện khi người có tài sản chết.

Thừa kế với nghĩa là một quan hệ pháp luật dân sự được hiểu là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho những người còn sống theo di chúc hoặc theo pháp luật .

Thừa kế là một quyền cơ bản của mỗi công dân - Điều 631 BLDS 2005.

Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự do pháp luật quy định - Điều 674 BLDS 2005.

Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài

Quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài là quan hệ thừa kế ít nhất phải có 1 trong 3 yếu tố sau:

- Về mặt chủ thể: Người để lại di sản phải là cá nhân nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Người thừa kế có thể là cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cơ quan tổ chức Việt Nam hay nước ngoài.

- Căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ thừa kế xảy ra ở nước ngoài hoặc theo pháp luật nước ngoài

- Di sản thừa kế: đang tồn tại ở nước ngoài.

Xung đột pháp luật về thừa kế: Khi điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, bao giờ cũng xuất hiện một tình huống mà người ta gọi là xung đột pháp luật. Tức là, một quan hệ pháp luật có thể chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau.

Như vậy, ta có thể hiểu xung đột pháp luật về thừa kế là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài trong tư pháp quốc tế .

1.2. Cơ sở pháp lý

Hiện nay ở Việt nam, quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài chịu sự điều chỉnh của khá nhiều văn bản với các quy định nằm rải rác trong pháp luật Việt Nam: Điều 758 , 767. 768 Bộ luật dân sự năm 2005; Nghị định số 138/2006/NĐ-CP và trong các Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam ký kết với các nước ghi nhận các quy phạm xung đột và quy phạm thực chất để điều chỉnh quan hệ thừa kế phát sinh giữa công dân hai nước ký kết.

II. Bình luận giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật tại 
Việt Nam

1. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong TPQT Việt Nam

Trước ngày 1/7/1996, các vấn đề về thừa kế có yếu tố nước ngoài được pháp luật Việt Nam quy định tại một số văn bản như: Quyết định 122/CP ngày 24/5/1997 của Hội đồng chính phủ về chính sách đối với người ngoài cư trú và sinh sống tại Việt Nam, Pháp lệnh về thừa kế ngày 30/8/1990, Nghị định 60/CP ngày 5/7/1994 của Chính phủ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị,... Nhìn chung những văn bản này mới chỉ quy định những vấn đề cơ bản (như nguyên tắc được hưởng thừa kế của người nước ngoài đối với các tài sản có tại Việt Nam) mà chưa quy định chi tiết về thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Điều 8 Quyết định 122/CP quy định: “Ngoại kiều được quyền thừa kế tài sản theo pháp luật Việt Nam”. Điều 37 Pháp lệnh về thừa kế quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền thừa kế của người nước ngoài đối với tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam theo quy chế về người nước ngoài tại Việt Nam, điều ước quốc quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc công nhận”. Điều 21 Nghị định số 60: “Chủ sở hữu là cá nhân nước ngoài định cư ở Việt Nam có quyền sử dụng, bán, tặng cho, để thừa kế nhà ở theo quy định của pháp luật Việt Nam…”.
Đến ngày 1/7/1996, với sự ra đời và phát huy hiệu lực của Bộ luật Dân sự năm 1995 (BLDS 1995) thì các vấn đề về thừa kế có yếu tố nước ngoài đã được ghi  nhận ở một văn bản pháp luật có hiệu lực cao. Bằng việc hình thành một chế định riêng về thừa kế từ Điều 634 đến Điều 689, thì tại phần thứ bảy (Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài) của Bộ luật không có bất kì một điều khoản nào quy định về việc giải quyết xung đột về thừa kế có yếu tố nước ngoài, nhưng thông qua quy định tại Điều 14 ( nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật), Điều 15 (khoản 3,4), cũng như Điều 826, 827 của BLDS 1995, các quy định của chế định thừa kế trong BLDS 1995 cũng được áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài ngoài. Tuy nhiên, việc áp dụng như vậy không phải là giải pháp thuyết phục và minh bạch cho quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Với việc ra đời của BLDS 2005, các vấn đề về thừa kế có yếu tố nước ngoài đã được pháp luật Việt Nam quy định một cách rõ ràng. Tại phần thứ bảy (quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài) đã có hai điều quy định trực tiếp việc giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nước ngoài (Điều 767 và Điều 768 BLDS 2005). Cụ thể là, giống như thừa kế ở trong nước và cách thức giải quyết xung đột về thừa kế có yếu tố nước ngoài của các nước, pháp luật Việt Nam cũng quy định vấn đề thừa kế theo hai hình thức: thừa kế theo pháp luật và thừa kế theo di chúc.
Thừa kế theo pháp luật được đặt ra trong trường hợp không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp. Trong thừa kế theo luật, người được hưởng thừa kế (theo hàng thừa kế), điều kiện, trình tự hưởng thừa kế đều do pháp luật quy định, hay nói cách khác, thừa kế theo luật là thừa kế trên cơ sở can thiệp của Nhà nước thông qua pháp luật về thừa kế. Hiện nay, để giải quyết vấn đề chọn luật áp dụng trong quan hệ thừa kế theo pháp luật, tư pháp quốc tế các nước áp dụng 2 nguyên tắc: nguyên tắc phân chia di sản thừa kế thành động sản và bất động sản; nguyên tắc thống nhất di sản thừa kế.

Về thừa kế theo pháp luật, Việt Nam áp dụng nguyên tắc phân chia di sản thừa kế để giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài. Theo Điều 767 BLDS 2005 thì : “1. Thừa kế theo pháp luật phải tuân theo pháp luật của nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết. 2. Quyền thừa kế đối với bất động sản phải tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó”. Như vậy, đối với di sản thừa kế là động sản, tư pháp quốc tế Việt Nam áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch. Điều này có nghĩa là luật áp dụng đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài mà di sản để lại thừa kế là động sản là luật của nước mà người để lại di sản có quốc tịch trước khi chết. Pháp lật Việt Nam sẽ áp dụng đối với các quan hệ thừa kế mà công dân Việt Nam là người để lại di sản thừa kế là động sản bất kể quan hệ này xảy ra ở đâu và di sản đang hiện diện ở nước nào. Tuy nhiên pháp luật Việt Nam sẽ không được áp dụng khi công dân nước ngoài để lại di sản là động sản hiện diện trên lãnh thổ việt nam và quan hệ thừa kế xảy ra tại Việt Nam.

Riêng đối với thừa kế theo luật mà di sản thừa kế là bất động sản, tư pháp quốc tế Việt Nam áp dụng nguyên tắc luật nơi có vât. Điều này có nghĩa là công dân Việt Nam để lại di sản thừa kế là bất động sản thì pháp luật Việt Nam không có cơ hội áp dụng nếu bất động sản không hiện diện ở Việt Nam và ngược lại, pháp luật Việt Nam sẽ được áp dụng khi công dân nước ngoài để lại di sản thừa kế là bất động sản hiện diện trên lãnh thổ Việt Nam.

Nếu trong trường hợp người để lại thừa kế có nhiều quốc tịch thì sẽ áp dụng quy phạm xung đột đối với người nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch tại Khoản 2 Điều 760 BLDS: “… pháp luật áp dụng với người nước ngoài có hai hay nhiều quốc tịch nước ngoài là pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và cư trú vào thời điểm phát sinh quan hệ dân sự; nếu người đó không cư trú tại một trong các nước mà người đó có quốc tịch thì áp dụng pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch và có quan hệ gắn bó nhất về quyền và nghĩa vụ công dân”. 

Nhược điểm và ưu điểm của các quy định trên:

Thứ nhất, quy định này dẫn đến phân chia di sản thành nhiều phần, do đó phải áp dụng nhiều quan hệ pháp luật vào một quan hệ thừa kế theo pháp luật, đặc biệt là khi người để lại thừa kế có di sản là bất động sản ở nhiều nước khác nhau.

Thứ hai, theo quy định trên, khi tiến hành phân chia di sản, chúng ta phải phân biệt đâu là bất động sản và đâu động sản. Tuy nhiên, các khái niệm về động sản và bất động sản vẫn chưa được hiểu thống nhất giữa các hệ thống pháp luật hiện nay. Sự khác nhau về khái niệm động sản và bất động sản trong pháp luật các nước dẫn đến hiện tượng xung đột pháp luật về xác định, định danh, xung đột khái niệm pháp lý hay còn được gọi là xung đột kín tùy theo thuật ngữ sử dụng cho hiện tượng xung đột này.
Bên cạnh đó, việc quy định như vậy cũng mang lại điểm tích cực như sau: Pháp luật Việt Nam cho phép pháp luật của nước nơi có di sản là bất động sản điều chỉnh quan hệ thừa kế về di sản. Do đó, pháp luật Việt Nam cũng có thêm cơ hội được áp dụng trong thực tế và không làm phật lòng các cơ quan pháp luật của nước nơi có di sản. Ở một số nước trên thế giới, tư pháp quốc tế của họ không phân biệt di sản là động sản hay bất động sản và cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch hay có nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh, điều đó có nghĩa là pháp luật các nước này cho phép pháp luật của nước mà người để lại thừa kế có quốc tịch hay có nơi cư trú cuối cùng điều chỉnh di sản là bất động sản. Vận dụng kỹ thuật dẫn chiếu trở lại như phần trên, chúng ta có thể tạo thêm cơ hội áp dụng pháp luật Việt Nam trong thực tế.

2. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật trong một số hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia

Là một trong những nguồn cơ bản của Tư pháp quốc tế trong việc giải quyết các xung đột về thừa kế có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam, số lượng các Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia ngày một gia tăng. Tính đến năm 2006, Việt Nam đã kí 14 Hiệp định tương trợ tư pháp giải quyết các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân và gia đình giữa công dân, pháp nhân Việt Nam với công dân, pháp nhân tham gia kí kết cùng. Có thể nói rằng, trong các Hiệp định này, vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài đã được cụ thể hóa thành một hệ thống các quy phạm pháp luật khá đầy đủ, điều chỉnh kịp thời các quan hệ thừa kế phát sinh giữa các bên hữu quan.

Nguyên tắc chỉ đạo trong vấn đề thừa kế được ghi nhận trong các hiệp định này là nguyên tắc bình đẳng giữa công dân các bên trong quan hệ thừa kế. Cụ thể là: Công dân nước kí kết này bình đẳng với công dân nước kí kết kia trong việc lập hoặc hủy bỏ di chúc đối với tài sản đang có và các quyền cần thực hiện ở nước kí kết kia, cũng như về khả năng được nhận tài sản hoặc các quyền theo cùng những điều kiện mà nước kí kết kia dành cho công dân nước mình vv...

Cùng với các quy định trong hiệp địnhlãnh sự, các hiệp định tương trợ tư pháp  mà nước ta đã kí kết cũng đưa ra thêm nhiều quy phạm thực chất thống nhất nhằm bảo hộ quyền thừa kế và tài sản thừa kế của công dân các nước hữu quan, song, điểm quan trọng nhất của chúng là đã ghi nhận các quy phạm xung đột nhằm giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế.

Theo các quy định tại Điều 45 Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và Đức; Điều 35 Hiệp định tương trợ giữa Việt Nam và Séc; Điều 34 Hiệp định giữa Việt Nam và Cuba; Điều 43 Hiệp định giưa Việt Nam và Bungari; Điều 45 Hiệp định giữa Việt Nam và Hunggari thì quyền thừa kế theo pháp luật được xác định đối với từng loại tài sản cụ thể như sau:

- Đối với tài sản là động sản: Quyền thừa kế được xác định theo pháp luật nước kí kết mà người để lại tài sản là công dân khi chết.

- Đối với tài sản bất động sản: Quyền thừa kế được xác định theo pháp luật của nước kí kết nơi có bất động sản.

Nhìn chung, trong việc phân biệt động sản và bất động sản, các hiệp định này ghi nhận nguyên tắc: Pháp luật của nước kí kết nơi có tài sản thừa kế là pháp luật được áp dụng. Như vậy, nếu tài sản thừa kế nằm trên lãnh thổ Việt Nam, pháp luật Việt nam sẽ được áp dụng để xác định loại tài sản là động sản hay bất động sản.Nếu tài sản nằm ở nước ngoài hữu quan thì áp dụng pháp luật nước đó.
Đối với các điều ước quốc tế đa phương, luật được áp dụng để điều chỉnh các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài kể cả đối với di sản là động sản hay bất động sản đều là luật nhân thân của người để lại di sản thừa kế, cụ thể là luật quốc tịch của người để lại di sản thừa kế (Công ước Lahaye). Song, trên thực tế, những công ước này vẫn chưa có hiệu lực, bởi lẽ, trong lĩnh vực thừa kế, quyền lợi của các nước tư bản có sự đối chọi nhau gay gắt.

Ngoài ra, các hiệp định tương trợ tư pháp khác mà Việt Nam đã kí với Nga, Hàn Quốc, Mông Cổ…đều quy định các quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hệ thống pháp luật một cách thống nhất.

3. Giải quyết vấn đề di sản không người thừa kế có yếu tố nước ngoài
Trong thực tế, khi áp dụng pháp luật thực chất của Việt Nam do quy phạm xung đột của quốc gia khác dẫn chiếu để điều chỉnh quan hệ thừa kế xảy ra trường hợp một công dân khi chết đi không có ai là người hưởng số di sản mà người đó để lại. Vậy số di sản này sẽ giải quyết như thế nào?

Theo luật thực chất về thừa kế của hầu hết các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, đối với trường hợp trên thì di sản đó sẽ thuộc về Nhà nước. Cụ thể, Điều 644 BLDS VN 2005 quy định: “Trong trường hợp không có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được hưởng quyền di sản, từ chối nhận di sản... thì di sản không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà nước”. Quy định này cho thấy quan điểm thống nhất của nhà nước ta, đó là: quyền của Nhà nước hưởng số di sản vì lý do nào đó mà không có người thừa kế do công dân Việt Nam để lại là quyền dân sự, quyền thừa kế của Nhà nước Việt Nam. Đồng thời, Nhà nước Việt Nam không chỉ có quyền thừa kế đối với các di sản không người thừa kế do công dân Việt Nam để lại trên lãnh thổ Việt Nam mà còn đối với cả các di sản của công dân Việt Nam khi chết đi để lại ở nước ngoài. Trong mọi trường hợp, khi quy phạm xung đột của pháp luật nước ngoài dẫn chiếu đến áp dụng pháp luật Việt Nam để điều chỉnh các quan hệ thừa kế thì số di sản này phải thuộc về Nhà nước Việt Nam, kể cả những trường hợp pháp luật của nước nơi công dân Việt Nam chết hoặc nơi có di sản thừa kế đó quy định khác. 

Bên cạnh đó, về việc giải quyết số phận của “di sản không người thừa kế”, tại khoản 3 và khoản 4 Điều 767 BLDS quy định: “3. Di sản không có người thừa kế là bất động sản thuộc về Nhà nước nơi có bất động sản đó. 4. Di sản không có người thừa kế là động sản thuộc về Nhà nước mà người để lại di sản thừa kế có quốc tịch trước khi chết”.

Ngoài các quy định của pháp luật quốc gia, vấn đề “di sản không người thừa kế” còn được giải quyết thông qua các hiệp định tương trợ tư pháp trong các lĩnh vực dân sự, hôn nhân – gia đình và hình sự mà Việt Nam đã ký kết với nước ngoài. Có thể thấy, các hiệp định này có chứa những quy phạm thực chất thống nhất, trực tiếp giải quyết vấn đề “di sản không người thừa kế” mà không phải thông qua bất kỳ hệ thống pháp luật nào. Do đó, việc tham gia ký kết các hiệp định sẽ giúp các quốc gia dễ dàng, thuận tiện hơn trong quá trình giải quyết vấn đề trên. 

Trong 7 hiệp định Việt Nam ký kết với Đức, Nga, Séc, Cu Ba, Hungari, Bungari, Ba Lan đều ghi nhận: Nếu theo pháp luật về thừa kế của nước ký kết mà không còn nước nào thừa kế thì động sản sẽ được giao lại cho nước ký kết mà người để lại di sản là công dân khi chết, còn các bất động sản thuộc về nước ký kết nơi có bất động sản. Như vậy, nếu công dân Việt Nam chết trên lãnh thổ một trong bảy nước này và nếu luật được áp dụng để điều chỉnh quan hệ thừa kế xác định rằng, di sản do công dân Việt Nam để lại không còn người thừa kế thì giải quyết như sau: các di sản là động sản chuyển giao cho Nhà nước Việt Nam, các di sản là bất động sản chuyển giao cho Nhà nước nơi có bất động sản. 

III. Thực tiễn và hoàn thiện pháp luật về giải quyết xung đột pháp luật trong quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam

1. Thực tiễn giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam

Trong những năm qua, số lượng người nước ngoài sinh sống và làm việc tại Việt Nam ngày càng nhiều và người Việt Nam làm ăn tại nước ngoài cũng ngày càng tăng, do vậy vấn đề thừa kế có yếu tố nước ngoài luôn được đặt ra đối với hệ thống pháp luật nước ta. 

Từ năm 2008 đến năm 2010 số lượng các việc về thừa kế có yếu tố nước ngoài tăng giảm không đồng đều. Năm 2008 tổng số vụ việc thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài là 55, trong đó: giải quết 20 vụ việc và còn lại là 35 vụ việc không được giải quyết. Trong 20 vụ việc được giải quyết có 10 vụ việc bị đình chỉ, 5 vụ việc ủy thác tư pháp, 3 việc được công nhận, 2 vụ việc đưa ra xét xử. Năm 2009 có 47 vụ việc, trong đó có 15 vụ việc được giải quyết, còn lại 35 vụ việc. trong 15 vụ việc được giải quyết thì có 7 vụ việc đình chỉ, 3 vụ việc ủy thác tư pháp, 2 vụ việc đưa ra xét xử, 3 vụ việc công nhận. Năm 2010 tổng số là 53 vụ việc, trong đó giải quyết là 19 và còn lại là 34 vụ việc. Trong 19 vụ việc được giải quyết thì đình chỉ 13, ủy thác tư pháp 5, đưa ra xét xử 

Như vậy, trong những năm qua vấn đề giải quyết các vụ việc về thừa kế có yếu tố nước ngoài ở nước ta giải quyết chưa được triệt để, vấn đề ủy thác tư pháp luôn được đặt ra. Các tòa án áp dụng pháp luật còn nhiều thiếu sót và vướng mắc, số lượng vụ việc được giải quyết ngày càng tăng, trong cùng một vụ việc nhưng phải giải quyết nhiều lần và các bản án có hiệu lực pháp luật rồi nhưng bị đình chỉ.

Về vấn đề ủy thác tư pháp, thực tế, những việc mà Tòa án Việt Nam ủy thác tư pháp cho Tòa án nước ngoài kết quả trả lời thường rất chậm, thậm chí nhiều trường hợp không nhận được sự trả lời, ngay cả đối với các nước mà tòa án đã ký kết và gia nhập Điều ước quốc tế. Chính vì vậy, việc lấy lời khai, tống đạt các văn bản của Tòa án hoặc xác định tài sản ở nước ngoài là không thực hiện được làm cho vụ án kéo dài, vi phạm thời hạn xét xử.

Trong quá trình tố tụng, đương sự chết, tòa phải xác minh để đưa những người thừa kế ở nước ngoài vào tham gia vụ án nhưng người trong nước không cung cấp đầy đủ địa chỉ người thừa kế ở nước ngoài nên khó khăn khi làm hồ sơ. Tất cả đều dẫn đến việc lấy lời khai, tống đạt các văn bản, hoặc xác định tài sản ở nước ngoài của tòa Việt Nam không thực hiện được, làm cho vụ án bị kéo dài. Tại TAND TP. Hồ Chí Minh từng xảy ra trường hợp án đã xử và tống đạt ra nước ngoài, đến cả năm sau đương sự mới gửi kháng cáo về, lúc này tòa phải lấy hồ sơ ra để giải quyết tiếp theo thủ tục phúc thẩm.

2. Hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài tại 
Việt Nam

Thứ nhất, xây dựng, thực thi phù hợp chế độ đãi ngộ như công dân với người nước ngoài tại việt nam.

Một trong những yêu cầu của phương hướng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế theo pháp luật có yếu tố nước ngoài là bảo đảm cho người nước ngoài được hưởng các quyền và lợi ích ngang bằng với công dân Việt Nam trên cơ sở chế độ đãi ngộ như công dân, tiến tới xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài trong các quan hệ dân sự nói chung. Như vậy, về nguyên tắc, trong quan hệ thừa kế, người nước ngoài có quyền thừa kế bình đẳng như công dân Việt Nam.Việc áp dụng cho người nước ngoài chế độ đãi ngộ như công dân tạo cơ hội bình đẳng cho họ trong các giao lưu dân sự tại Việt Nam với nhau hoặc với công dân Việt Nam.Đồng thời hạn chế đc việc các nước có thể áp dụng sự phân biệt đối xử với công dân Việt Nam khi tham gia quan hệ dân sự với nhau hoặc với người nước ngoài tại nước đó.

Thứ hai, đơn giản hóa nhằm đảm bảo việc dễ dàng thực hiện pháp luật.

Chúng ta phải đẩy mạnh việc tạo ra một hành lang pháp lý năng động, phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm ổn định hóa và hỗ trợ, khuyến khích các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài phát triển, tạo cơ sở để Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét giải quyết các vụ việc về thừa kế có yếu tố nước ngoài phát sinh. Để đáp ứng yêu cầu này, cần tiến hành rà soát một cách tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài, tìm ra những tồn tại, bất cập trong cơ chế điều chỉnh pháp luật.

Thứ ba, nâng các hiệu quả của việc áp dụng các quy định của Điều ước quốc tế, Tập quán quốc tế và pháp luật nước ngoài.

Trình độ năng lực áp dụng pháp luật nước ngoài của thẩm phán Tòa án còn nhiều hạn chế khi xét xử các tranh chấp dân sự có yếu tố nước ngoài. Do không am hiểu về pháp luât, nhất là về xung đột pháp luật, cũng như không hiểu được nội dung pháp luật nước ngoài, cho nên thẩm phán không thể áp dụng pháp luật nước ngoài trong khi xét xử. Điều này vô hình chung đã làm cho các quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng pháp luật nước ngoài trở nên hình thức, không được thực hiện được trong thực tiễn.

Do đó, việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh các quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài phải đáp ứng được yêu cầu nâng cao năng lực xét xử của Tòa án trong việc áp dụng pháp luật và điều ước quốc tế, kể cả pháp luật nước ngoài, để giải quyết tranh chấp về thừa kế có yếu tố nước ngoài.
Thứ tư, tăng cường ký kết các Điều ước quốc tế, tham gia đàm phán, trao đổi, thương lượng để ký kết các điều ước song phương và đa phương.Việc ký kết các điều ước quốc tế tạo điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết tranh chấp dễ dàng và không tốn kém về thời gian.

KẾT LUẬN

Tư pháp quốc tế Việt Nam giải quyết vấn đề về thừa kế theo pháp luật còn thiếu nhưng những quy định này tương đối theo kịp với một số nước trên thế giới. Tuy nhiên, nhu cầu xây dựng một văn bản cụ thể về quy định giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật vẫn là cần thiết. Cần đẩy mạnh việc giao lưu giữa các quốc gia và xúc tiến hoạt động tương trợ tư pháp để việc áp dụng pháp luật không chỉ trong khuôn khổ các điều ước mà còn hữu ích trên thực tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
2. Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình tư pháp quốc tế, Nxb. Đại học quốc gia, Hà Nội, 2001.
3. Pháp luật áp dụng cho quan hệ thừa kế có yếu tố nước ngoài theo BLDS 2005, Bành Quốc Tuấn- Khoa Luât, Đại học Kinh tế- Luật, Đại học Quốc gia TP.HCM
4. Quyền lựa chọn pháp luật trong tư pháp quốc tế Việt Nam, PGS.TS Đỗ Văn Đại –Trưởng Khoa Luật dân sự- Đại học Luật TP.HCM
5. Giai quyết xung đột pháp luật về thừa kế- lý luận và thực tiễn tại Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ luật học, Trịnh Thị Ngọc Dự, năm 2012.
6. Một số hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với các nước Séc, Cuba, Bungari...
7. Bộ luật dân sự năm 2005

No comments:

Post a Comment