22/08/2014
Vai trò của Giám đốc doanh nghiệp và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giám đốc trong doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay - Bài tập học kì môn Quản trị doanh nghiệp
Trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường đòi hỏi ở mỗi con người cần có năng lực chuyên môn, tâm huyết với nghề, có những tố chất nghề nghiệp thực sự… Những điều đó trước hết rất cần ở những người lãnh đạo tài ba, những người đứng đầu. Xét về khía cạnh khác của người đứng đầu doanh nghiệp hay còn gọi là giám đốc thì những yếu tố đó coi là hàng đầu để đưa sự phát triển của doanh nghiệp vững mạnh. Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là người lãnh đạo, đứng đầu doanh nghiệp – giám đốc doanh nghiệp là người như thế nào, vai trò của họ ra sao? Và phương hướng nâng cao chất lượng giám đốc?.


Để hiểu rõ hơn về vấn đề trên, em đã chọn đề bài số 5: “Vai trò của Giám đốc doanh ghiệp và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giám đốc trong doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay”.


NỘI DUNG

I. Khái niệm và vai trò của Giám đốc doanh nghiệp:

1. Khái niệm:

Hiện nay, còn nhiều khái niệm theo các khía cạnh khác nhau về Giám đốc doanh nghiệp. Có thể theo các khái niệm sau:

Thứ nhất: Khái niệm Giám đốc doanh nghiệp theo quan điểm truyền thống ở nước ta:

Theo quan điểm truyền thống chỉ có Nhà nước mới có quyền thành lập doanh nghiệp và những doanh nghiệp được thành lập ra đều là doanh nghiệp Nhà nước.Vì vậy, khái niệm Giám đốc doanh nghiệp chỉ được giới hạn trong phạm vi doanh nghiệp nhà nước. Theo khái niệm này thì giám đốc doanh nghiệp nhà nước vừa là người đại diện cho Nhà nước, vừa là đại diện cho tập thể những người lao động quản lý doanh nghiệp theo chế độ một thủ trưởng, có quyền quyết định việc điều hành mọi hoạt động của doanh nghiệp.

Khái niệm này chỉ rõ, trong cơ chế quản lý cũ, Giám đốc doanh nghiệp chịu sự chi phối của hai áp lực: một là, các cơ quan quản lý cấp trên; hai là, tập thể những người lao động mà đại hội công nhân viên chức là đại diện tối cao của tập thể những người lao động.

Từ khái niệm trên cho chóng ta nhận xét:

Giám đốc tất cả các doanh nghiệp đều do nhà nước bổ nhiệm và phải làm theo sự chỉ đạo của Nhà nước.

Những người lao động là chủ sở hữu của doanh nghiệp. Giám đốc là người đại diện cho những người lao động, sẽ là người đại diện chủ sở hữu trong doanh nghiệp.

Như vậy, Giám đốc vừa là người quản lý, vừa là người chủ sở hữu. Điều đó dẫn đến tình trạng: Giám đốc doanh nghiệp vừa là người đá bóng, vừa là người thổi còi điềukhiển trận đấu. trong nhiều trường hợp dẫn đến làm thất thoát vốn, sử dụng lãng phí các nguồn lực trong doanh nghiệp.

Thứ hai: Khái niệm Giám đốc doanh nghiệp trong cơ chế thị trường:

Theo khái niệm này thì Giám đốc doanh nghiệp là người quản lý, điều hành một doanh nghiệp sẵn có, bảo đảm kinh doanh có hiệu quả. Khái niệm chỉ rõ giám đốc chỉ là nhà quản lý có trình độ, kỹ năng, nghiệp vụ quản trị doanh nghiệp.

Giám đốc trong một số trường hợp có thể là người chủ sở hữu, nhưng cũng có thể chỉ là người quản lý.

Khái niệm này bao gồm cả Giám đốc doanh nghiệp Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp khác. với khái niệm này đòi hỏi Giám đốc phải có trình độ chuyên môn cao, phù hợp để hành nghề. Giám đốc có thể được bổ nhiệm, được tập thể bầu cũng có thể được doanh nghiệp thuê. Trên quan điểm này thực chất Giám đốc cũng là người làm thuê cho Nhà nước hoặc cho các tổ chức kinh doanh khác.

Thứ ba: Khái niệm Giám đốc gắn liền với khái niệm nhà kinh doanh:

Theo khái niệm này nhà kinh doanh được chia thành ba loại:

Nhà kinh doanh sáng lập: là người có sáng kiến hay chuyên môn đứng ra nghiên cứu thị trường, bỏ vốn hoặc vay vốn để thành lập doanh nghiệp, tự quản lý và phát triển doanh nghiệp.

Nhóm nhà kinh doanh: là hai hay nhiều người cộng tác với nhau để tạo lập và phát triển một doanh nghiệp trên cơ sở góp vốn, kỹ thuật, tài năng kinh doanh.

Đại lý độc quyền: là nhà kinh doanh mua được đặc quyền cung cấp, tiêu thụ sản phẩm cho một doanh nghiệp khác.

Từ khái niệm nhà kinh doanh chính, ta thấy rằng: đã là nhà kinh doanh phải là người chủ sở hữu nhưng không nhất thiết phải là Giám đốc doanh nghiệp (có thể trực tiếp làm Giám đốc, có thể họ thuê Giám đốc).

Đối với doanh nghiệp nhà nước, Giám đốc là người có thẩm quyền cao nhất và có trách nhiệm lớn nhất về kinh tế, kỹ thuật, hành chính theo nhiệm vụ và quyềnhạn đã quy định.

Giám đốc xí nghiệp là người đại diện cho Nhà nước điều hành mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo chế độ một thủ trưởng, Giám đốc là người đại diện đương nhiệm của pháp nhân thực hiện các hoạt động kinh doanh, làm chủ tài khoản, ký và thực hiện các hợp đồng kinh tế, các cam kết về tài sản.

Giám đốc là người trực tiếp nhận vốn do Nhà nước giao, chịu trách nhiệm trực tiếp về việc bảo tồn và phát triển vốn, thực hiện nghĩa vụ tài chính và các nghĩa vụ khác của doanh nghiệp với Nhà nước theo pháp luật.

Giám đốc do cấp trên có thẩm quyền bổ nhiệm. Đối với những doanh nghiệp áp dụng hình thức hội đồng quản trị căn cứ kết quả thi tuyển mà bổ nhiệm Giám đốc điều hành hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Giám đốc có những quyền hạn và nghĩa vụ chủ yếu sau:

+ Tổ chức thực hiện các quyết định của cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp: chấp hành luật pháp, chính sách, chế độc của Nhà nước.

+ Xây dựng, trình Hội đồng quản trị và trình cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp quyết định theo luật về kế hoạch kinh doanh hàng năm, về các phương án kinh doanh và quản lý;

+ Thực hiện các chế độ báo cáo (tình hình kinh doanh, kết quản tài chính....) theo quy định;

+ Tổ chức quản lý doanh nghiệp, quyết định tổ chức bộ máy quản lý trong đơn vị bảo đảm tinh giảm, có hiệu lực, đề nghị cấp trên bổ nhiệm hoặc miễn nhiệm Phó giám đốc, Giám đốc trực tiếp bổ nhiệm (miễn nhiệm ) các chức danh khác trong bộ máy quản lý doanh nghiệp; quyết định ban hành các quy chế về tổ chức, hành chính, các nội quy công tác trong nội bộ theo quy định chung của luật pháp Nhà nước;

+ Xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công nhân lành nghề, tuyển chọn, bố trí và sử dụng cán bộ trong doanh nghiệp; ký hợp đồng lao động và các thoả ước tập thể về lao động, thực hiện việc trả lương, thưởng, phụ cấp theo quy chế ;

+ Ra các quyết định, điều hành mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp theo kế hoạch đã được Hội đồng quản trị và cấp trên thông qua.

2. Đặc điểm lao động của giám đốc doanh nghiệp:

Chóng ta cần phải nắm được đặc điểm lao động của giám đốc doanh nghiệp để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng sử dụng với khả năng cống hiến của họ.

Trước khi nghiên cứu đặc điểm lao động của Giám đốc doanh nghiệp cần làm rõ cách nhìn lâu nay đối với Giám đốc doanh nghiệp.

Nhiều người cho rằng Giám đốc chỉ đơn thuần là một chức vụ do Nhà nước bổ nhiệm. Quan điểm này xuất phát từ cơ chế quản lý kế hoạch goá tập trung quan liêu bao cấp trước kia. Theo quan niệm này người ta ít chú ý đến khả năng chuyên môn của Giám đốc. Cứ có bao nhiêu doanh nghiệp Nhà nước ra đời thì cần bấy nhiêu chức vụ Giám đốc doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý cấp trên tìm ngườibổ nhiệm vào chức vụ ấy. Và thực tế, ai được bổ nhiệm cũng làm Giám đốc được, chưa có ai xin từ chức. 

Nhưng quan niệm Giám đốc chỉ là một chức vụ đã lỗi thời khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường và đã là cơ chế thị trường, Giám đốc phải là một nghề. Muốn chỉ huy kinh doanh một công ty phải có kiến thức chuyên môn về quản trị doanh nghiệp và phải có kỹ năng kinh nghiệm nhất định, bảo đảm vận hành bộ máy quản lý đạt hiệu quả cao.

Giám đốc là một nghề là quan niệm chính thống trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường.

Nghề giám đốc có những đặc điểm cơ bản sau:

+ Xét về tính chất lao động của Giám đốc đó là lao động quản lý mang tính chất gián tiếp, công việc quản trị doanh nghiệp đòi hỏi Giám đốc phải có trình độ quản lý cao, đạt tới “ nghệ thuật quản lý “ lao động của Giám đốc là lao động chấtxám mang tính sáng tạo.

+ Xét về đối tượng quản lý của Giám đốc không chỉ có yếu tố tĩnh lao động văn hoá, vốn, mà yếu tố quan trọng nhất của quản lý lại là tập thể những người lao động dưới quyền. Quản lý đối tượng này cần phải am hiểu cả về tâm lý, tình cảm, cuộc sống đời thường và giới tính của họ.....

+ Xét về sản phẩm lao động của giám đốc đó là những quyết định. Khác với những sản phẩm thông thường, để tạo ra một sản phẩm của giám đốc, lao động cơ bắp không đáng kể, nhưng hoạt động trí óc, hao tổn thần kinh đóng vai trò quyết định.

Người công nhân tạo ra sản phẩm có thể là chính phẩm, thứ phẩm, thậm chí phế phẩm. Nhưng sản phẩm lao động của giám đốc không có thứ phẩm mà chỉ có hoặc là chính phẩm, hoặc là phế phẩm. Sản phẩm phế phẩm của công nhân sẽ gây thiệt hại, nhưng chỉ trong giới hạn vật chất nhỏ hẹp, thậm chí không đáng kể, còn sản phẩm của Giám đốc trong mọi trường hợp đều gây hậu quả nghiêm trọng trong phạm vi lớn.

Chính vì lẽ đó, lao động của Giám đốc cần phải được đánh giá cao, thuộc dạng lao động phức tạp, gấp nhiều lần lao động đơn giản. Lao động đó phải được trả công cao.

3. Vai trò của Giám đốc doanh nghiệp:

Giám đốc doanh nghiệp là người có ảnh hưởng quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp.

Vai trò của Giám đốc doanh nghiệp có thể được nêu lên qua những nét sau đây:

+ Trong 3 cấp quản trị doanh nghiệp, Giám đốc là quản trị viên hàng đầu, là thủ trưởng cấp cao nhất trong doanh nghiệp. Giám đốc có quyền ra chỉ thị,mệnhlệnh mà mọi người trong doanh nghiệp phải nghiêm chỉnh chấp hành. Vì vậy, mỗiquyết định của Giám đốc có ảnh hưởng rất lớn trong phạm vi toàn doanh nghiệp. Với nghĩa này, Giám đốc là người tập hợp được trí tuệ của mọi người lao động trong doanh nghiệp, bảo đảm cho quyết định đúng đắn, đem lại hiệu quả kinh tế cao.

+ Vai trò quan trọng khác của Giám đốc là tổ chức bộ máy quản lý đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, bố trí hợp lý, cân đối lực lượng quản trị viên bảo đảm quan hệ bền vững trong tổ chức, hoạt động ăn khớp, nhịp nhàng, hoàn thành tốt mục tiêu đã đề ra.

Bố trí không đúng người, đúng việc sẽ gây ra những ách tắc trong hoạt động của bộ máy. Thưởng không đúng mức cũng sẽ gây những bất bình trong bộ máy, làm ảnh hưởng xấu đến bộ máy quản trị doanh nghiệp.

Về lao động: Giám đốc quản lý hàng trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng vạn lao động.

Vai trò của Giám đốc không chỉ ở chỗ chịu trách nhiệm về việc làm, thu nhập, đời sống của số lượng lớn lao động mà còn chịu trách nhiệm về cuộc sống tinh thần, nâng cao trình độ văn hoá chuyên môn cho họ, tạo cho họ những cơ hội để thăng tiến.

+ Về tài chính: Giám đốc là người quản lý, là chủ tì khoản của hàng trăm triệu hàng tỷ đồng. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay Giám đốc phải có trách nhiệm phát triển và bảo toàn vốn. Mọi quyết định sai lầm có thể dẫn đến làm thiệt hại bạc triệu, bạc tỷ cho doanh nghiệp.

Nói tóm lại, có thể ví doanh nghiệp như một con tàu mà Giám đốc là người cầm lái. Với vai trò chèo chống của mình, Giám đốc có thể đưa doanh nghiệp đến đích hoặc bị chìm.

*) Vai trò của Giám đốc doanh nghiệp khi nền kinh tế bất ổn:

Trong giai đoạn nền kinh tế bất ổn như hiện nay, các giám đốc có thể kinh ngạc trước sự thay đổi vận mệnh nhanh chóng của công ty. Công ty có thể rơi vào tình trạng khó khăn mà ban giám đốc không có bất kỳ sai lầm nào trong điều hành, quản lý. Điều tối quan trọng trong những trường hợp như thế này là các giám đốc phải ghi nhớ rằng thậm chí trong giai đoạn khó khăn nhất , nền tảng cơ bản của vai trò giám đốc vẫn cần phải tiếp tục được áp dụng: Các giám đốc phải chịu trách nhiệm giám sát công việc kinh doanh của công ty.

Mặc dù hầu hết các giám đốc đều hiểu và biết, như những khẩu hiệu hướng đạo sinh, thì chúng ta vẫn cần phải nhắc lại những điểm căn bản này: Nó chính là trách nhiệm của giám đốc trong việc giám sát các hoạt động của công ty và đó là công việc điều hành công ty hoạt động từng ngày. Trong giai đoạn thị trường bất ổn, có ba lĩnh vực chính nói chung mà các giám đốc cần phải tập trung chú ý: Tình trạng kinh doanh, chất lượng và chiều sâu quản lý (bao gồm cả kế hoạch kế nhiệm), và khả năng thanh khoản của công ty.

Rà soát mô hình kinh doanh của công ty

Chú ý một cách cẩn trọng vào tình trạng kinh doanh tổng thể của công ty là trọng tâm trách nhiệm của một giám đốc. Trong quá trình thích ứng với những điều kiện kinh tế đang thay đổi, giám đốc nên đánh giá khả năng chống chịu của mô hình kinh doanh mà công ty đang có. Ví dụ, sự sụp đổ của thị trường cho vay dưới chuẩn năm 2007 của Hoa Kỳ đã gây ra những tổn thất không nhỏ – một số tổn thất trong đó có thể dự báo được nhưng phần đa là không thể – đối với nhiều công ty thuộc các ngành công nghiệp khác nhau, và các tổn thất về mặt tài chính có thể xảy ra mà không được cảnh báo trước.

Tuy nhiên, nếu ban quản trị của một công ty có thể nhận thức được những rủi ro tiềm tàng phát sinh từ những điều kiện thị trường đang thay đổi và sẵn sàng điều chỉnh mô hình cũng như chiến lược kinh doanh của công ty thích ứng với những thay đổi này, họ có thể giảm thiểu được tổn thất nếu khủng hoảng xảy ra hoặc cao hơn còn có thể chặn đứng tình trạng khủng hoảng tiềm tàng.

Tương tự như vậy, khi các điều kiện kinh tế thay đổi, điều quan trọng là hội đồng quản trị phải đảm bảo rằng công ty có một đội ngũ cán bộ quản lý có đủ khả năng và sẵn sàng làm hạ nhiệt sức nóng của cuộc khủng hoảng. Năng lực và các phẩm chất của ban quản lý cần phải được đánh giá lại về mặt kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, lòng tận tâm, khả năng lãnh đạo, và chiều sâu. Hơn thế nữa, hội đồng quản trị cần phải đảm bảo rằng CEO của họ hiểu rõ anh ta đang nhận được sự ủng hộ của toàn thể hội đồng quản trị cho định hướng chiến lược của công ty nếu các điều kiện kinh tế diễn biến theo chiều hướng xấu đi, hoặc giám đốc cần phải trình bày những mối quan ngại của anh ta nếu có bất kỳ quan điểm nào khác biệt về định hướng chiến lược của công ty.

Một phần quan trọng trong toàn bộ quá trình này đó là cần phải đảm bảo rằng hội đồng quản trị thường xuyên được nghe các báo cáo trực tiếp từ phía CEO, từ đó toàn thể ban quản lý mới có đủ tự tin trong các quyết định chiến lược. Đây cũng là phần quan trọng trong quy trình kế hoạch kế nhiệm của hội đồng quản trị. Những vấn đề này cần phải được thảo luận trong suốt nhiệm kỳ của CEO bằng cách luôn đưa nó vào chương trình nghị sự trong mỗi cuộc họp của hội đồng quản trị.

Chăm sóc công ty

Khi giám đốc tự cảm thấy hài lòng rằng mô hình kinh doanh và chiến lược của CEO là hợp lý, và đội ngũ quản lý hiện thời có đủ khả năng quản lý hiệu quả tình trạng hiện tại của công ty, thì giám đốc vẫn cần phải chắc chắn rằng họ hiểu rõ những nhân tố quan trọng tạo dựng nên kết quả hoạt động kinh doanh của công ty. Các giám đốc cần hiểu nguồn doanh thu của công ty có thể phản ứng như thế nào với những điều kiện đang thay đổi trong nền kinh tế nói chung và trong ngành công nghiệp của họ nói riêng.

Ví dụ như giám đốc cần phải có hiểu biết tổng thể nền tảng khách hàng của công ty và liệu nó có đang thay đổi theo chiều hướng khả quan hay không. Các giám đốc cũng cần phải có được sự hiểu biết tổng thể về chi phí hoạt động của công ty, bao gồm cả nhân công và hàng hoá đã bán cũng như hàng hoá đang bán, các chi phí quản lý. Các giám đốc nên có một cái nhìn tổng quan về vị thế thị trường và tài chính của công ty để có thể đưa ra được phương sách quản lý đúng đắn trước những rủi ro tiềm tàng trong quá trình hoạt động phụ thuộc vào những bối cảnh kinh tế khác nhau.

Các thành viên trong hội đồng quản trị cần phải tập trung sự chú ý vào khả năng thanh khoản của công ty. Vấn đề này là đặc biệt quan trọng trong môi trường thị trường ngày nay. Hiễu rõ về dòng tiền mặt của công ty và các sắp xếp tín dụng là tối quan trọng. Các giám đốc cần nhận thức được liệu công việc kinh doanh của công ty có phát sinh nhu cầu thời vụ tiền mặt hay không và phải đảm bảo rằng trong thời điểm công ty có nhu cầu tiền mặt lớn nhất, công ty vẫn có đủ khả năng tiếp cận với nguồn vốn để đáp ứng được nhu cầu cho hoạt động kinh doanh. Ban quản lý cần hiểu rõ điều gì sẽ xảy ra nếu dòng tiền mặt không đủ mạnh như dự đoán. Và giám đốc nên tự đặt ra câu hỏi rằng nếu một ngành kinh doanh suy thoái đồng thời trong giai đoạn có nhu cầu tiền mặt cao nhất, thì khả năng thanh khoản của công ty sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng như thế nào?

Khả năng thanh khoản là điểm cốt lõi trong bối cảnh sáp nhập và mua lại. Sự thất bại trong quá trình mua lại công ty bán lẻ giầy dép Genesco trước đối thủ cạnh tranh nhẹ ký hơn rất nhiều Finish Line chính là lời cảnh báo. Finish Line cố gắng mua lại Genesco bằng một giao dịch mua bán được hỗ trợ tài chính cao. Giao dịch không có điều kiện tài chính, nhưng cam kết tài chính của Finish Line phụ thuộc vào khả năng thanh toán của công ty sáp nhập. Mặc dù giao dịch chiến lược có vẻ như chắc chắn sẽ kết thúc khi bị phanh phui, từ lâu nó đã không còn là trường hợp khi mà do tình trạng tụt dốc đột ngột của ngành kinh doanh, khả năng thanh toán của công ty sáp nhập bị nghi ngờ.

Trong bối cảnh sáp nhập và mua lại, các giám đốc nên cẩn trọng trong việc kiểm tra khả năng thanh khoản và các rủi ro về khả năng thanh toán, đặc biệt là trong những giao dịch mua bán có hỗ trợ tài chính cao – là những giao dịch mà hoạt động tài chính đang gặp rủi ro - và xem xét ảnh hưởng mà công ty có thể gặp phải nếu giao dịch đó bị phanh phui, không được thực hiện thành công.

Các giám đốc cần luôn luôn quan tâm tới kế hoạch kế nhiệm, chính môi trường kinh tế đầy thách thức làm tăng tầm quan trọng của kế hoạch này. Nếu một công ty trải qua giai đoạn suy thoái cùng lúc CEO (hoặc một thành viên quan trọng khác của ban quản lý) xin từ chức mà không có một người kế nhiệm rõ ràng, đủ khả năng, chắc chắn hội đồng quản trị và cả công ty sẽ gặp khó khăn trong việc đối phó có hiệu quả với những thách thức mà công ty đang phải đối mặt.

Đưa ra quyết định trên cơ sở thông tin đầy đủ

Hệ thống báo cáo và cập nhật thông tin tự động là kẻ thù của trách nhiệm pháp lý. Mức độ thận trọng đòi hỏi sự thay đổi ở người giám đốc, phụ thuộc vào tình trạng cụ thể mà công ty đang phải đối mặt. Các giám đốc cần phải lưu tâm tới các điều kiện của thị trường và suy nghĩ thấu đáo về cách thức các xu hướng hay các sự kiện ảnh hưởng tới chiến lược và khả năng kinh doanh của công ty. Chỉ cần các giám đốc hành động trên cơ sở nắm bắt thông tin đầy đủ, tự tin, và theo cách khiến họ tin tưởng rằng lợi ích cao nhất của công ty luôn được đảm bảo, thì các quyết định kinh doanh của họ sẽ nhận được sự bảo hộ từ phía luật pháp.

Các giám đốc chủ động tìm kiếm thông tin để được cung cấp thông tin đầy đủ – đó chính là nguyên lý cốt lõi của trách nhiệm chăm sóc công ty. Để được cung cấp thông tin đầy đủ, các giám đốc phải quan tâm đúng mức tới những tài liệu có liên quan, thực sự suy ngẫm, cân nhắc kỹ càng trước khi đưa ra quyết định. Một sự thiếu quan tâm đối với công ty – cho dù đó là việc cố ý đưa ra quyết định khi chưa thu thập đầy đủ thông tin và cân nhắc kỹ càng hay thông qua việc bỏ qua có hệ thống một rủi ro đã được biết đến – sẽ không thể thỏa mãn yêu cầu hành động trung thực và dựa trên nền tảng được cung cấp đầy đủ thông tin đối với một giám đốc.

Trách nhiệm của các giám đốc là phải đòi hỏi được cung cấp thông tin họ cần để biến mình thành người đưa ra quyết định dựa trên thông tin đầy đủ, và đồng thời cũng chính là nghĩa vụ của nhóm quản lý phải cung cấp đầy đủ thông tin cho giám đốc. Ngược lại, các giám đốc được quyền dựa vào những thành viên trong hội đồng quản lý và các chuyên gia khác trong quá trình đưa ra quyết định. Hơn thế nữa, các giám đốc không nên ngần ngại tham khảo ý kiến của các chuyên gia tư vấn xem thông tin họ được cung cấp là đủ để ra quyết định hay chưa.

Bảo hiểm trách nhiệm pháp lý

Trong môi trường tranh chấp, kiện tụng rất dễ xảy ra như hiện nay, các công ty cần phải đảm bảo có sự chuẩn bị sắp xếp bồi thường hợp lý và thường xuyên cập nhật dành cho các thành viên trong hội đồng quản trị và phải đảm bảo rằng công ty đã mua bảo hiểm trách nhiệm pháp lý cho các cán bộ và giám đốc đầy đủ.

Những sự sắp xếp này cần phải được rà soát thường xuyên nhằm đảm bảo rằng các giám đốc được bảo hiểm đầy đủ trước những rủi ro trách nhiệm pháp lý cá nhân cho những hành động của họ với tư cách là giám đốc. Mặc dù bảo hiểm trách nhiệm pháp lý cho cán bộ và giám đốc ngày càng đắt, nhưng chúng bao gồm bảo hiểm trong hầu hết các trường hợp và các công ty nên mua loại bảo hiểm này. Những hạn chế và ngoại lệ trong gói bảo hiểm cần phải được nghiên cứu cẩn thận, qua đó các giám đốc hiểu rõ họ chỗ nào họ được bảo hiểm và chỗ nào không.

Thêm vào đó, các giám đốc nên cân nhắc tác động của sự phá sản của công ty trong phạm vi hiệu lực của bảo hiểm.

Quản lý chủ động

Quản lý là sự theo đuổi một cách chủ động. Các giám đốc nên định kỳ thấy hài lòng rằng công ty đang theo đuổi một định hướng chiến lược đúng đắn, rằng công việc kinh doanh và khả năng thanh khoản của công ty là ổn định và công việc quản lý đang được chuẩn bị để đối phó với những sự kiện bất ngờ xảy ra trong ngành công nghiệp nói riêng và trong cả nền kinh tế nói chung. Nếu không có dấu hiệu của tình trạng suy thoái sắp xảy ra đối với một công ty, thì không cần thiết phải có những cuộc họp hội đồng bất thường hay tìm kiếm lời khuyên từ các chuyên gia bên ngoài công ty chỉ đơn giản là vì các điều kiện kinh tế đang không ổn định.

Các giám đốc có thể yêu cầu được cung cấp thông tin từ các cuộc họp hội đồng quản trị và đưa ra ý kiến cho các CEO hay các thành viên khác trong hội đồng quản trị một cách hợp lý. Trong môi trường kinh doanh thường xuyên thay đổi, các giám đốc cần luôn chủ động trong quá trình thực thi trách nhiệm quản lý của họ.

II. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giám đốc trong doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay:

1. Các yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng giám đốc doanh nghiệp:

Hiện nay, trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá, các yếu tố của môi trường bên ngoài đang thay đổi rất nhanh và thậm chí sẽ còn thay đổi nhanh hơn sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của Giám đốc doanh nghiệp nhưng có thể kể đến những yếu tố chủ yếu sau:

Thứ nhất, trình độ đào tạo của các Giám đốc: Trình độ đào tạo của giám đốc có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng điều hành các hoạt động sản xuấtkinh doanh của doanh nghiệp. Giám đốc doanh nghiệp cần phải được tiêuchuẩn hoá qua bằng cấp và phải được đào tạo qua trường lớp đào tạo Giám đốc với chương trình đào tạo phù hợp, khoa học. Một Giám đốc muốn hiểu biết sâu về lĩnh vực hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải có trình độ đào tạo về lĩnh vực phù hợp.

Ngoài ra, Giám đốc còn cần phải có trình độ về quản trị doanh nghiệp, luật pháp,tinhọc, ngoại ngữ...

Do vậy, trong quá trình điều hành doanh nghiệp, các Giám đốc cần nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của mình để đáp ứng vói nhiệm vụ được giao.

Thứ hai, cơ chế tuyển chọn Giám đốc:Việc tuyển chọn Giám đốc có ảnh hưởng rất quan trọng đến chất lượng Giám đốc doanh nghiệp. Giám đốc là một “nghề” nên cần phải hành nghề trên cơ sở các tiêu chuẩn nhất định và phải qua thi tuyển nhằm lựa chọn được những người đáp ứng đủ các yêu cầu của chức vụ Giám đốc, Cả vềđức và tài. Vấn đề đặt ra cho công tác tuyển chọn Giám đốc là làm sao phát hiện vàchọn đúng nhằm sử dụng đúng người, đúng việc, đúng sở trường. Việc tuyển chọn Giám đốc là phải tìm người đạt yêu cầu cao nhấtvề các tố chất cần có của Giám đốc trong số những người dự tuyển, bao gồm: phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức lãnh đạo, đạo đức công tác và phương pháp làm việctư duy khoa học. Quá trình tuyển chọn phải bảo đảm đúng những người Giám đốc có đủ tiêu chuẩn phù hợp.

Thứ ba, các tiêu chuẩn của chức danh Giám đốc: Trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay, chúng ta cần phải thay đổi cách nghĩ sao cho Giám đốc là một nghề, do đó cần các tiêu chuẩn cụ thể. Nhà nước quản lý các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế khác nhau bằng các chính sách vĩ mô. Song cần có những yêu cầu về tiêu chuẩn mà các Giám đốc của doanh nghiệp đó phải đạt được. Thông qua việc cấp giấy phép đăng ký kinh doanh thành lập một doanh nghiệp, cần phải xem xét đến một khía cạnh là Giám đốc doanh nghiệp có đủ khả năng quản lý điều hành hay không. Đối với các doanh nghiệp tư nhân thì các tiêu chuẩn phải được quan tâm nhất là trình độ năng lực và đây là biện pháp nhằm tránh cho các doanh nghiệp hoạt động trái pháp luật do Giám đốc kém hiểu biết.

Thứ tư, môi trường kinh doanh của doanh nghiệp: Trình độ kinh tế, trình độ sản xuất (tài nguyên, tích lũy, đầu tư..) và trình độ kỹ thuật (chủ yếu là trang thiết bị công nghệ và các kỹ năng cần thiết) có cho phép hình thành và phát triển một sản phẩm nào đó có mức chất lượng tối ưu hay không. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc tạo ra sản phẩm mới không thể vượt ra ngoài khả năng cho phép của nền kinh tế. Hướng đầu tư, hướng phát triển các loại sản phẩm và mức thỏa mãn các loại nhu cầu của khách hàng có tầm quan trọng đặc biệt ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 

Nhu cầu của thị trường luôn luôn biến động, thay đổi theo từng loại sản phẩm khác nhau, các đối tượng sử dụng... Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải nhạy cảm với thị trường để tạo nguồn sinh lực cho quá trình hình thành và phát triển các loại sản phẩm. Điều này yêu cầu các Giám đốc doanh nghiệp cần phải theo dõi, nắm chắc, đánh giá đúng đòi hỏi của thị trường, nghiên cứu, lượng hóa nhu cầu của thị trường để có các chiến lược và sách lược đúng đắn. 

Trong thời đại ngày nay, khi khoa học kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp thì trình độ chất lượng của bất kỳ sản phẩm nào cũng gắn liền và bị chi phối bởi sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhất là sự ứng dụng các thành tựu của nó vào sản xuất. Kết quả chính của việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất là tạo ra sự nhảy vọt về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Các hướng chủ yếu của việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện nay là: 

- Sáng tạo vật liệu mới hay vật liệu thay thế.

- Cải tiến hay đổi mới công nghệ.

- Cải tiến sản phẩm cũ và chế thử sản phẩm mới. 

Sự phát triển của khoa học kỹ thuật ảnh hưởng mạnh mẽ đến chất lượng Giám đốc doanh nghiệp, yêu cầu giám đốc các doanh nghiệp ngày càng phải nâng cao trình độ, nắm bắt các công nghệ mới, đi tắt đón đầu công nghệ.

2. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giám đốc:

2.1 Tiêu chí đánh giá chất lượng Giám đốc doanh nghiệp:

(*)Các chỉ tiêu định tính:

Chỉ tiêu quan trọng nhất thể hiện chất lượng Giám đốc doanh nghiệp là kết quả và hiệu quả hoạt động sản xuấtkinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuấtkinh doanh của doanh nghiệp là sự phản ánh rõ nét vai trò cũng như khả năng của Giám đốc. Sự hoạt động của doanh nghiệp cũng là thực tế công tác của Giám đốc.

Khi đánh giá thực trạng một doanh nghiệp, cũng là bước đầu nhận xét về Giám đốc. Một Giám đốc có năng lực phải là người quản lý và điều hành mọi hoạt động của doanh nghiệp sao cho có hiệu quả nhất.Điều đó được thể hiện ở các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách Nhà nước, thu nhập bình quân người lao động hàng năm.

Trình độ về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ: thể hiện ở chỗ phải hiểu sâu sắc những kiến thức lý luận, thực tiễn về lĩnh vực chuyên môn của mình. Phải hiểu sâu rộng những kiến thức kinh tế, kỹ thuật, chính trị, xã hội, tâm sinh lý người lao động. Điều này phù hợp với công việc được giao của Giám đốc là quản lý toàn diện mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp. Không thể nói có chuyên môn nghiệp vụ mà không gắn liền với bằng cấp.

Trình độ kiến thức về ngoại ngữ, tin học:thể hiện qua việc Giám đốc có bằng cấp về ngoại ngữ, tin học. Các ngoại ngữ phổ thông: Anh, Pháp, Đức, Trung, Nga nhưng phổ biến vẫn là tiếng Anh. Trình độ tin học thể hiện ở việc sử dụng thành thạo máy vi tính, tối thiểu là tin học văn phòng . Hiện nay trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá thì bằng cấp về ngoại ngữ và tin học sẽ giúp các Giám đốc đọc được các tài liệu tham khảo bằng tiếng nước ngoài, có khả năng giao dịch trực tiếp với các đối tác nước ngoài, sử dụng internet để nhậnvà tìm kiếm các thông tin có ích cho hoạt động sản xuất-kinh doanh 

Trình độ về phẩm chất chính trị: thể hiện ở việc Giám đốc phải nắm và vận dụng được các quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ cụ thể. Điều này còn thể hiện ở việc các Giám đốc tuân thủ theo đúng luật pháp và các chính sách của Nhà nước trong hoạt động kinh doanh của mình. Điều này đặc biệt quan trọng đối với Giám đốc các doanh nghiệp Nhà nước.

Trình độ giao tiếp xã hội: những giao tiếp thông thường trong nước và nước ngoài bao gồm sự hiểu biết về tâm lý xã hội của những người lao động ở doanh nghiệp mà mình phụ trách, các đối tác có quan hệ kinh tế với doanh nghiệp. Trong quản trị kinh doanh ngày nay, yếu tố tâm lý có vai trò rất quan trọng. 

Trình độ, năng lực lãnh đạo, tổ chức vàquản lý : thể hiện ở việc biết tổ chức bộ máy quản lý phù hợp với cơ chế quản lý mới. Biết sử dụng, phát hiện cán bộ có trình độ, có năng lực trong quản lý. Biết cân nhắc, đề bạt cán bộ dưới quyền. Biết sa thải, kỷ luật những người lao động không hoàn thành nhiệm vụ. Biết khen thưởng, động viên những người lao động làm việc có hiệu quả, năng suất cao.

Biết phát hiện những khâu trọng tâm lãnh đạo trong từng thời kỳ trên cơ sở nắm toàn diện cáckhâu quản lý doanh nghiệp. Biết giải quyết các công việc một cách có hiệu quả, nhanh chóng và nhạy bén.

Tư cách đạo đức: Giám đốc ở bất cứ thành phần kinh tế nào cũng phải thể hiện được phẩm chất đạo đứccá nhân mình Giám đốc doanh nghiệp phải làm gương cho mọi người trong doanh nghiệp noi theo về quan điểm đúng đắn, nhiệttình, hăng say, tận tuỵ với công việc kinh doanh của doanh nghiệp.Có đạo đức kinh doanh, giữ được chữ tín với khách hàng, hoàn thành mọi nhiệm vụ đóng góp đối với Nhà nước và cộng đồng xã hội .

Sức khoẻ và tuổi đời, tuổi nghề: Giám đốc phải đảm bảo cómột sức khoẻ tốt để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Không thể phát triển được doanh nghiệp với một Giám đốc ốm yếu. Trên thế giới đốc già nuangười ta đã tổng kết là tuổi bắt đầu làm Giám đốc tốt nhất là từ 25-35 Chúng ta cần phân biệt rõ tuổi đời vàtuổi nghề. 

Tuổi đời là độ tuổi của Giám đốc, còn tuổi nghề là thời gian kể từ khi đảm nhận chức vụ Giám đốc. Tuổi nghề gắn liền với kinh nghiệm lãnh đạo của Giám đốc. Tuổi đời càng cao mà tuổi nghề càng thấp chứng tỏ chất lượng Giám đốc càng kém.

Đời sống của người lao động trong doanh nghiệp cả về đời sống vật chất và tinh thần. Điều này thể hiện hiệu quả lao động của Giám đốc. NếuGiám đốc thường xuyên quan tâm, chăm lo tới đời sống của người lao động thì điều đó thể hiện chất lượng Giám đốc cao và ngược lại. Đời sống của người lao động không chỉ thể hiện qua thu nhập bình quân hàng tháng mà còn thể hiện qua các hoạt động thể thao, văn hoá, vui chơi giải trí và các sinh hoạt tập thể khác. Giámđốc phải là người thường xuyên tham gia và tổ chức các hoạt động thể thao,văn hoá, đi tham quan nghỉ mát, phong trào thi đua trong lao động sản xuất… nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động và tạo ra không khí làm việc hăng say trong doanh nghiệp.

Văn minh doanh nghiệp thể hiện ở văn hoá Côngty, nềnếp làm việc của cán bộ công nhân viên toàn doanh nghiệp, mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, sự đoàn kết trong nội bộ doanh nghiệp. Điều này rất quan trọngtrong giai đoạn hiện nay, doanh nghiệp làmột tế bào của nền kinh tế quốc dân và nó như là mộtxã hội thu nhỏ. Do đó Giám đốc phải là người tạo ra được một nét đặc trưng riêng cho doanh nghiệp từ đó tạo sự đoàn kết, gắn bó người lao động với doanh nghiệp của mình.

Các chỉ tiêu trên chỉ mang tính chất định tính vì chúng takhông thểhiểu đó mà lượnghoá được chất lượng của Giám đốc là bao nhiêu mà chỉ có thể đánh giá được chất lượng Giám đốc cao hay thấp. Nếu muốn biết được năng lực lãnh đạo,quản lý và điều hành của Giám đốc là bao nhiêu thì chúng ta phải sử dụng các chỉ tiêu định lượng để tính toán, phân tích và so sánh. 

(*) Các chỉ tiêu định lượng:

Để đánh giá chính xác kết quả làm việc của Giám đốc trong hoạt động quản lý thì một công cụ không thể thiếu là phải xác định đúng hiệu quả quản lý của họ.

* Hiệu quả: là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong đời sống xã hội và có nhiều cách hiểu không giống nhau Có tác giả cho rằng hiệu quả là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa kết quả thựchiện các mục tiêu hoạt động của chủ thể và chi phí mà chủ thể bỏ ra để có kết quả đó trong những điều kiện nhất định. 

Có tác giả lại cho rằng hiệu quả là kết quả có hiệu lực.

Cũng có người lại quan niệm hiệu quả là việc làm ăn có kết quả, được thành tựu.

Từ những cách hiểu trên, ta thấy điểm hội tụ chung của khái niệm hiệu quả có thể được hiểu là: Hiệu quả là kết quả thực tế của con người trong hoạt động của mình so với chi phí, mất mát mà con người đã bỏ ra.

* Hiệu quả quản lý: từ khái niệm hiệu quả đã nêu ở trên, chúng ta có thể hiểu hiệu quả quản lý của Giám đốc doanh nghiệp là kết quả thực tế do hoạt động quản lý của Giám đốc tạo ra cho doanh nghiệp so với các chi phí, tổn thất mà Giám đốc đã bỏ ra để có kết quả đó. 

Việc tính toán hiệu quả quản lý nói chung, hiệu quả quản lý của Giám đốc doanh nghiệp hết sức khó khăn vì chi phí và kết quả của hoạt động này rất khó tính toán một cách chính xác. Để tính toán hiệu quả hoạt động quản lýcủa Giám đốc doanh nghiệp cần phải xác định các chi phí đã bỏ ra phục vụ cho hoạt động của Giám đốc, các kết quả thu lại mà Giám đốc nhận được hàng năm (trong suốt nhiệm kỳ đảm nhiệm chức vụ Giám đốc của mình).

2.2 Giải pháp:

Để có được đội ngũ giám đốc doanh nghiệp năng động thích ứng với cơ chế thị trường, vấn đề có tính chất vừa khẩn cấp trước mắt, vừa có tính chiến lược lâu dài là rèn luyện, đào tạo và bồi dưỡng giám đốc.

- Rèn luyện 3 chữ: “TRÍ”, “TÍN”, “TÂM”:

Trí là trình độ chuyên môn và sự giao tiếp của người giám đốc. Giám đốc cần am hiểu sâu sắc trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt nhạy bén với những điều kiện, môi trường sản xuất kinh doanh. Nắm chắc tình hình tài chính, giá cả, sự biến động thị trường trong nước và thế giới, chấp nhận cạnh tranh và tìm mọi biện pháp chiến thắng trong cạnh tranh, đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp.

Tín trước hết là đối với những người lao động dưới quyền, đồng thời tín với bạn bè trong nước và thế giới.

Tâm có nghĩa là có tấm lòng, sự nhiệt tình, tâm huyết với nghề nghiệp, là sự yêu thương, bao dung, độ lượng với đồng nghiệp và cấp dưới. Tâm còn có nghĩa là sự tận tụy với công việc, với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp, không tham ô, lãng phí, thực hiện dân chủ và công bằng trong doanh nghiệp.

- Rèn luyện về phương pháp làm việc khoa học:

Giám đốc cần có thời gian biểu làm hàng ngày và quy định cho từng giờ.Tổ chức cuộc họp ngắn gọn, khoa học.

Giám đốc cần dành thời gian để học tập, nghiên cứu, đọc sách báo chuyên môn nhằm mở rộng tầm hiểu biết, nâng cao trình độ chuyên môn.

Giám đốc cần xác định nhiệm vụ lớn trọng tâm, cơ bản trong từng thời kỳ mà tập trung chỉ đạo, không bao biện, làm thay phần việc của cấp phó và các bộ phận giúp việc.

Trong công tác đối ngoại cần lịch sự, chững chạc, chú ý cả từ việc sử dụng phương tiện đi lại, ăn mặc và giao tiếp. Đừng nhầm lẫn giữa giản dị với luộm thuộm, tiết kiệm với bủn xỉn trong quan hệ ngoại giao.

Tổ chức phòng làm việc và tiếp khách của giám đốc cũng phải thể hiện được phương pháp quản lý và tác phong lãnh đạo khoa học của giám đốc.

Để có được phương pháp quản lý và tác phong lãnh đạo tốt giám đốc cần tạo ra nhiều cơ hội gặp gỡ những người giúp việc, đặc biệt là gặp gỡ đối thoại với công nhân, trên cơ sở đó hiểu sâu tâm tư, nguyện vọng của họ, góp phần bổ sung cho những quyết định của mình. Giám đốc cần hết sức tránhtính “quan cách”. Tất nhiên điều này không có nghĩa là xuề xòa dùng các từ thô thiển với mọi người dẫn đến dễ dãi, buông thả mà phải có mội giới hạn nhất định đảm bảo cho cương vị thủ trưởng của mình.

Trong giờ làm việc, giám đốc phải giữ nguyên kỷ cương, giữ đúng cương vị của mình khi tiếp xúc với người giúp việc và người thừa hành.

- Rèn luyện đặc tính kinh doanh

Đặc tính kinh doanh của giám đốc doanh nghiệp gồm bốn biểu hiện như sau:

Có cao vọng (tham vọng) trong kinh doanh. Giám đốc không an phận thủ thường, không chấp nhận hoàn cảnh hiện tại, luôn phấn đấu đưa doanh nghiệp đạt mục tiêu cao hơn.

Chấp nhận rủi ro. Trong kinh doanh luôn có khả năng xảy ra rủi ro. Giám đốc phải rèn luyện khả năng chịu đựng.

Có lòng tự tin. Đây là đặc tính quan trọng của giám đốc.

Đặc tính cuối cùng là: có đạo đức kinh doanh. Giám đốc phải kết hợp hài hòa các lợi ích của chủ doanh nghiệp với lợi ích của những người lao động, khách hàng, của người cung ứng, của bạn hàng.

- Đào tạo giám đốc doanh nghiệp

Ở Việt Nam trong nhiều năm qua và cả hiện nay chưa có bất kỳ một trường lớp nào đào tạo giám đốc doanh nghiệp một cách có hệ thống. Có chăng chỉ là các lớp, các khóa học được tổ chức ra nhằm mục đích bồi dưỡng giám đốc doanh nghiệp. Những lớp và khóa học này chỉ được tổ chức trong một thời gian ngắn: 3-6 tháng, đặc biệt có khóa kéo dài 1-2 năm. Tuy nhiên, đối tượng tuyển chọn thuộc nhiều dạng khác nhau, tài liệu học tập chưa được biên soạn phù hợp, chưa chuẩn hóa. Nhiều người theo học các lớp, khóa này thường về các doanh nghiệp vẫn giữ nguyên vị trí như khi bắt đầu đi đào tạo, bồi dưỡng. Nguồn giám đốc cung cấp cho các doanh nghiệp chủ yếu là từ những trường đại học khác nhau và từ thực tiễn rèn luyện trong cuộc sống có kinh nghiệm trong sản xuất và chiến đấu.

KẾT LUẬN

Trong tương lai, Việt Nam cũng sẽ tổ chức trường đào tạo giám đốc có bài bản nhằm đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn hóa đội ngũ giám đốc doanh nghiệp hiện nay. Trước mắt trong một vài năm tới là mở các lớp bồi dưỡng chương trình quản trị kinh doanh cho các giám đốc doanh nghiệp. Nhiều cơ sở địa phương thực hiện chương trình bồi dưỡng giám đốc này, nhưng chủ yếu hiện nay vẫn là do một số trường đại học đảm nhiệm. Việc cải tiến chương trình và phương pháp lãnh đào tạo giám đốc đang được đặt ra cho các ngành và các cấp hiện nay.

nguồn : Lương Thanh Phương - 3725

No comments:

Post a Comment