29/09/2014
Đặc điểm nhà nước và pháp luật Việt Nam thời kỳ Bắc thuộc
Lịch sử mỗi quốc gia khởi điểm từ sự hình thành của Nhà nước đầu tiên. Mỗi quốc gia, dân tộc lại có những đặc trưng khác nhau nhưng nhìn chung để một nhà nước có thể ra đời và tồn tại đều cần hội đủ những yếu tố về kinh tế - xã hội nhất định và những Nhà nước ở Việt Nam qua các thời kỳ cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong phạm vi bài tiểu luận, nhóm em xin được tìm hiểu, phân tích cụ thể về những đặc điểm của nhà nước ở Việt Nam thời Bắc thuộc.

B. NỘI DUNG


Năm 179 tr. CN, Triệu Đà vua nước Nam Việt (một chính quyền cát cứ ở nam Trung Quốc) đánh bại triều An Dương Vương, thống trị Âu Lạc. Từ đó, các triều đại phong kiến Trung Hoa kế tiếp nhau thống trị nước ta. Thời kỳ này thường được gọi là thời Bắc thuộc. Đến năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán xâm lược, xác lập nền độc lập dân tộc một cách vững chắc, chấm dứt 1117 năm đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Hoa.


Trong hơn 10 thế kỷ đó, không chỉ có Bắc thuộc mà còn có cả chống Bắc thuộc; có sự tồn tại thường xuyên của chính quyền đô hộ và xen vào đó trong một số thời gian ngắn, có những chính quyền tự chủ - thành quả của các phong trào đấu tranh giải phóng của nhân dân ta.

I/ Đặc điểm Nhà nước Việt Nam thời Bắc thuộc

Trong thời kỳ Bắc thuộc nhà nước Việt Nam có 2 đặc điểm nổi bật. Thứ nhất, đó là sự đan xen tồn tại của hai hệ thống chính quyền; thứ hai, là trên thực tế có sự tồn tại song song của hai hệ thống chính quyền.

1) Có hai hệ thống chính quyền đan xen tồn tại trong một phạm vi lãnh thổ

Hai hệ thống chính quyền đan xen tồn tại trong thời kì này đó là: chính quyền đô hộ của người Hán và chính quyền độc lập tự chủ của người Việt.

a) Hệ thống chính quyền đô hộ của người Hán

Trong thời kỳ Bắc thuộc, nước ta bị các triều đại sau đây của phong kiến Trung Hoa đô hộ: Nhà Triệu: 179 tr.CN – 111 tr.CN; Nhà Tây Hán 111 tr.Cn – 8 s.CN; Nhà Tấn 8 – 23; Đông Hán 23 – 40 & 43 – 220; Nhà Ngô 220 – 263 & 271 – 280; Nhà Ngụy 263 – 265; Nhà Tấn 265 – 271 & 280 – 420; Nhà Tống 420 – 477; Nhà Tề 477 – 501; Nhà Lương 502 – 544; Nhà Tùy 603 – 618; Nhà Đường 618 – 905; Nam Hán 930 – 931.

Nhìn chung, chính quyền đô hộ của phong kiến Trung Quốc mang những đặc điểm chung sau:

Chính quyền đô hộ được thiết lập ở Âu Lạc chỉ là một bộ phận của chính quyền địa phương của chính quyền phong kiến Trung Quốc được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh thổ.

Khi xâm chiếm, Trung Quốc đã sáp nhập Âu Lạc vào thành một bộ phận lãnh thổ Trung Quốc, coi như một địa phương. Coi chính quyền ở Âu Lạc như một bộ phận của chính quyền Trung Quốc, không được thiết lập chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Có thể chứng minh qua giai đoạn lịch sử như sau:

Năm 179 tr. CN, Triệu Đà vua nước Nam Việt (một chính quyền cát cứ ở nam Trung Quốc) đánh bại triều An Dương Vương, thống trị Âu Lạc. Sau đó, Triệu Đà sáp nhập đất đai Âu Lạc vào nước Nam Việt. Lãnh thổ Âu Lạc cũ bị chia làm 2 quận của Nam Việt: Giao Chỉ (Bắc Bộ) và Cửu Chân (Thanh – Nghệ - Tĩnh).

Năm 111 tr. CN nhà Hán chiếm được nước Nam Việt, trong đó có Âu Lạc cũ. Ở nước Hán lúc đầu cả nước được chia thành quận, huyện theo mô hình đơn vị hành chính nước Tần trước đây nên khi chiếm được Nam Việt nhà Hán chia vùng đất mới chiếm được thành 9 quận trực thuộc triều đình nhà Hán: Đạm Nhĩ, Chu Nhai (đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố (Quảng Đông), Uất Lâm, Thương Ngô (Quảng Tây), Giao Chỉ (Bắc Bộ), Cửu Chân (Thanh – Nghệ - Tĩnh), Nhật Nam (từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân).

Năm 589, nhà Tùy diệt nhà Trần và thống nhất Trung Quốc. Đến năm 602, nhà Tùy mang quân xâm lược nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế, đấy nước ta lại rơi vào ách thống trị của phong kiến phương Bắc sau gần 60 năm độc lập. Ở nước ta, nhà Tùy bãi bỏ cấp châu và lập ra sáu quận trực thuộc triều đình phong kiến Trung Quốc. Đó là các quận: Giao Chỉ ( Bắc Bộ) có 9 huyện, Cửu Chân ( Thanh Hóa) có 7 huyện, Nhật Nam ( Nghệ Tĩnh) có 8 huyện, Tỷ Ánh có 4 huyện, Hải Âm có 4 huyện, Lâm Ấp có 4 huyện.

Như vậy vào thời kỳ Bắc thuộc người Hán đã biến lãnh thổ Âu Lạc cũ thành một bộ phận lãnh thổ của Trung Quốc, thành những đơn vị hành chính địa phương châu, quận, huyện…của triều đình phong kiến Trung Quốc.

Là bộ máy hành chính quân sự: mang nặng tính chất hành chính quân sự.

Điều này thể hiện là bộ máy Nhà nước chỉ tồn tại được khi có sự hậu thuẫn của lực lượng quân đội. Do luôn luôn phải đối phó với sự nổi dậy của nhân dân Âu Lạc chống lại chính sách cai trị, đồng hóa dã man của người Hán.

Chính quyền người Hán vừa mang tính chất hành chính, vừa mang tính chất quân sự. Bên cạnh việc cử những quan văn đứng đầu các châu, quận, triều đình nhà Hán còn cử các võ tướng với quân đội đồn trú để sẵn sàng đối phó với những cuộc nổi dậy của người Việt.

Ví dụ: Vào thời nhà Triệu, hai viên quan Điển sứ đại diện triều đình Phiên Ngung, là sứ giả của vua Triệu có nhiệm vụ trông coi 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Giúp việc quan Điển sứ, bên cạnh một số quan chức người Hán và người Việt còn có một số lực lượng quân đội đồn trú ở 2 quận như chức “Tả tướng” là chức quan võ giúp quan Điển sứ kiềm chế các Lạc tướng người Việt và dân Âu Lạc.

Thời nhà Hán, có chức Bình tào tòng sự phụ trách về quân sự.

Sau khi nhà Đường thay thế nhà Tùy ở phương Bắc năm 618, ngoài việc cải cách hành chính, chính quyền đô hộ nhà Đường còn tăng cường lực lượng quân sự, ra sức xây đắp thành lũy ở phủ thành Tống Bình và các châu khác nhằm chống phá các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta và các cuộc đánh phá của của các nước láng giềng. Đặc biệt, có chức Tiết độ sứ là quan chức trực thuộc triều đình Trường An, thay mặt vua ở địa phương, vừa cai trị hành chính vừa chỉ huy quân sự.

Hiệu quả cai trị, quản lí của chính quyền đô hộ còn hạn chế.

Mặc dù người Hán luôn kiện toàn chính quyền nhưng cao nhất cũng chỉ quản lí được đến cấp huyện còn các xã, làng mạc vẫn luôn luôn chịu sự quản lí trực tiếp của người Việt. Bởi lẽ, từ trước tới nay, cấp cơ sở (làng, xã) của người Việt luôn mang tính chất khép kín cao, khi người Hán thực hiện chính sách đồng hóa, nhân dân càng co cụm lại củng cố được khối sực mạnh. Điều này làm cho hiệu quả cai trị không cao.

b) Hệ thống chính quyền độc lập tự chủ của người Việt

Đây là kết quả của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trong hơn 10 thế kỉ của nhân dân ta, từ chính quyền Hai Bà Trưng đến chính quyền của nhà nước Vạn Xuân (544 – 603), Nhà nước Chăm Pa (thế kỉ I – X), chính quyền họ Khúc (905 - 930) và chính quyền Dương Đình Nghệ (931 - 937).

Về chính quyền Hai Bà Trưng: Với một thời gian độc lập ngắn ngủi, Hai Bà Trưng chưa thể có điều kiện để xây dựng một bộ máy chính quyền vững chắc do đó vẫn sử dụng chủ yếu những luật lệ cổ truyền của người Việt để quản lí đất nước. Các Lạc tướng vẫn là những người quản lí ở địa phương.

Đặc điểm nhà nước dưới thời nhà nước Vạn Xuân: Lúc này cơ cấu triều đình còn đơn giản giúp việc cho Hoàng Đế có hai ban văn và ban võ. Vì hệ thống chính quyền độc lập tự chủ của người Việt dưới các triều đại chỉ có thể tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định do công cuộc gắn liền với công cuộc gìn giữ và bảo vệ đất nước nên chưa có nhiều thay đổi trong cơ cấu bộ máy nhà nước.

Chính quyền họ Khúc: đáng chú ý trong thời kì này là chính quyền do Khúc Hạo xây dựng. Ông là người cải cách hành chính đầu tiên ở Việt Nam. Để củng cố chính quyền tự chủ, xóa bỏ từng bước mô hình của chính quyền đô hộ còn đang tồn tại một cách hình thức, khắc phục tính phân tán của quyền lực thủ lĩnh địa phương, Khúc Hạo nỗ lực xây dựng một chính quyền dân tộc thống nhất từ trung ương đến xã. Ông chia lãnh thổ thành các cấp hành chính lộ, phủ, giao, châu, giáp, xã. Xã có xã quan đứng đầu là một chánh lệnh trưởng và một tá lệnh trưởng. Mỗi giáp có một quản giáp phụ trách chung và một nhóm phó tri giáp trông nom việc thu thuế. Cả nước có 314 giáp, gồm các hương trước đổi thành giáp và 150 giáp mới được đặt thêm. Các chức quan đứng đầu lộ, phủ, châu không được sử sách nói tới, có lẽ vẫn trao cho các hào trưởng địa phương đảm nhiệm.

→ Qua đó ta có thể thấy cha ông chúng ta đã thâu hóa kỹ thuật, cách thức tổ chức chính quyền theo đơn vị hành chính lãnh thổ nhiều cấp của người Trung Quốc để vận dụng xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước thời kì này.

Câu hỏi đặt ra là, vậy tại sao nước ta lại tiếp thu ngay cách thức tổ chức, quản lí của Trung Quốc ? Xuất phát từ điều kiện lịch sử đặc thù của Việt Nam. Thời gian tồn tại của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc quá ngắn, sự chuyển hóa từ công xã thị tộc sang Nhà nước còn sơ khai. Trong khi đó thì Trung Quốc đã sang thiết lập một thiết chế chính trị mới, trùm lên kiến trúc thượng tầng của Nhà nước phong kiến. Điều đó đã tác động ngược lại tới cơ sở hạ tầng của người Việt đó chính là nền kinh tế làm cho nền kinh tế nước ta lúc đó phát triển để phù hợp với kiến trúc thượng tầng đó. Khi nền kinh tế phát triển thì người Việt phải lựa chọn cách thức tổ chức chính quyền của người Trung Quốc để đạt được sự phù hợp giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Một lí do nữa đó là trước đó Việt Nam chưa từng tiếp xúc với một nền văn minh nào khác bởi vậy mà các hào trưởng đã nhanh chóng lựa chọn tiếp thu ngay cách tổ chức, quản lí của người Trung Quốc.

2) Trong thực tế luôn luôn có hai hệ thống chính quyền song song tồn tại trong một phạm vi lãnh thổ

Hệ thống chính quyền cấp cơ sở của người Việt được thiết lập, hình thành từ thời kì dựng nước gồm nông xã, nông thôn và làng Việt. Ở đây mang tính chất khép kín, ưu tiên điều chỉnh nội bộ bằng các phong tục tập quán và bảo lưu, duy trì tính chất làng Việt truyền thống. Xét theo chiều dọc thời gian, tuy kéo dài hành ngàn năm, nhưng nền đô hộ do chính quyền đô hộ thiết lập là không liên tục. Xét theo chiều ngang và chiều sâu của không gian, chính quyền đô hộ không thể với tay tới và làm thay đổi được cơ cấu làng xã cổ truyền của người Việt, nhiều vùng rộng lớn xa xôi vẫn nằm ngoài phạm vi cai trị của chúng.

Trong thực tế, với chính sách ràng buộc lỏng lẻo, chính quyền đô hộ không trực trị tới cấp huyện trong thời gian đầu và trong suốt thời Bắc thuộc không thể với tới các làng, xã. Triệu, Tây Hán chỉ đặt được Thái thú ở cấp quận. Từ Đông Hán, sau 43 năm chính quyền đô hộ được thiết lập tới cấp huyện song như lời thứ nhận của Thái thú Tiết Tổng là ở nhiều nơi “Trưởng lại tuy đặt, có cũng như không”, “huyện quan ràng buộc để cho sợ uy mà phục” còn thì “ phần nhiều buông lỏng”. Từ Tấn đến Tùy như nhận xét trong Tùy thư , chức quan cai trị trong các huyện phần nhiều là tuyển bổ “cừ súy” người Việt “hùng cứ lâu đời ở hương thôn” để thông qua họ mà thu cống phẩm, thuế má. Thời thuộc Đường, quan lại đô hộ chỉ đăng kí và đánh thuế được 57.000 hộ trên hàng chục vạn hộ cư dân An Nam.

Nhìn chung lại, các triều đại phong kiến Trung Hoa chỉ cướp được nước Âu Lạc chứ không trực trị được các làng Việt. Một học giả phương Tây sau này đã nhận xét, qua Bắc thuộc, nước Việt như một tòa nhà chỉ bị thay đổi mặt tiền mà không thay đổi cấu trúc bên trong. Thêm nữa cũng có nhận xét rằng, trong 10 thế kỉ Bắc thuộc chúng ta mất nước, mất một chính quyền đại diện cho đất nước nhưng không mất làng, từ làng chúng ta đã tiến lên giành lại nước.

II/ Nhận xét

Thứ nhất, qua phân tích có thể thấy một vấn đề đặt ra là tại sao lại có hai đặc điểm vừa đan xen, vừa song song tồn tại của các hệ thống chính quyền ? Theo quan điểm của nhóm, có thể lí giải như sau: Trong thời kì Bắc thuộc, có những giai đoạn sự đô hộ bị gián đoạn (có các cuộc khởi nghĩa nổi lên), chính quyền đô hộ không thể thiết lập được quyền cai trị trên lãnh thổ nước ta, và trong giai đoạn đó luôn có chính quyền của người Việt đan xen tồn tại. Mặt khác, tuy trên danh nghĩa nước ta chỉ là một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc và bộ máy Nhà nước cũng chỉ là một phần của bộ máy chính quyền đô hộ nhưng về bản chất, vẫn luôn là chính quyền của người Việt, tồn tại song song cùng với chính quyền đô hộ. Điều này đặc biệt được thể hiện ở cấp chính quyền cơ sở (làng, xã) khi mà người đứng đầu làng luôn là người Việt, do người dân trong làng bầu lên.

Thứ hai, trong thời kì này, tuy người Việt cũng đã xây dựng được hệ thống chính quyền tự chủ của mình, nhưng hệ thống chính quyền đóng vai trò chủ đạo vẫn là hệ thống chính quyền đô hộ của người Hán.

Vai trò chủ đạo này được thể hiện thông qua thời gian cai trị (chính quyền đô hộ của người Hán cai trị 966 năm trên tổng số 1059 năm trong khi chính quyền tự chủ của người Việt chỉ nắm được chính quyền trong 93 năm trên tổng số 1059 năm).

Hơn thế vai trò chủ đạo của hệ thống chính quyền đô hộ của người Hán còn thể hiện qua cách thức tổ chức chính quyền của người Việt: người Việt đã học theo cách thức tổ chức chính quyền của người Hán. Dù là ở hệ thống chính quyền đan xen hay song song tồn tại thì mô hình chính quyền của người Hán vẫn luôn giữ vai trò chủ đạo (ví dụ: chính quyền của Lí Bí, chính quyền của Khúc Hạo…).

C. KẾT LUẬN

Như vậy, qua tìm hiểu và phân tích chúng ta đã phần nào hiểu rõ hơn về những đặc điểm của Nhà nước Việt Nam thời Bắc thuộc. Ở thời kì này có hai hệ thống chính quyền vừa đan xen vừa song song tồn tại. Đây là những đặc điểm khá khác biệt, vì vậy chúng ta cần có những nghiên cứu và đánh giá toàn diện hơn để nắm vững sự phát triển của Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn lịch sử này.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Giáo trình Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007.

Tiến trình lịch sử Việt Nam – Nguyễn Quang Ngọc (chủ biên), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007.

No comments:

Post a Comment