CHƯƠNG III
CHỨC NĂNG, BỘ MÁY, KIỂU VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
I. CHỨC NĂNG NHÀ NƯỚC
Thuật ngữ chức năng được sử dụng khá phổ biến trong khoa học và trong thực tiễn với nhiều nghĩa khác nhau. Ví dụ, trong triết học và xã hội học, chức năng được dùng để chỉ tác động của các đặc tính của hệ thống khách thể đối với các hệ thống môi trường cùng nằm trong hệ thống các quan hệ với khách thể đang xem xét một hệ thống quan hệ nhất định (như chức năng giác quan, chức năng tiền tệ...); kết quả đối với hệ thống xã hội của hiện tượng, yếu tố, thể chế xã hội có tác dụng góp phần vào sự vận hành, duy trì hệ thống đó. Trong ngôn ngữ học, chức năng được dùng để chỉ vai trò, nhiệm vụ của đơn vị ngôn ngữ hoặc các yếu tố trong hệ thống ngôn ngữ; sự cụ thể hóa vai trò của yếu tố ngôn ngữ trong lời nói cụ thể (chức năng chủ ngữ, vị ngữ...); vai trò của ngôn ngữ đối với xã hội (chức năng làm phương tiện giao tiếp, biểu hiện tư duy của con người); chỉ tác dụng của ngôn từ cụ thể trong giao tiếp (chức năng thông báo, biểu cảm...)
Đối với lí luận nhà nước và pháp luật, chức năng nhà nước là một trong những khái niệm cơ bản, phản ánh bản chất, nội dung hoạt động và vai trò quản lí của nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với tư cách là chủ thể của quản lí nhà nước, bộ máy nhà nước bao gồm hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà nước và đội ngũ công chức có trách nhiệm và quyền hạn tổ chức và thực hiện các chức năng nhà nước để bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; phát triển và hoàn thiện các quan hệ xã hội theo hướng văn minh, tiến bộ.
Chức năng nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản quan trọng nhất của nhà nước, phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ quản lí nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chức năng của nhà nước được xác định từ bản chất, vai trò của nhà nước trong đời sống xã hội và ngược lại, các chức năng nhà nước lại là sự biểu hiện cụ thể của bản chất và vai trò của nhà nước. Nội dung và tính chất của các chức năng nhà nước chịu sự tác động của nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường sinh thái, tình hình quốc tế... Nói cách khác, chức năng của nhà nước được quy định bởi thực tế khách quan của tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong nước và quốc tế trong từng thời kì lịch sử cụ thể. Trong thời đại hiện nay, các xu thế lớn của thế giới như hòa bình, hợp tác và phát triển, toàn cầu hóa kinh tế, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục phát triển, các lực lượng chủ yếu của thời đại tiếp tục có những vận động mới, các nước tiếp tục điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình... Tất cả những sự biến đổi đó, ở mức độ này hay mức độ khác đều có tác động và ảnh hưởng đến việc nhận thức và thực hiện các chức năng nhà nước. Vì vậy, khi nghiên cứu về chức năng nhà nước cần phải có quan điểm toàn diện, khoa học và thực tiễn; gắn chức năng nhà nước với bản chất và vai trò của nhà nước trong đời sống xã hội, đặt các vấn đề về chức năng nhà nước trong những mối quan hệ biện chứng với các vấn đề khác, trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, chú trọng các yếu tố truyền thống và hiện đại.
Tùy thuộc vào cách tiếp cận và nhận thức, chức năng nhà nước có thể được xác định và giải thích theo những tiêu chí khác nhau. Cách tiếp cận truyền thống chia chức năng của nhà nước thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại, coi các lĩnh vực của đời sống xã hội là khách thể của quản lí nhà nước và mục đích, yêu cầu quản lí nhà nước theo từng lĩnh vực là tiêu chí căn bản để phân định chức năng nhà nước.
1. Chức năng đối nội
Chức năng đối nội là phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước trong nội bộ đất nước để quản lí các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm:
- Chức năng chính trị: Nội dung chủ yếu là thiết lập hệ thống các thiết chế quyền lực nhà nước thống nhất, đồng bộ, hiệu quả, tiến hành các hoạt động để bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, trấn áp những phần tử phản động có những hành vi chống đối chính quyền, xâm phạm quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân; xác lập các nguyên tắc, quy định tạo cơ sở pháp lí cho việc quản lí các tổ chức và cá nhân khi tham gia vào các quan hệ chính trị.
- Chức năng kinh tế: Thể hiện vai trò của nhà nước trong việc xác lập và bảo vệ chế độ kinh tế phù hợp với bản chất nhà nước và trình độ phát triển kinh tế-xã hội trong từng thời kì bằng các hoạt động chủ yếu như: ban hành chính sách, kế hoạch về phát triển kinh tế của đất nước; tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh; sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ, pháp luật để tác động, quản lí và giải quyết những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực kinh tế...
- Chức năng xã hội: Thể hiện thuộc tính xã hội và vai trò của nhà nước trong việc tác động vào lĩnh vực xã hội để bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội, giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng xã hội bằng các hoạt động như: đề ra các chính sách, pháp luật và tạo các điều kiện để giải quyết các vấn đề về văn hóa, giáo dục, y tế, lao động và việc làm, xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm, cứu trợ xã hội, phòng chống thiên tai, phòng chống tệ nạn xã hội....
- Chức năng bảo đảm trật tự pháp luật và pháp chế: Đây là một trong những chức năng đặc thù, thể hiện bản chất và vai trò của nhà nước đồng thời cũng phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật. Nội dung chủ yếu của chức năng này thể hiện ở chỗ nhà nước tiến hành các hoạt động xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu quản lí xã hội, bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của công dân trong từng thời kì; tổ chức thực hiện và hình thành các thiết chế cần thiết để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện và giải quyết những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực này.
2. Chức năng đối ngoại
Chức năng đối ngoại là phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước trên trường quốc tế, bao gồm:
- Thiết lập và thực hiện các quan hệ hợp tác về các lĩnh vực với các quốc gia khác.
- Phòng thủ đất nước, chống sự xâm lược từ bên ngoài, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
- Tham gia vào các hoạt động quốc tế vì lợi ích chung của cộng đồng như: bảo vệ môi trường, chống khủng bố, buôn lậu ma túy và các tội phạm quốc tế khác và vì mục đích nhân đạo như ủng hộ và tham gia các hoạt động cứu trợ quốc tế trong các trường hợp khẩn cấp như động đất, sóng thần, bão lũ...
3. Một số chức năng mới của nhà nước.
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, của dân chủ và tiến bộ xã hội, của toàn cầu hóa, giao lưu và tiếp biến văn hóa, vai trò của nhà nước ở trong nước cũng như trên trường quốc tế cũng đã có những biến đổi mạnh mẽ, đòi hỏi các nhà nước hiện đại phải tổ chức thực hiện một số chức năng mới. Theo đó, các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước cũng đã có sự gia tăng về số lượng và mở rộng về phạm vi hoạt động. Bên cạnh các chức năng truyền thống nói trên, các chức năng mới đã xuất hiện và ngày càng quan trọng như: Chức năng văn hóa, giáo dục, bảo vệ môi trường sinh thái...
Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác định và thực hiện các chức năng đối ngoại luôn chịu sự tác động rất nhiều từ các chức năng đối nội, Đồng thời, việc xác định đúng đắn và thực hiện có hiệu quả các chức năng đối ngoại về tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng tích cực tới việc thực hiện các chức năng đối nội.
4. Các phương thức thực hiện chức năng nhà nước
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều phương thức khác nhau, trong đó có các phương thức chính là: Điều chỉnh pháp luật, thuyết phục, cưỡng chế và thanh tra, kiểm tra.
- Đối với phương thức điều chỉnh pháp luật, nhà nước quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể; tạo điều kiện và khuyến khích các chủ thể chủ động tham gia tích cực vào các quan hệ xã hội đồng thời có các chế tài nghiêm khắc để áp dụng đối với các trường hợp vi phạm.
- Phương thức thuyết phục được nhà nước sử dụng nhằm động viên và khuyến khích tính tích cực, tự giác và tự nguyện của các chủ thể trong việc đáp ứng các yêu cầu thực hiện chức năng của nhà nước.
- Phương thức cưỡng chế được nhà nước sử dụng trong trường hợp có vi phạm pháp luật và cần thiết phải áp dụng các biện pháp truy cứu trách nhiệm pháp lí.
- Phương thức thanh tra, kiểm tra được nhà nước sử dụng thường xuyên ở nhiều cấp độ khác nhau để đánh giá, phát hiện và xử lí kịp thời những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện các chức năng. Do tính chất phức tạp và quy mô rộng lớn của các chức năng nhà nước nên thanh tra, kiểm tra cũng có nhiều loại hình.
II. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước là loại thiết chế đặc biệt, là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của nhà nước. Nhờ có bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước được thể hiện và phát huy hiệu lực, chức năng nhà nước được triển khai, các mục tiêu, kế hoạch và nhiệm vụ cụ thể của nhà nước được thực hiện. Vì vậy, việc lựa chọn mô hình bộ máy nhà nước và nhận thức đầy đủ về các yếu tố có ảnh hưởng và tác động đến bộ máy nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng.
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước được thiết lập ra theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục luật định để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn đặt ra trước nhà nước trong từng thời kì cụ thể. Xuất phát từ tính chất, vị trí, vai trò và trách nhiệm của nhà nước, bộ máy nhà nước có hệ thống cơ quan được bố trí rộng khắp từ trung ương xuống địa phương với đội ngũ công chức và nhân viên hết sức đông đảo và nhiều loại được tổ chức và phân công, phân cấp cụ thể theo luật định.
Bộ máy nhà nước khác với hệ thống chính trị ở chỗ: Hệ thống chính trị bao gồm các cơ quan, tổ chức nhà nước và phi nhà nước, còn bộ máy nhà nước chỉ bao gồm các cơ quan nhà nước. Khái niệm hệ thống chính trị rộng hơn khái niệm bộ máy nhà nước và do sự đa dạng về các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị nên các nguyên tắc, tổ chức và vận hành của hệ thống chính trị cũng có nhiều điểm khác biệt so với nguyên tắc tổ chức và vận hành của bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước là hệ thống lớn bao gồm nhiều hệ thống các cơ quan nhà nước hợp thành, trong đó mỗi cơ quan nhà nước là một mắt xích của hệ thống đó. Cơ quan nhà nước khác với các cơ quan và tổ chức phi nhà nước ở những điểm cơ bản, đó là:
Thứ nhất, các cơ quan nhà nước được thành lập theo ý chí nhà nước, theo nguyên tắc và trình tự luật định; được nhân danh nhà nước để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, mỗi cơ quan nhà nước có địa vị pháp lí nhất định, có vị trí, vai trò nhất định trong bộ máy nhà nước, có cơ cấu tổ chức, phạm vi hoạt động và những mối quan hệ tương tác với các cơ quan nhà nước khác.
Thứ ba, mỗi cơ quan nhà nước được trao những quyền hạn nhất định để thực hiện những nhiệm vụ cụ thể theo những giới hạn và hình thức luật định.
2. Cơ cấu của bộ máy nhà nước.
Cơ cấu của bộ máy nhà nước là cấu trúc bên trong và trật tự sắp xếp các bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước và những mối quan hệ tương hỗ giữa chúng. Bộ máy nhà nước là hệ thống chỉnh thể, dung hợp trong nó những cơ cấu quyền lực lớn và được thể hiện với tư cách là những hệ thống cục bộ và cụ thể.
Bộ máy nhà nước của mỗi nước có thể được tổ chức không giống nhau. Tuy nhiên, nhìn tổng thể thì bộ máy nhà nước thường có ba bộ phận lớn hợp thành, đó là: Hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan đại diện), hệ thống cơ quan quản lí nhà nước và hệ thống cơ quan tư pháp. Mỗi hệ thống này có cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn xác định để tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước dưới dạng quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Hệ thống cơ quan quyền lực có vị trí và vai trò quan trọng trong bộ máy nhà nước. Các cơ quan này bao gồm các cơ quan trung ương và các cơ quan địa phương. Các cơ quan quyền lực ở trung ương thường được tổ chức theo mô hình nghị viện hay quốc hội và có chức năng chủ yếu là lập pháp. Bên cạnh các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương, trong nhiều quốc gia còn có các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Tên gọi, cách thức tổ chức và hoạt động của các cơ quan này có khác nhau tùy thuộc vào điều kiện và sự lựa chọn của mỗi quốc gia nhưng với tính chất là cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước ở địa phương.
- Hệ thống cơ quan quản lí nhà nước có cơ cấu tổ chức khác với hệ thống cơ quan quyền lực, có bộ máy và đội ngũ công chức lớn nhất được phân bố rộng khắp trên phạm vi cả nước để thực hiện các chức năng quản lí và điều hành thường xuyên, thống nhất và thông suốt. Hệ thống cơ quan quản lí nhà nước cũng được phân chia thành các cơ quan trung ương và các cơ quan địa phương. Các cơ quan trung ương thực hiện chức năng quản lí và điều hành trên toàn lãnh thổ còn các cơ quan địa phương chỉ giới hạn các hoạt động của mình trong giới hạn hành chính-lãnh thổ xác định. Căn cứ vào tính chất, mức độ và nội dung thẩm quyền, các cơ quan quản lí nhà nước còn phân định thành cơ quan có thẩm quyền chung, cơ quan có thẩm quyền quản lí ngành và cơ quan có thẩm quyền riêng.
- Hệ thống cơ quan tư pháp mà trung tâm là hệ thống tòa án có vị trí và vai trò rất quan trọng trong cơ cấu bộ máy nhà nước. Hệ thống cơ quan tư pháp đại diện cho quyền tư pháp và có địa vị pháp lí được quy định trong các văn bản pháp luật có giá trị cao. Trong xã hội hiện đại, những vấn đề này thường được quy định trong hiến pháp và các đạo luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
3. Các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lí, những tư tưởng chỉ đạo có tính then chốt (xuất phát điểm), thể hiện bản chất, nội dung, ý nghĩa, mục tiêu và nhiệm vụ của nhà nước, tạo cơ sở cho việc tổ chức và triển khai các hoạt động của bộ máy nhà nước. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu, đề xuất và áp dụng từ nhiều thế kỉ trước nhưng trên thực tế cho thấy có sự khác biệt về quan niệm, nhận thức và áp dụng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong các quốc gia rất khác nhau.
Mặc dù còn có những sự khác nhau nhất định nhưng cùng với thời gian, các nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn có giá trị và được áp dụng một cách khá phổ biến trong nhiều quốc gia qua các thời kì lịch sử và đương đại. Đó là các nguyên tắc như: Nguyên tắc tối ưu hóa tổ chức và cấu trúc bộ máy nhà nước; nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; nguyên tắc bảo đảm tính chuyên nghiệp của công chức nhà nước, đề cao các tiêu chuẩn về đạo đức, văn hóa và tính trung thực của các nhà chức trách...
Trong xã hội hiện đại, khi mô hình nhà nước pháp quyền đã trở nên phổ biến và các giá trị của nó được nghiên cứu, vận dụng vào điều kiện cụ thể của mỗi nước theo nhiều cách thức khác nhau thì các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước lại được đtặ ra như yêu cầu khách quan cần được nghiên cứu và giải thích cho phù hợp với tình hình mới.
III. KIỂU NHÀ NƯỚC
Kiểu nhà nước là một trong những khái niệm cơ sở có ý nghĩa quan trọng của lí luận về nhà nước và pháp luật. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống và phân nhóm nhà nước thành các kiểu là nhu cầu cần thiết và có nhiều ý nghĩa. Sự phát triển của nhà nước là bộ phận quan trọng trong quá trình phát triển xã hội loài người. Nhận thức đúng về quá trình phát triển của nhà nước sẽ góp phần thiết thực vào việc giải thích quá trình phát triển của nhân loại. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của việc nghiên cứu và hệ thống hóa các kiểu nhà nước thể hiện cụ thể ở những điểm chủ yếu sau:
- Nghiên cứu về kiểu nhà nước là nghiên cứu chuyên sâu về những cơ sở, tiền đề, điều kiện, quá trình tồn tại, phát triển và thay đổi của các kiểu nhà nước. Đây là hướng nghiên cứu chuyên sâu về nhà nước và kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp những kiến thức then chốt cho việc nhận thức và giải thích đúng đắn các vấn đề cơ bản khác của lí luận như bản chất, ý nghĩa xã hội, chức năng, hình thức, vị trí, vai trò của nhà nước trong xã hội.
- Trên cơ sở của khái niệm kiểu nhà nước và những kiến thức then chốt đó, chúng ta có thể nhận thức được một cách cụ thể và logic về bản chất và ý nghĩa xã hội của các nhà nước được xếp vào cùng kiểu, về những điều kiện tồn tại và phát triển của các nhà nước đó. Ví dụ: Khi xác định một nhà nước đã tồn tại trong thời điểm lịch sử nhất định thuộc kiểu nhà nước nào đó, chúng ta sẽ có ngay những thông tin cơ bản về bản chất và những dấu hiệu đặc trưng chung của nhà nước đó.
- Nghiên cứu và hệ thống hóa các kiểu nhà nước tạo cơ sở cho việc đi sâu phân tích, so sánh, kiểm chứng các quan điểm, lí thuyết về nhà nước và tìm hiểu kinh nghiệm về tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước trong từng thời kì lịch sử cụ thể.
Kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của nhà nước, thể hiện bản chất của nhà nước và những điều kiện tồn tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế-xã hội nhất định. Đề nghiên cứu về kiểu nhà nước cần chú trọng một số vấn đề có tính tiền đề cơ bản đó là: Thứ nhất, cần quan niệm đúng đắn về quá trình phát triển của xã hội loài người và quá trình phát triển của nhà nước. Đó là quá trình phát triển lâu dài và liên tục; sự phát triển của nhà nước là bộ phận của sự phát triển xã hội. Thứ hai, quá trình đó luôn gắn với sự phát triển của nhà nước theo quy luật vận động chung của xã hội và quy luật riêng của nhà nước, được biểu hiện ở những nét đặc sắc và những thay đổi cơ bản trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà chúng ta có thể nhận diện được. Ví dụ, một trong những đặc điểm quan trọng của kiểu nhà nước chủ nô là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và nô lệ; một trong những đặc điểm của kiểu nhà nước phong kiến là phong hầu kiến địa, áp dụng nguyên tắc tương ứng giữa quyền lực được trao và ruộng đất được cấp; một trong những đặc điểm của kiểu nhà nước tư sản là xác lập về hình thức pháp lí nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Thứ ba, nắm vững các quan điểm trong học thuyết về các hình thái kinh tế-xã hội của C. Mác để vận dụng và luận chứng về kiểu nhà nước. Mỗi kiểu nhà nước phù hợp với một chế độ kinh tế-xã hội nhất định; đặc điểm chung của mỗi hình thái kinh tế-xã hội sẽ quyết định những dấu hiệu cơ bản, đặc thù của kiểu nhà nước tương ứng.
Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế-xã hội: Chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Phù hợp với bốn hình thái kinh tế-xã hội đó đã có bốn kiểu nhà nước:
- Kiều nhà nước chủ nô;
- Kiểu nhà nước phong kiến;
- Kiểu nhà nước tư sản;
- Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản mặc dù mỗi kiểu có những đặc điểm riêng nhưng chúng đều là những kiểu nhà nước được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và quyền lực nhà nước luôn thuộc về giai cấp thống trị là số ít trong xã hội. Vì vậy, về bản chất, tính xã hội của nhà nước được biểu hiện hạn chế hơn so với tính giai cấp của nhà nước. Nhà nước trước hết là công cụ để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì địa vị và sự thống trị của giai cấp, lực lượng cầm quyền đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, của văn minh và dân chủ, mức độ thể hiện tính xã hội của nhà nước đã có những thay đổi trong từng kiểu nhà nước theo hướng mở rộng tính xã hội của nhà nước, nhà nước ngày càng quan tâm nhiều hơn tới việc thực hiện các chức năng xã hội và tôn trọng giá trị xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới có bản chất khác với các kiểu nhà nước bóc lột.(1) Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng kiểu nhà nước mới tiến bộ hơn là quy luật tất yếu. Quy luật về sự thay thế các kiểu nhà nước phù hợp với quy luật về sự phát triển và thay thế của các hình thái kinh tế-xã hội. Theo đó, nhà nước phong kiến thay thế nhà nước chủ nô, nhà nước tư sản thay thế nhà nước phong kiến và nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ thay thế nhà nước tư sản.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về kiểu nhà nước cần phải chú ý tính thực tiễn và giá trị của lí luận ứng dụng. Luận điểm chung về kiểu nhà nước có ý nghĩa lí luận và phương pháp luận quan trọng nhưng nếu không chú trọng tính thực tiễn và tính ứng dụng của lí luận thì có thể dễ rơi vào chủ nghĩa giáo điều. Cụ thể: Kiểu nhà nước là khái niệm chung dùng để chỉ các nhà nước đã tồn tại và phát triển trong hình thái kinh tế-xã hội tương ứng, nghĩa là chúng có những cơ sở và điều kiện tương tự nhau. Tuy nhiên, hình thái kinh tế-xã hội có thể rất khác so với nhà nước ở thời kì tiếp sau. Ví dụ, nhà nước tư sản thời kì đầu với nhà nước tư sản hiện đại đã có nhiều biến đổi cần được xem xét cụ thể, khách quan và khoa học.
IV. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Để xác định vị trí của nhà nước trong xã hội có giai cấp trước hết cần tìm hiểu mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội nói chung. Nhà nước và xã hội là hai hiện tượng có quan hệ qua lại mật thiết với nhau, giữa chúng vừa có sự thống nhất lại vừa có sự khác biệt. Sự thống nhất thể hiện ở chỗ xã hội không thể tồn tại thiếu nhà nước đồng thời nhà nước chỉ xuất hiện, tồn tại và phát triển trong xã hội với những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, nhà nước và xã hội là hai phạm trù khác biệt, không đồng nhất với nhau. Xã hội là phạm trù có nội hàm rộng hơn phạm trù nhà nước. Về mặt cơ cấu, xã hội được hình thành từ các giai cấp và tầng lớp khác nhau còn nhà nước được cấu thành từ những chế định pháp lí và thiết chế nhà nước. Trong xã hội tồn tại nhiều thiết chế khác nhau, trong đó nhà nước là thiết chế lớn nhất và đặc biệt nhất. Bên cạnh nhà nước còn có các thiết chế khác như các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội và nghề nghiệp, các tổ chức tôn giáo... Trong mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và xã hội thì xã hội giữ vai trò quyết định, là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của nhà nước. Những biến đổi trong sự vận động và phát triển của xã hội sớm hay muộn cũng sẽ tác động và dẫn tới sự thay đổi tương ứng của nhà nước. Ngược lại, nhà nước lại có sự tác động mạnh mẽ tới sự phát triển mọi mặt của xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu những vấn đề về nhà nước phải gắn chúng với những điều kiện cụ thể của xã hội đồng thời cũng phải chú ý đến những quy luật phát triển riêng của nhà nước, chú ý đến vai trò của nó trong sự tác động trở lại đối với xã hội.
Nhà nước là bộ phận của thượng tầng kiến trúc xã hội, nó là sản phẩm của chế độ kinh tế-xã hội nhất định. Sự phát triển của hạ tầng cơ sở luôn tác động và ảnh hưởng tới sự phát triển của nhà nước và trong những trường hợp nhất định giữ vai trò quyết định đối với nhà nước. Tuy nhiên, những sự biến đổi của nhà nước không phải chỉ phụ thuộc vào cơ sở kinh tế của xã hội. Các điều kiện chính trị, văn hóa, pháp luật... đều có ảnh hưởng đến sự phát triển của nhà nước. Ngược lại, nhà nước luôn tác động mạnh mẽ đến cơ sở kinh tế, đến những điều kiện và quá trình phát triển của sản xuất xã hội cũng như đến các hiện tượng xã hội khác.
Trong xã hội có giai cấp, để bảo vệ và thực hiện những lợi ích của mình, ngoài nhà nước ra, giai cấp thống trị còn thiết lập nhiều tổ chức chính trị-xã hội khác nữa trong đó đáng chú ý nhất là các đảng phái chính trị. So với các tổ chức chính trị-xã hội đó, nhà nước có vai trò đặc biệt, nó nằm ở vị trí trung tâm giữa các tổ chức chính trị-xã hội, bởi vì chỉ nhà nước mới có các cơ quan đặc biệt cùng với các phương tiện vật chất kèm theo như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù... cho nên nó có thể tác động một cách mạnh mẽ và toàn diện đến đời sống xã hội. Sự tác động của nhà nước đến quá trình phát triển của xã hội được thực hiện thông qua việc đề ra chủ trương đường lối, chính sách nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị của giai cấp cầm quyền. Các chủ trương, chính sách của nhà nước bao giờ cũng thể hiện một cách trực tiếp lợi ích kinh tế, chính trị của các giai cấp. Chẳng hạn, chính sách của nhà nước tư sản luôn luôn xuất phát từ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh và bảo vệ các lợi ích chung của giai cấp tư sản; chính sách của nhà nước xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, luôn phản ánh và bảo vệ lợi ích chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện những lợi ích cơ bản của giai cấp cho nên sự tham gia của nhà nước vào việc xác định nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, xác định phương hướng, hình thức và nội dung hoạt động của nhà nước là yếu tố quan trọng trong chính sách của nhà nước.
CHỨC NĂNG, BỘ MÁY, KIỂU VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
I. CHỨC NĂNG NHÀ NƯỚC
Thuật ngữ chức năng được sử dụng khá phổ biến trong khoa học và trong thực tiễn với nhiều nghĩa khác nhau. Ví dụ, trong triết học và xã hội học, chức năng được dùng để chỉ tác động của các đặc tính của hệ thống khách thể đối với các hệ thống môi trường cùng nằm trong hệ thống các quan hệ với khách thể đang xem xét một hệ thống quan hệ nhất định (như chức năng giác quan, chức năng tiền tệ...); kết quả đối với hệ thống xã hội của hiện tượng, yếu tố, thể chế xã hội có tác dụng góp phần vào sự vận hành, duy trì hệ thống đó. Trong ngôn ngữ học, chức năng được dùng để chỉ vai trò, nhiệm vụ của đơn vị ngôn ngữ hoặc các yếu tố trong hệ thống ngôn ngữ; sự cụ thể hóa vai trò của yếu tố ngôn ngữ trong lời nói cụ thể (chức năng chủ ngữ, vị ngữ...); vai trò của ngôn ngữ đối với xã hội (chức năng làm phương tiện giao tiếp, biểu hiện tư duy của con người); chỉ tác dụng của ngôn từ cụ thể trong giao tiếp (chức năng thông báo, biểu cảm...)
Đối với lí luận nhà nước và pháp luật, chức năng nhà nước là một trong những khái niệm cơ bản, phản ánh bản chất, nội dung hoạt động và vai trò quản lí của nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Với tư cách là chủ thể của quản lí nhà nước, bộ máy nhà nước bao gồm hệ thống các cơ quan, tổ chức nhà nước và đội ngũ công chức có trách nhiệm và quyền hạn tổ chức và thực hiện các chức năng nhà nước để bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; phát triển và hoàn thiện các quan hệ xã hội theo hướng văn minh, tiến bộ.
Chức năng nhà nước là những phương diện hoạt động cơ bản quan trọng nhất của nhà nước, phù hợp với bản chất, mục đích, nhiệm vụ quản lí nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chức năng của nhà nước được xác định từ bản chất, vai trò của nhà nước trong đời sống xã hội và ngược lại, các chức năng nhà nước lại là sự biểu hiện cụ thể của bản chất và vai trò của nhà nước. Nội dung và tính chất của các chức năng nhà nước chịu sự tác động của nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường sinh thái, tình hình quốc tế... Nói cách khác, chức năng của nhà nước được quy định bởi thực tế khách quan của tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội trong nước và quốc tế trong từng thời kì lịch sử cụ thể. Trong thời đại hiện nay, các xu thế lớn của thế giới như hòa bình, hợp tác và phát triển, toàn cầu hóa kinh tế, cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục phát triển, các lực lượng chủ yếu của thời đại tiếp tục có những vận động mới, các nước tiếp tục điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình... Tất cả những sự biến đổi đó, ở mức độ này hay mức độ khác đều có tác động và ảnh hưởng đến việc nhận thức và thực hiện các chức năng nhà nước. Vì vậy, khi nghiên cứu về chức năng nhà nước cần phải có quan điểm toàn diện, khoa học và thực tiễn; gắn chức năng nhà nước với bản chất và vai trò của nhà nước trong đời sống xã hội, đặt các vấn đề về chức năng nhà nước trong những mối quan hệ biện chứng với các vấn đề khác, trong những điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể, chú trọng các yếu tố truyền thống và hiện đại.
Tùy thuộc vào cách tiếp cận và nhận thức, chức năng nhà nước có thể được xác định và giải thích theo những tiêu chí khác nhau. Cách tiếp cận truyền thống chia chức năng của nhà nước thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại, coi các lĩnh vực của đời sống xã hội là khách thể của quản lí nhà nước và mục đích, yêu cầu quản lí nhà nước theo từng lĩnh vực là tiêu chí căn bản để phân định chức năng nhà nước.
1. Chức năng đối nội
Chức năng đối nội là phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước trong nội bộ đất nước để quản lí các lĩnh vực của đời sống xã hội, bao gồm:
- Chức năng chính trị: Nội dung chủ yếu là thiết lập hệ thống các thiết chế quyền lực nhà nước thống nhất, đồng bộ, hiệu quả, tiến hành các hoạt động để bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, trấn áp những phần tử phản động có những hành vi chống đối chính quyền, xâm phạm quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân; xác lập các nguyên tắc, quy định tạo cơ sở pháp lí cho việc quản lí các tổ chức và cá nhân khi tham gia vào các quan hệ chính trị.
- Chức năng kinh tế: Thể hiện vai trò của nhà nước trong việc xác lập và bảo vệ chế độ kinh tế phù hợp với bản chất nhà nước và trình độ phát triển kinh tế-xã hội trong từng thời kì bằng các hoạt động chủ yếu như: ban hành chính sách, kế hoạch về phát triển kinh tế của đất nước; tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh; sử dụng các công cụ tài chính, tiền tệ, pháp luật để tác động, quản lí và giải quyết những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực kinh tế...
- Chức năng xã hội: Thể hiện thuộc tính xã hội và vai trò của nhà nước trong việc tác động vào lĩnh vực xã hội để bảo đảm sự ổn định và phát triển xã hội, giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng xã hội bằng các hoạt động như: đề ra các chính sách, pháp luật và tạo các điều kiện để giải quyết các vấn đề về văn hóa, giáo dục, y tế, lao động và việc làm, xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm, cứu trợ xã hội, phòng chống thiên tai, phòng chống tệ nạn xã hội....
- Chức năng bảo đảm trật tự pháp luật và pháp chế: Đây là một trong những chức năng đặc thù, thể hiện bản chất và vai trò của nhà nước đồng thời cũng phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước và pháp luật. Nội dung chủ yếu của chức năng này thể hiện ở chỗ nhà nước tiến hành các hoạt động xây dựng và phát triển hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu quản lí xã hội, bảo đảm các quyền và lợi ích chính đáng của công dân trong từng thời kì; tổ chức thực hiện và hình thành các thiết chế cần thiết để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện và giải quyết những vấn đề phát sinh trong lĩnh vực này.
2. Chức năng đối ngoại
Chức năng đối ngoại là phương diện hoạt động cơ bản của nhà nước trên trường quốc tế, bao gồm:
- Thiết lập và thực hiện các quan hệ hợp tác về các lĩnh vực với các quốc gia khác.
- Phòng thủ đất nước, chống sự xâm lược từ bên ngoài, bảo vệ chủ quyền quốc gia.
- Tham gia vào các hoạt động quốc tế vì lợi ích chung của cộng đồng như: bảo vệ môi trường, chống khủng bố, buôn lậu ma túy và các tội phạm quốc tế khác và vì mục đích nhân đạo như ủng hộ và tham gia các hoạt động cứu trợ quốc tế trong các trường hợp khẩn cấp như động đất, sóng thần, bão lũ...
3. Một số chức năng mới của nhà nước.
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, của dân chủ và tiến bộ xã hội, của toàn cầu hóa, giao lưu và tiếp biến văn hóa, vai trò của nhà nước ở trong nước cũng như trên trường quốc tế cũng đã có những biến đổi mạnh mẽ, đòi hỏi các nhà nước hiện đại phải tổ chức thực hiện một số chức năng mới. Theo đó, các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước cũng đã có sự gia tăng về số lượng và mở rộng về phạm vi hoạt động. Bên cạnh các chức năng truyền thống nói trên, các chức năng mới đã xuất hiện và ngày càng quan trọng như: Chức năng văn hóa, giáo dục, bảo vệ môi trường sinh thái...
Các chức năng đối nội và đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Việc xác định và thực hiện các chức năng đối ngoại luôn chịu sự tác động rất nhiều từ các chức năng đối nội, Đồng thời, việc xác định đúng đắn và thực hiện có hiệu quả các chức năng đối ngoại về tác động mạnh mẽ và ảnh hưởng tích cực tới việc thực hiện các chức năng đối nội.
4. Các phương thức thực hiện chức năng nhà nước
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều phương thức khác nhau, trong đó có các phương thức chính là: Điều chỉnh pháp luật, thuyết phục, cưỡng chế và thanh tra, kiểm tra.
- Đối với phương thức điều chỉnh pháp luật, nhà nước quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể; tạo điều kiện và khuyến khích các chủ thể chủ động tham gia tích cực vào các quan hệ xã hội đồng thời có các chế tài nghiêm khắc để áp dụng đối với các trường hợp vi phạm.
- Phương thức thuyết phục được nhà nước sử dụng nhằm động viên và khuyến khích tính tích cực, tự giác và tự nguyện của các chủ thể trong việc đáp ứng các yêu cầu thực hiện chức năng của nhà nước.
- Phương thức cưỡng chế được nhà nước sử dụng trong trường hợp có vi phạm pháp luật và cần thiết phải áp dụng các biện pháp truy cứu trách nhiệm pháp lí.
- Phương thức thanh tra, kiểm tra được nhà nước sử dụng thường xuyên ở nhiều cấp độ khác nhau để đánh giá, phát hiện và xử lí kịp thời những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện các chức năng. Do tính chất phức tạp và quy mô rộng lớn của các chức năng nhà nước nên thanh tra, kiểm tra cũng có nhiều loại hình.
II. BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước là loại thiết chế đặc biệt, là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của nhà nước. Nhờ có bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước được thể hiện và phát huy hiệu lực, chức năng nhà nước được triển khai, các mục tiêu, kế hoạch và nhiệm vụ cụ thể của nhà nước được thực hiện. Vì vậy, việc lựa chọn mô hình bộ máy nhà nước và nhận thức đầy đủ về các yếu tố có ảnh hưởng và tác động đến bộ máy nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng.
Bộ máy nhà nước là hệ thống các cơ quan nhà nước được thiết lập ra theo những nguyên tắc, trình tự, thủ tục luật định để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn đặt ra trước nhà nước trong từng thời kì cụ thể. Xuất phát từ tính chất, vị trí, vai trò và trách nhiệm của nhà nước, bộ máy nhà nước có hệ thống cơ quan được bố trí rộng khắp từ trung ương xuống địa phương với đội ngũ công chức và nhân viên hết sức đông đảo và nhiều loại được tổ chức và phân công, phân cấp cụ thể theo luật định.
Bộ máy nhà nước khác với hệ thống chính trị ở chỗ: Hệ thống chính trị bao gồm các cơ quan, tổ chức nhà nước và phi nhà nước, còn bộ máy nhà nước chỉ bao gồm các cơ quan nhà nước. Khái niệm hệ thống chính trị rộng hơn khái niệm bộ máy nhà nước và do sự đa dạng về các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị nên các nguyên tắc, tổ chức và vận hành của hệ thống chính trị cũng có nhiều điểm khác biệt so với nguyên tắc tổ chức và vận hành của bộ máy nhà nước.
Bộ máy nhà nước là hệ thống lớn bao gồm nhiều hệ thống các cơ quan nhà nước hợp thành, trong đó mỗi cơ quan nhà nước là một mắt xích của hệ thống đó. Cơ quan nhà nước khác với các cơ quan và tổ chức phi nhà nước ở những điểm cơ bản, đó là:
Thứ nhất, các cơ quan nhà nước được thành lập theo ý chí nhà nước, theo nguyên tắc và trình tự luật định; được nhân danh nhà nước để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao.
Thứ hai, mỗi cơ quan nhà nước có địa vị pháp lí nhất định, có vị trí, vai trò nhất định trong bộ máy nhà nước, có cơ cấu tổ chức, phạm vi hoạt động và những mối quan hệ tương tác với các cơ quan nhà nước khác.
Thứ ba, mỗi cơ quan nhà nước được trao những quyền hạn nhất định để thực hiện những nhiệm vụ cụ thể theo những giới hạn và hình thức luật định.
2. Cơ cấu của bộ máy nhà nước.
Cơ cấu của bộ máy nhà nước là cấu trúc bên trong và trật tự sắp xếp các bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước và những mối quan hệ tương hỗ giữa chúng. Bộ máy nhà nước là hệ thống chỉnh thể, dung hợp trong nó những cơ cấu quyền lực lớn và được thể hiện với tư cách là những hệ thống cục bộ và cụ thể.
Bộ máy nhà nước của mỗi nước có thể được tổ chức không giống nhau. Tuy nhiên, nhìn tổng thể thì bộ máy nhà nước thường có ba bộ phận lớn hợp thành, đó là: Hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan đại diện), hệ thống cơ quan quản lí nhà nước và hệ thống cơ quan tư pháp. Mỗi hệ thống này có cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn xác định để tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước dưới dạng quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Hệ thống cơ quan quyền lực có vị trí và vai trò quan trọng trong bộ máy nhà nước. Các cơ quan này bao gồm các cơ quan trung ương và các cơ quan địa phương. Các cơ quan quyền lực ở trung ương thường được tổ chức theo mô hình nghị viện hay quốc hội và có chức năng chủ yếu là lập pháp. Bên cạnh các cơ quan quyền lực nhà nước ở trung ương, trong nhiều quốc gia còn có các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Tên gọi, cách thức tổ chức và hoạt động của các cơ quan này có khác nhau tùy thuộc vào điều kiện và sự lựa chọn của mỗi quốc gia nhưng với tính chất là cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước ở địa phương.
- Hệ thống cơ quan quản lí nhà nước có cơ cấu tổ chức khác với hệ thống cơ quan quyền lực, có bộ máy và đội ngũ công chức lớn nhất được phân bố rộng khắp trên phạm vi cả nước để thực hiện các chức năng quản lí và điều hành thường xuyên, thống nhất và thông suốt. Hệ thống cơ quan quản lí nhà nước cũng được phân chia thành các cơ quan trung ương và các cơ quan địa phương. Các cơ quan trung ương thực hiện chức năng quản lí và điều hành trên toàn lãnh thổ còn các cơ quan địa phương chỉ giới hạn các hoạt động của mình trong giới hạn hành chính-lãnh thổ xác định. Căn cứ vào tính chất, mức độ và nội dung thẩm quyền, các cơ quan quản lí nhà nước còn phân định thành cơ quan có thẩm quyền chung, cơ quan có thẩm quyền quản lí ngành và cơ quan có thẩm quyền riêng.
- Hệ thống cơ quan tư pháp mà trung tâm là hệ thống tòa án có vị trí và vai trò rất quan trọng trong cơ cấu bộ máy nhà nước. Hệ thống cơ quan tư pháp đại diện cho quyền tư pháp và có địa vị pháp lí được quy định trong các văn bản pháp luật có giá trị cao. Trong xã hội hiện đại, những vấn đề này thường được quy định trong hiến pháp và các đạo luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
3. Các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là những nguyên lí, những tư tưởng chỉ đạo có tính then chốt (xuất phát điểm), thể hiện bản chất, nội dung, ý nghĩa, mục tiêu và nhiệm vụ của nhà nước, tạo cơ sở cho việc tổ chức và triển khai các hoạt động của bộ máy nhà nước. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước đã được nhiều người quan tâm nghiên cứu, đề xuất và áp dụng từ nhiều thế kỉ trước nhưng trên thực tế cho thấy có sự khác biệt về quan niệm, nhận thức và áp dụng các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong các quốc gia rất khác nhau.
Mặc dù còn có những sự khác nhau nhất định nhưng cùng với thời gian, các nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn có giá trị và được áp dụng một cách khá phổ biến trong nhiều quốc gia qua các thời kì lịch sử và đương đại. Đó là các nguyên tắc như: Nguyên tắc tối ưu hóa tổ chức và cấu trúc bộ máy nhà nước; nguyên tắc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và hiệu quả trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; nguyên tắc bảo đảm tính chuyên nghiệp của công chức nhà nước, đề cao các tiêu chuẩn về đạo đức, văn hóa và tính trung thực của các nhà chức trách...
Trong xã hội hiện đại, khi mô hình nhà nước pháp quyền đã trở nên phổ biến và các giá trị của nó được nghiên cứu, vận dụng vào điều kiện cụ thể của mỗi nước theo nhiều cách thức khác nhau thì các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước lại được đtặ ra như yêu cầu khách quan cần được nghiên cứu và giải thích cho phù hợp với tình hình mới.
III. KIỂU NHÀ NƯỚC
Kiểu nhà nước là một trong những khái niệm cơ sở có ý nghĩa quan trọng của lí luận về nhà nước và pháp luật. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống và phân nhóm nhà nước thành các kiểu là nhu cầu cần thiết và có nhiều ý nghĩa. Sự phát triển của nhà nước là bộ phận quan trọng trong quá trình phát triển xã hội loài người. Nhận thức đúng về quá trình phát triển của nhà nước sẽ góp phần thiết thực vào việc giải thích quá trình phát triển của nhân loại. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của việc nghiên cứu và hệ thống hóa các kiểu nhà nước thể hiện cụ thể ở những điểm chủ yếu sau:
- Nghiên cứu về kiểu nhà nước là nghiên cứu chuyên sâu về những cơ sở, tiền đề, điều kiện, quá trình tồn tại, phát triển và thay đổi của các kiểu nhà nước. Đây là hướng nghiên cứu chuyên sâu về nhà nước và kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp những kiến thức then chốt cho việc nhận thức và giải thích đúng đắn các vấn đề cơ bản khác của lí luận như bản chất, ý nghĩa xã hội, chức năng, hình thức, vị trí, vai trò của nhà nước trong xã hội.
- Trên cơ sở của khái niệm kiểu nhà nước và những kiến thức then chốt đó, chúng ta có thể nhận thức được một cách cụ thể và logic về bản chất và ý nghĩa xã hội của các nhà nước được xếp vào cùng kiểu, về những điều kiện tồn tại và phát triển của các nhà nước đó. Ví dụ: Khi xác định một nhà nước đã tồn tại trong thời điểm lịch sử nhất định thuộc kiểu nhà nước nào đó, chúng ta sẽ có ngay những thông tin cơ bản về bản chất và những dấu hiệu đặc trưng chung của nhà nước đó.
- Nghiên cứu và hệ thống hóa các kiểu nhà nước tạo cơ sở cho việc đi sâu phân tích, so sánh, kiểm chứng các quan điểm, lí thuyết về nhà nước và tìm hiểu kinh nghiệm về tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước trong từng thời kì lịch sử cụ thể.
Kiểu nhà nước là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản, đặc thù của nhà nước, thể hiện bản chất của nhà nước và những điều kiện tồn tại và phát triển của nhà nước trong một hình thái kinh tế-xã hội nhất định. Đề nghiên cứu về kiểu nhà nước cần chú trọng một số vấn đề có tính tiền đề cơ bản đó là: Thứ nhất, cần quan niệm đúng đắn về quá trình phát triển của xã hội loài người và quá trình phát triển của nhà nước. Đó là quá trình phát triển lâu dài và liên tục; sự phát triển của nhà nước là bộ phận của sự phát triển xã hội. Thứ hai, quá trình đó luôn gắn với sự phát triển của nhà nước theo quy luật vận động chung của xã hội và quy luật riêng của nhà nước, được biểu hiện ở những nét đặc sắc và những thay đổi cơ bản trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể mà chúng ta có thể nhận diện được. Ví dụ, một trong những đặc điểm quan trọng của kiểu nhà nước chủ nô là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và nô lệ; một trong những đặc điểm của kiểu nhà nước phong kiến là phong hầu kiến địa, áp dụng nguyên tắc tương ứng giữa quyền lực được trao và ruộng đất được cấp; một trong những đặc điểm của kiểu nhà nước tư sản là xác lập về hình thức pháp lí nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Thứ ba, nắm vững các quan điểm trong học thuyết về các hình thái kinh tế-xã hội của C. Mác để vận dụng và luận chứng về kiểu nhà nước. Mỗi kiểu nhà nước phù hợp với một chế độ kinh tế-xã hội nhất định; đặc điểm chung của mỗi hình thái kinh tế-xã hội sẽ quyết định những dấu hiệu cơ bản, đặc thù của kiểu nhà nước tương ứng.
Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã tồn tại bốn hình thái kinh tế-xã hội: Chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Phù hợp với bốn hình thái kinh tế-xã hội đó đã có bốn kiểu nhà nước:
- Kiều nhà nước chủ nô;
- Kiểu nhà nước phong kiến;
- Kiểu nhà nước tư sản;
- Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản mặc dù mỗi kiểu có những đặc điểm riêng nhưng chúng đều là những kiểu nhà nước được xây dựng trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và quyền lực nhà nước luôn thuộc về giai cấp thống trị là số ít trong xã hội. Vì vậy, về bản chất, tính xã hội của nhà nước được biểu hiện hạn chế hơn so với tính giai cấp của nhà nước. Nhà nước trước hết là công cụ để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì địa vị và sự thống trị của giai cấp, lực lượng cầm quyền đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, của văn minh và dân chủ, mức độ thể hiện tính xã hội của nhà nước đã có những thay đổi trong từng kiểu nhà nước theo hướng mở rộng tính xã hội của nhà nước, nhà nước ngày càng quan tâm nhiều hơn tới việc thực hiện các chức năng xã hội và tôn trọng giá trị xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước mới có bản chất khác với các kiểu nhà nước bóc lột.(1) Nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa là thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội.
Sự thay thế kiểu nhà nước này bằng kiểu nhà nước mới tiến bộ hơn là quy luật tất yếu. Quy luật về sự thay thế các kiểu nhà nước phù hợp với quy luật về sự phát triển và thay thế của các hình thái kinh tế-xã hội. Theo đó, nhà nước phong kiến thay thế nhà nước chủ nô, nhà nước tư sản thay thế nhà nước phong kiến và nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ thay thế nhà nước tư sản.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về kiểu nhà nước cần phải chú ý tính thực tiễn và giá trị của lí luận ứng dụng. Luận điểm chung về kiểu nhà nước có ý nghĩa lí luận và phương pháp luận quan trọng nhưng nếu không chú trọng tính thực tiễn và tính ứng dụng của lí luận thì có thể dễ rơi vào chủ nghĩa giáo điều. Cụ thể: Kiểu nhà nước là khái niệm chung dùng để chỉ các nhà nước đã tồn tại và phát triển trong hình thái kinh tế-xã hội tương ứng, nghĩa là chúng có những cơ sở và điều kiện tương tự nhau. Tuy nhiên, hình thái kinh tế-xã hội có thể rất khác so với nhà nước ở thời kì tiếp sau. Ví dụ, nhà nước tư sản thời kì đầu với nhà nước tư sản hiện đại đã có nhiều biến đổi cần được xem xét cụ thể, khách quan và khoa học.
IV. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Để xác định vị trí của nhà nước trong xã hội có giai cấp trước hết cần tìm hiểu mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội nói chung. Nhà nước và xã hội là hai hiện tượng có quan hệ qua lại mật thiết với nhau, giữa chúng vừa có sự thống nhất lại vừa có sự khác biệt. Sự thống nhất thể hiện ở chỗ xã hội không thể tồn tại thiếu nhà nước đồng thời nhà nước chỉ xuất hiện, tồn tại và phát triển trong xã hội với những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, nhà nước và xã hội là hai phạm trù khác biệt, không đồng nhất với nhau. Xã hội là phạm trù có nội hàm rộng hơn phạm trù nhà nước. Về mặt cơ cấu, xã hội được hình thành từ các giai cấp và tầng lớp khác nhau còn nhà nước được cấu thành từ những chế định pháp lí và thiết chế nhà nước. Trong xã hội tồn tại nhiều thiết chế khác nhau, trong đó nhà nước là thiết chế lớn nhất và đặc biệt nhất. Bên cạnh nhà nước còn có các thiết chế khác như các đảng phái chính trị, các tổ chức xã hội và nghề nghiệp, các tổ chức tôn giáo... Trong mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và xã hội thì xã hội giữ vai trò quyết định, là cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của nhà nước. Những biến đổi trong sự vận động và phát triển của xã hội sớm hay muộn cũng sẽ tác động và dẫn tới sự thay đổi tương ứng của nhà nước. Ngược lại, nhà nước lại có sự tác động mạnh mẽ tới sự phát triển mọi mặt của xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu những vấn đề về nhà nước phải gắn chúng với những điều kiện cụ thể của xã hội đồng thời cũng phải chú ý đến những quy luật phát triển riêng của nhà nước, chú ý đến vai trò của nó trong sự tác động trở lại đối với xã hội.
Nhà nước là bộ phận của thượng tầng kiến trúc xã hội, nó là sản phẩm của chế độ kinh tế-xã hội nhất định. Sự phát triển của hạ tầng cơ sở luôn tác động và ảnh hưởng tới sự phát triển của nhà nước và trong những trường hợp nhất định giữ vai trò quyết định đối với nhà nước. Tuy nhiên, những sự biến đổi của nhà nước không phải chỉ phụ thuộc vào cơ sở kinh tế của xã hội. Các điều kiện chính trị, văn hóa, pháp luật... đều có ảnh hưởng đến sự phát triển của nhà nước. Ngược lại, nhà nước luôn tác động mạnh mẽ đến cơ sở kinh tế, đến những điều kiện và quá trình phát triển của sản xuất xã hội cũng như đến các hiện tượng xã hội khác.
Trong xã hội có giai cấp, để bảo vệ và thực hiện những lợi ích của mình, ngoài nhà nước ra, giai cấp thống trị còn thiết lập nhiều tổ chức chính trị-xã hội khác nữa trong đó đáng chú ý nhất là các đảng phái chính trị. So với các tổ chức chính trị-xã hội đó, nhà nước có vai trò đặc biệt, nó nằm ở vị trí trung tâm giữa các tổ chức chính trị-xã hội, bởi vì chỉ nhà nước mới có các cơ quan đặc biệt cùng với các phương tiện vật chất kèm theo như quân đội, cảnh sát, tòa án, nhà tù... cho nên nó có thể tác động một cách mạnh mẽ và toàn diện đến đời sống xã hội. Sự tác động của nhà nước đến quá trình phát triển của xã hội được thực hiện thông qua việc đề ra chủ trương đường lối, chính sách nhằm thực hiện các nhiệm vụ chính trị của giai cấp cầm quyền. Các chủ trương, chính sách của nhà nước bao giờ cũng thể hiện một cách trực tiếp lợi ích kinh tế, chính trị của các giai cấp. Chẳng hạn, chính sách của nhà nước tư sản luôn luôn xuất phát từ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh và bảo vệ các lợi ích chung của giai cấp tư sản; chính sách của nhà nước xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, luôn phản ánh và bảo vệ lợi ích chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc thực hiện những lợi ích cơ bản của giai cấp cho nên sự tham gia của nhà nước vào việc xác định nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, xác định phương hướng, hình thức và nội dung hoạt động của nhà nước là yếu tố quan trọng trong chính sách của nhà nước.
No comments:
Post a Comment