29/09/2014
Điểm tích cực và hạn chế của mô hình nhà nước phong kiến quân chủ quý tộc thời Lý - Trần
Bài tập học kỳ Lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới có đáp án.

A. LỜI MỞ ĐẦU

Trong lĩnh vực lịch sử nhà nước Việt Nam thời phong kiến, thì việc nghiên cứu mô hình nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, ở mỗi mô hình nhà nước phong kiến trong lịch sử, chúng ta lại thấy được cả một quá trình học tập, kế thừa, sáng tạo của các triều đại phong kiến Việt Nam trong tổ chức một bộ máy nhà nước, nhằm củng cố và xây dựng bộ máy ngày càng hoàn thiện hơn, đảm bảo cho sự tồn tại lâu dài và phát triển thịnh vượng cho triều đại. Trong tiến trình lịch sử, mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần là một trong những mô hình mang tính điển hình, có tính hệ thống và khá hoàn thiện. Chính vì vậy, em xin lựa chọn đề tài “Điểm tích cực và hạn chế của mô hình nhà nước phong kiến quân chủ quý tộc thời Lý - Trần” làm bài học kì của mình.

B. NỘI DUNG

I. Khái quát chung về mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần:

Bộ máy chính quyền thời Lý – Trần được xây dựng trên hình thức chính thể quân chủ quý tộc. Dựa trên nguyên tắc “liên kết dòng họ”, hoàng thân quốc thích là hậu thuẫn chính trị hùng mạnh cho quyền lực của nhà vua. Biểu hiện của nó là hầu hết các trọng trách ở bộ máy trung ương đều do tầng lớp quý tộc nắm giữ. Vương hầu, tôn thất đều được trọng dụng và khuyến khích hôn nhân nội tộc vừa để củng cố sự vững chắc của vương triều vừa nhằm đảm bảo tính thuần nhất của dòng họ, bảo vệ ngôi vua được bền vững.

Về bộ máy hành chính: Thời Lý - Trần cấu trúc theo 3 cấp: Cấp trung ương, cấp hành chính trung gian, cấp hành chính cơ sở.

- Thời Lý: Ở Kinh đô, nhà Lý giao cho một hoàng tử hay thân vương trông coi gọi là kinh sư lưu thủ. Ở các châu gần, đặt các chức tri châu, thông phán, tổng quản để trông coi. Ở các châu biên giới đặt chức châu mục đứng đầu. Đứng đầu phủ có chức tri phủ, tri phủ sự, phán phủ sự phụ trách. ở các địa phương, nhà Lý từ năm 1011 đổi 10 đạo thời Lê làm 24 lộ , đặt thêm một số đạo và trại, châu. Một số châu, trại đổi làm phủ, các vùng xa gọi là châu (như châu Vĩnh An, Đằng Châu, châu Lâm Tây, v.v.). Dưới lộ có huyện, hương.

- Thời Trần: Nhà Trần đổi 24 lộ thành 12 lộ. Dưới lộ, phủ là châu, huyện, xã. Đứng đầu các lộ là an phủ sử, ở các phủ là tri phủ, trấn phủ rồi đến các viên chức thông phán, thiên phán, tào, vận lệnh uý v.v.. Các châu do chuyển vận sứ, thông phán quản lý, ở huyện do lệnh uý, chủ bạ coi giữ. Chế độ xã quan được phổ biến ở các xã. Đứng đầu các xã là đại tư xã và tiểu tư xã. Các viên xã quan được tuyển chọn trong hàng ngũ những người có phẩm hàm, từ ngũ phẩm trở lên làm đại tư xã, từ lục phẩm trở xuống giữ chức tiểu tư xã (xã nhỏ). Dưới đại, tiểu tư xã có các chức xã trưởng, xã giám giúp việc sổ sách.

Vể tổ chức bộ máy quan lại: Đứng đầu triều đình là Hoàng đế, dưới Hoàng đế có 3 chức đứng đầu các quan lại trong triều, đó là thái sư, thái phó, thái bảo (tam thái). Dưới đó là chức thái úy, nắm giữ việc chính trị, quân sự trong nước, về sau chức này được gọi là tể tướng. Tiếp đến là các chức tư không, thiếu phó, thiếu bảo, thiếu úy (phụ trách cấm quân), nội điện đô trị sự, ngoại điện đô trị sự, kiểm hiệu bình chuơng sự. Đây là những chức vụ trọng yếu nhất giúp việc nhà vua. Để giúp vua quản lý mọi mặt của đất nước, còn có các cơ quan chuyên trách như Trung thư sảnh, Khu mật sứ, Ngự sử đài, Hành khiển tượng thư sảnh, Nội thị sảnh, Đình uý, Hàn lâm học sĩ.

Năm 1097, nhà Lý cho biên soạn và ban hành Hội điển , quy định các phép tắc chính trị, tổ chức bộ máy quan lại. Từ đó, quy chế tổ chức hành chính và quan lại được xác lập, thể hiện bước tiến bộ rõ rệt trong việc quản lý xã hội, đất nước. Các quan lại cao cấp có nhiều công lao được phong thực phong, thực ấp. Chỉ con cháu những người có quan tước, được tập ấm, mới được làm quan.

Sang thời Trần, tổ chức bộ máy quan lại ở trung ương có bước hoàn thiện hơn thời Lý. Khác với nhà Lý, nhà Trần đặt ra chế độ Thái thượng hoàng. Các vua sớm truyền ngôi cho con trai trưởng (hoàng thái tử) nhưng vẫn cùng với vua (con) trông coi chính sự, tự xưng là Thái thượng hoàng. Trong triều đình, đứng đầu các quan vẫn là ba chức thái (sư, phó, bảo) chỉ có điểm khác thời Lý ở chỗ nhà Trần đặt thêm hàm thống quốc, tá thánh, phụ quốc để gia phong thêm (như thống quốc thái sư, tá thánh thái sư phụ quốc thái bảo). Chức thái úy thời Lý (tướng quốc) đổi thành tả hữu tướng quốc bình chương sự. Giúp việc cho tể tướng (tướng quốc) thời Trần đặt thêm các chức hành khiển nằm trong cơ quan mật viện. Các hành khiển thường kiêm cả các chức thượng thư (đứng đầu bộ), tả hữu bộc xạ, tả hữu gián nghị đại phu . Dưới các chức vụ nói trên, các quan được chia thành hai ban văn và võ. Bên văn có các bộ, đứng đầu mỗi bộ là một viên thượng thư. Ngoài bộ, có các cơ quan chuyên trách như ở thời Lý, nhưng nhiều hơn, tổ chức chặt chẽ hơn như: các cục (Nội thư hoả cục, Chi hậu cục); các đài (Ngự sử đài với các chức tả hữu gián nghị đại phu, thị ngự sử, giám sát ngự sử v.v.); các viện (Khu mật viện với các chức tri mật viện sự, khu mật tham chính...v.v..)

Nhà Trần còn đặt thêm một tổ chức phụ trách về dòng họ nhà vua gọi là tông chính phủ. Nhà Trần cũng thực hiện chế độ ban phong thái ấp cho vương hầu, tôn thất và cho phép họ được xây dựng phủ đệ riêng.

Nhận xét: Thời Lý, các quan lại đều xuất thân từ tầng lớp quý tộc; sang thời Trần, tất cả các chức vụ quan trọng trong triều đình cũng đều giao cho vương hầu quý tộc nhà Trần nắm giữ. Nguyên tắc “tôn quân quyền” được thể hiện nhưng không đậm nét bằng nguyên tắc “liên kết dòng họ”. Trong bộ máy chính quyền trung ương, Hoàng đế là người nắm giữ toàn bộ vương quyền và thần quyền nhưng mức độ tập trung quyền lực của vua chưa cao tới mức chuyên chế, mà quyền hành pháp được chuyển giao rộng rãi cho các chức vụ trung gian trong nhà nước, thường là các chức vị dưới vua như Tế tướng, Thừa tướng. Thời Trần để củng cố vương quyền, nhất là trong những thời kỳ đầu, nhà Trần đã thực hiện một nền chuyên chính - dân chủ dòng họ. Các chức vụ chủ chốt trong triều đình (nhất là về võ quan, như các tướng lĩnh trong cuộc kháng chiến chống Nguyên) đều do các người họ hàng thân cận với nhà vua nắm giữ. Cách sử dụng, bổ nhiệm quan lại của nhà nước Lý - Trần đã phản ánh rõ nét bản chất của nhà nước quân chủ quý tộc.

II. Điểm tích cực của mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần:

Thứ nhất, mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần giúp quyền lực tập trung trong tay nhà nước trung ương; chế độ quân chủ trung ương tập quyền được tiến thêm một bước, củng cố sự vững chắc của vương triều và đảm bảo tính thuần nhất của dòng họ, bảo vệ ngôi vua được bền vữngBởi

Thứ hai, bộ máy hành chính, nhà nước thời Lý – Trần đã thể hiện tính chất thân dân. Nhà Lý tôn trọng quyền sở hữu ruộng đất của cộng đồng làng xã. Theo đó, nhà nước không thu thuế theo từng hộ dân mà coi mỗi cộng đồng làng xã là một tập thể lớn (hoặc nhỏ) để thu thuế lúa gạo theo hộ dân. Người được ban thái ấp sẽ thu thuế các làng, rồi nộp một phần cho nhà nước nên họ thực sự là chủ của dân chứ không phải là chủ ruộng đất. Dân chúng chủ yếu cày ruộng theo quy mô làng xã.

Nhà Trần có chế độ thái ấp, điền trang là một hình thức sở hữu đặc biệt của tầng lớp quý tộc quan liêu, có đặc quyền đặc lợi. Theo sử sách ghi lại thì thái ấp là ruộng do nhà vua ban cấp cho các quý tộc và triều thần có công. Trên danh nghĩa, ruộng đất thái ấp thuộc quyền sở hữu của nhà nước, triều đình có quyền lấy của người này ban cấp cho người khác. Quý tộc có quyền sử dụng và hưởng hoa lợi về đất đai và một phần về cư dân trên đó, như thu tô thuế, xây dựng phủ đệ, lập các đội quân vương hầu gia đồng. Thời trần, có những thái ấp của Trần Liễu (Đông Triều, Quảng Ninh), Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Bình Lục, Hà Nam), Trần Khát Chân ở Kẻ Mơ (Hà Nội)… Do tính chất hạn chế về quyền chiếm dụng ruộng đất nên thái ấp không có khả năng làm phát triển các yếu tố cát cứ chống lại chính quyền trung ương.

Điền trang là những trang trại lớn của các quý tộc đời Trần, do quý tộc trực tiếp quản lý, sử dụng sức lao động của gia nô, nô tì; có quyền thừa kế. Đó là bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu phong kiến lớn, tư nhân. Các điền trang được nhắc đến trong lịch sử là của Trần Khánh Dư (Chí Linh, Hải Dương), Trần Quốc Khang (Diễn Châu, Nghệ An)…Chế độ điền trang phát triển mạnh mẽ, hàm chứa nhiều yếu tố và xu thế cát cứ.

Tuy nhiên, trong suốt hàng trăm năm tồn tại của mình, chế độ thái ấp, điền trang đã có những tác động lớn về mặt chính trị. Nó góp phần xây dựng một triều đình thống nhất, đoàn kết nội bộ, đoàn kết toàn dân, giữ vững nền độc lập dân tộc. Thực tế đã chứng minh rằng những chủ nhân của các thái ấp đã hoàn thành tốt vai trò của mình là những trụ cột trợ giúp triều đình và không bao giờ trở thành lãnh chúa địa phương như ở châu Âu cùng thời. Quan trọng hơn, đất phân phong cho các vương hầu quý tộc vẫn gắn với ruộng đất công làng xã, với nông dân. Các quý tộc vẫn nằm trong làng, không tách khỏi làng xã. Nhờ đó, nhà nước luôn duy trì được mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Thế cân bằng ổn định về kinh tế cũng được xác lập và duy trì giữa công hữu và tư hữu; giữa quyền lực, lợi ích của nhà nước với các đẳng cấp quý tộc quan liêu và khối bình dân làng xã.

III. Hạn chế mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần:

Bộ máy quân chủ quý tộc lúc bấy giờ có những hạn chế thể hiện ở những điểm sau:

Thứ nhất, việc trao quyền lực cho một tầng lớp vương hầu quý tộc tiềm ẩn nguy cơ phân quyền, cát cứ. Cụ thể:

Khoảng từ giữa thế kỷ XII, triều chính nhà Lý bắt đầu suy đồi. Các nhà vua khi lên ngôi còn quá non trẻ, lớn lên lại hay ham chơi. Trong triều, các gian thần, nịnh thần lộng hành nhiễu loạn. Ngoài xã hội, nhiều năm mất mùa đói kém, loạn lạc nổi dậy khắp nơi. Những cuộc nổi dậy này biểu hiện sự trỗi dậy của những yếu tố cát cứ, làm suy yếu chính quyền trung ương. Đầu thế kỷ XIII, lại xảy ra nạn hỗn chiến giữa các phe phái phong kiến. Các hào trưởng địa phương, các tướng lĩnh triều đình đem quân đánh lẫn nhau, uy hiếp triều đình Lý trong một tình hình hết sức rối ren, phức tạp.

Đến thời Dụ Tông, Triều Trần lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Mâu thuẫn nội tại của chế độ điền trang, thái ấp phát triển. Quý tộc Trần ngày càng thoái hoá biến chất với cuộc sống xa hoa. Nông nô và nô tỳ bị áp bức và bóc lột tàn khốc nổi dậy chống đối, thiên tai xảy ra liên tiếp, sản xuất đình đốn, dân tình đói khổ. Mâu thuẫn xã hội gia tăng làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của nông dân, nông nô, nô tì để trở thành nông dân tự do. Đây có thể coi là nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ của mô hình nhà nước quân chủ thân dân Lý – Trần. Bên cạnh đó, đội ngũ quý tộc tha hóa, trình độ, năng lực trị nước an dân không cao nhưng vẫn được trọng dụng. Các vua Trần thời hậu kỳ, kể cả Minh Tông, đều không biết chiêu mộ nhân tài; lực lượng quan lại đều kém tài. Tới lúc bị Chiêm Thành xâm lấn, không hề có một gương mặt nào của dòng họ Trần đứng ra chống được giặc mà phải dựa vào một tướng ngoài hoàng tộc (Trần Khát Chân vốn mang họ Lê).

Thứ hai, về chế độ hôn nhân đồng tộc. Triều đại nhà Trần, tới các đời sau, Trần Nghệ Tông và Trần Phế Đế (Đế Hiện), có hàng loạt biểu hiện của sự mê muội, u tối của người cầm quyền. Trần Nghệ Tông tin dùng một mình Lê Quý Ly, nghe lời Quý Ly sát hại hàng loạt con cháu, người thân tộc họ Trần. Những hành động tối tăm, mê muội đó phải chăng là sản phẩm của sự "thoái hóa giống nòi" do "hôn nhân nội tộc" nhiều đời gây ra? Những lần tiếm quyền, thoán ngôi khác trong lịch sử Việt Nam như Dương (Tam Kha) đoạt Ngô, Tiền Lê đoạt Đinh, Trần đoạt Lý, Mạc cướp Lê, Trịnh át Lê đều là "cường thần hiếp chúa". Việc dung túng cho cấp dưới, những kẻ trực tiếp đụng chạm tới quyền lợi của dòng tộc mình mà vẫn "không hay biết" như các vua Trần quả là hiếm có.

Thể chế quân chủ quý tộc lúc bấy giờ đã khủng hoảng nặng nề, kìm hãm sự phát triển của quốc gia. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước và hành chính mang tính phân tán, quyền lực của nhà nước quân chủ quan liêu trung ương tập quyền bị hạn chế. Cuộc cải cách của Hồ Quý Ly nhằm thay thế thiết chế quân chủ quý tộc bằng một thiết chế mới quân chủ quan liêu là đúng đắn, cần thiết, nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, nó đã thất bại nhanh chóng.

C. KẾT LUẬN

Nhìn chung, mô hình nhà nước quân chủ quý tộc Thời Lý – Trần đã thể hiện một bước tiến rõ rệt trong tổ chức bộ máy nhà nước phong kiến, góp phần đưa triều đại của nhà Lý và nhà Trần đến thời kì đỉnh cao hưng thịnh trong lịch sử, việc ba lần chiến thắng quân Mông Nguyên thời Trần là một minh chứng cụ thể. Tuy nhiên, mô hình nhà nước này vẫn luôn tồn tại những mâu thuẫn nội tại không thể khắc phục, là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới sự suy thoái hay biến mất của nhà nước Lý –Trần trong lịch sử. Nhưng xét cho cùng, mô hình nhà nước quân chủ quý tộc thời Lý – Trần không những phù hợp với thực tiễn đất nước lúc bấy giờ mà còn đóng góp vào kho tàng lý luận pháp lý Việt Nam một tư duy về cấu trúc nhà nước Phong kiến thịnh trị và có nhiều giá trị lịch sử.

Danh mục tài liệu tham khảo:

Giáo trinh Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, năm 2012;

“Những căn cứ để khẳng định nhà nước Lý – Trần là nhà nước quân chủ thân dân” – www.nhantainhanluc.com


“Nhà nước thời Lý – Trần” – www.lichsuvietnam.vn

No comments:

Post a Comment