B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Cướp tài sản không có các tình tiết định khung hình phạt
Theo quy định tại khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự, thì người phạm tội cướp tài sản không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 133 có thể bị phạt từ ba năm đến mười năm tù. Khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự là cấu thành cơ bản của tội cướp tài sản, là tội phạm rất nghiêm trọng. So với tội cướp tài sản quy định tại Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn khoản 1 Điều 151 và nhẹ hơn khoản 1 Điều 129 Bộ luật hình sự năm 198510. Vì vậy, đối với hành vi phạm tội xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau ngày 4-1-2000 ( ngày Chủ tịch nước công bố Bộ luật hình sự năm 1999), mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì chỉ áp dụng khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với hành vi cướp tài sản của Nhà nước, còn đối với hành vi cướp tài sản của công dân thì vẫn vẫn áp dụng khoản 1 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985 để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
Theo quy định tại điểm d Mục 3 Nghị quyết 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội, thì không xử lý về hình sự đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt đến bảy năm tù; nếu vụ án đang được điều tra, truy tố, xét xử thì phải đình chỉ; trong trường hợp người đó đã bị kết án và đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn thi hành án, thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt. Do chưa được giải thích cụ thể, nên về lý luận và thực tiễn xét xử có những quan điểm khác nhau về quy định tại điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội. Có ý kiến cho rằng, đối với người phạm tội cướp tài sản của công dân thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Một số Toà án đã ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với người phạm tội cướp tài sản của công dân thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985 nếu khi thực hiện tội phạm họ dưới 16 tuổi. Để khắc phục tình trạng hiểu và áp dụng Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội không thống nhất, nên tại điểm b Mục 3 Nghị quyết 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28-1-2000 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã quy định: “Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu Bộ luật hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù đối với tội phạm mà người đó thực hiện” thì mới thuộc trường hợp được áp dụng điểm d Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội. Ví dụ: A phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của công dân xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1985, nay khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù nên A được áp dụng điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21-12-1999 của Quốc hội.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 133 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu các tình tiết khác như nhau thì mức hình phạt đối với người phạm tội phu thuộc vào những yếu tố sau:
- Người phạm tội dùng vũ lực phải bị phạt nặng hơn người chỉ đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc;
- Người phạm tội dùng vũ lực gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân có tỷ lệ thương tật dưới 11% phải bị phạt nặng người phạm tội không gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân;
- Người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng phải bị phạt nặng hơn người phạm tội không có tình tiết tăng nặng;
- Người phạm tội không có tình tiết giảm nhẹ phải bị phạt nặng hơn người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ;
- Người phạm tội chiếm đoạt được tài sản phải bị phạt nặng hơn người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản.
2. Cướp tài sản thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật hình sự
a. Cướp tài sản có tổ chức
Phạm tội cướp tài sản có tổ chức, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện việc cướp tài sản, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm (khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự) [11]
Phạm tội có tổ chức, là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu.
Trong vụ án cướp tài sản có tổ chức, cũng như trong các vụ án hình sự khác có tổ chức, tuỳ thuộc vào quy mô và tính chất mà có thể có những người giữ những vai trò khác nhau như: Người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức.
Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm. Người tổ chức có thể có những hành vi như: khởi xướng việc tội phạm; vạch kế hoạch thực hiện tội phạm cũng như kế hoạch che giấu tội phạm; rủ rê, lôi kéo người khác cùng thực hiện tội phạm; phân công trách nhiệm cho những người đồng phạm khác để thống nhất thực hiện tội phạm; điều khiển hành động của những người đồng phạm; đôn đốc, thúc đẩy người đồng phạm khác thực hiện tội phạm...
Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm. Trực tiếp thực hiện tội phạm là trực tiếp có hành vi thuộc mặt khách quan của cấu thành tội phạm như: trực tiếp cầm dao chém nạn nhân, cầm súng bắn nạn nhân, trực tiếp chiếm đoạt tài sản, trực tiếp nhận hối lộ v.v... Người thực hành là người có vai trò quyết định việc thực hiên tội phạm, vì họ là người trực tiếp thực hiên tội phạm. Nếu không có người thực hành thì tội phạm chỉ dừng lại ở giai đoạn chuẩn bị phạm tội, mục đích tội phạm không được thực hiện; hậu quả vật chất của tội phạm chưa xảy ra và trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác sẽ được xem xét theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự. Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác rõ ràng phụ thuộc vào hành vi của của người thực hành.
Thực tiễn xét xử cho thấy, không phải bao giờ người thực hành cũng thực hiện đúng những hành vi do các đồng phạm khác đặt ra, có trường hợp người thực hành tự ý không thực hiện tội phạm hoặc tự ý nửa chừng chấm dứt việc thực hiên tội phạm, nhưng thực tế cũng không ít trường hợp người thực hành tự ý thực hiện những hành vi vượt quá yêu cầu của các đồng phạm khác đặt ra, Khoa học luật hình sự gọi là hành thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm. Luật hình sự của nhiều nước ghi rõ chế định “ thái quá’ của người thực hành trong Bộ luật hình sự hoặc trong các văn bản luật hình sự. Ở nước ta chế định này chưa được ghi nhận trong Bộ luật hình sự, nhưng về lý luận cũng như thực tiến xét xử đều thừa nhận chế định này khi cần phải xem xét đến trách nhiệm hình sự của người thực hành cũng như những người đồng phạm khác trong một vụ án có đồng phạm. Hiện nay, đa số ý kiến cho rằng khi Bộ luật hình sự của nước ta được sửa đổi, bổ sung, cần quy định chế định “ hành vi thái quá của người thực hành” cùng với chế định đồng phạm đã được quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự hiện hành.
Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã khẳng định, hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm và hậu quả do hành vi thái quá đó gây ra chỉ người thực hành phải chịu trách nhiệm hình sự còn những người đồng phạm khác không phải chịu về việc “thái quá” đó. Như vây, khi nghiên cứu tình trạng loại trừ trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm khác đối với hành vi thái quá của người thực hành chúng ta chỉ có thể nghiên cứu nội dung của sự “thái quá” mà người thực hành đã gây ra, từ đó xác định trách nhiệm hình sự của người thực hành về hành vi thái quá đó mà loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác.
Hành vi thái quá của người thực hành là việc người thực hành tự ý thực hiện hành vi tội phạm mà những người đồng phạm khác không mong muốn. Ví dụ: Trần Q A, Nguyễn Văn C, Bùi Quốc T, Bùi Quốc L vì thua bạc nên Bùi Quốc T bàn bạc với đồng bọn về nhà mình doạ mẹ của T để buộc mẹ của T phải đưa chìa khoá tủ mở lấy tiền tiếp tục đi đánh bạc, cả bọn đồng ý. Vì T và L là anh em và là con của bà M, nên chúng giao cho A và C trực tiếp thực hiện. Trước khi đi cả bọn thống nhất chỉ doạ bà M để bà đưa chìa khoá tủ chứ không được làm bất cứ điêù gì gây đau đớn cho bà. T và L còn nói, nếu má tao có sao chúng mày đừng có trách. Sau khi đã bàn bạc thống nhất, vào lúc nửa đêm A và C lẻn vào nhà bà M, lợi dụng lúc bà M đang ngủ, A dùng tay chẹn vào cổ bà M, còn C doạ : “ chìa khoá tủ để ở đâu không đưa đây chúng tao giết !”. Bị tấn công bất ngờ, bà M không kịp trở tay buộc phải đưa chùm chìa khoá cho C. Trong lúc C đang mở tủ để lục soát tìm tiền, thì A dùng một quả chanh nhét vào miệng bà M và lấy khăn bịt miệng bà M lại, nhưng vì bà M giãy giụa làm quả chanh trong miệng bật ra, đồng thời bà M kêu cứu. Sợ bị lộ, A vật bà M xuống ngồi lên bụng bà, rồi dùng tay bóp cổ bà cho đến khi bà M không còn giãy giụa nưã y mới bỏ tay ra, C thấy A hành động như vậy hỏi, sao mày làm như vậy ? thì A trả lời, bà ấy chỉ xỉu thôi không chết đâu mà sợ, cùng lúc này C đã lục tủ lấy được bọc tiền của bà M rồi cả hai bỏ chạy ra điểm hẹn với T và L. Thấy A và C đến T hỏi ngay má tao có sao không, cả A và C đều trả lời không việc gì hết. T bảo L về nhà xem tình hình còn T, A và C tiếp tục đi đánh bạc. Khi L về nhà thấy má mình bất động đã đưa đi bệnh viện cấp cứu, nhưng bà M đã chết. Trong ví dụ này, ngay từ khi bàn bạc phạm tội cướp tài sản , chúng thống nhất chỉ làm cho bà M sợ để bà đưa chìa khoá tủ, nhưng trong khi thực hiện tội phạm A đã có hành vi thái quá làm cho bà M bị chết, vì vậy chỉ có A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người, còn C, T, L chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản.
Thực tiễn xét xử cho thấy hành vi thái quá của người thực hành không chỉ đơn giản mà nó được biểu hiện dưới nhiều khía cạnh khác nhau như: Lúc đầu chỉ bàn cướp nhưng khi thực hiện lại giết người; lúc đầu chỉ bàn đánh cho một trận nhưng khi thực hiện lại lấy tài sản của người bị đánh. Chính vì tội phạm xảy ra muôn hình muôn vẻ Nên khoa học luật hình sự chia hành vi thái quá ra làm hai loại chính: Thái quá về chất lượng của hành vi và thái quá về số lượng của hành vi.
Thái quá về chất lượng của hành vi là trường hợp người thực hành trong vụ án có đồng phạm thực hiện hành vi thái quá đó không cùng tính chất với tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện, nếu hành vi thái quá cấu thành tội phạm thì tội phạm đó không cùng tính chất với tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Trần Văn Tuấn bàn với Đặng Văn Hùng và Phạm Quốc Hưng chặn đường để cướp của, nhưng trước khi đi, Hùng bị kẹt nên chỉ có Tuấn và Hưng thực hiện. Khi phát hiện thấy người đi xe máy chạy qua Hưng và Tuấn ra chặn lại để cướp tài sản thì phát hiện người đi xe máy là một phụ nữ, nên cả hai tên nảy ý định hiếp dâm và chúng đã thực hiện hành vi hiếp dâm, đồng thời cướp của nạn nhân sợi dây chuyền. Hành động xong, Hưng và Tuấn về kể cho Hùng nghe đã cướp được dây chuyền vàng, hôm sau Hùng mang dây chuyền đi bán thì bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong quá trình điều tra, Hùng mới biết ngoài hành vi cướp tài sản thì Hưng và Tuấn còn hiếp dâm người bị hại. Hành vi thái quá của Hưng và Tuấn là hành vi thái quá về chất lượng vì tội hiếp dâm không cùng tính chất với tội cướp tài sản của công dân. Việc xác định thái quá về chất lượng không mấy khó khăn và cũng chính vì thế mà xác định trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác không phải là người thực hành cũng dễ dàng hơn so với trường hợp thái quá về số lượng hành vi.
Thái quá về số lượng hành vi là trường hợp người thực hành trong vụ án có đồng phạm thực hiện hành vi thái quá mà hành vi đó cùng tính chất với hành vi tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử loại thái quá này rất khó xác định cho nên không ít trường hợp rõ ràng là người thực hành trong vụ án có đồng phạm có hành vi thái quá nhưng những người đồng phạm khác vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi thái quá đó. Do đó để phân biệt hành vi đã thái quá hay chưa cần phải nghiên cứu nó ở những mức độ khác nhau
Trường hợp thứ nhất:
Hành vi thái quá của người thực hành trong vụ án có đồng phạm đã cấu thành một tội phạm khác và tội phạm này cùng tính chất vơí tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Do có thù tức với Đặng Văn H Nên Trần Tuấn A, Phạm Quốc B và Nguyễn Hồng C bàn bạc tìm H để đánh cho H một trận. Khi gặp H, cả ba tên lao vào dùng chân tay đấm đá cho tới khi H ngã gục. Thấy vậy, B và C nói: “Thôi thế là dủ đừng đánh nữa không thì nó chết mất”, rồi B và C bỏ đi. Nhưng A vẫn ở lại tiếp tục dùng gót chân thúc mạnh vào hai mạng sườn và dận lên ngực H cho tới khi H bất tỉnh. Hậu quả là H bị chết. Kết quả giám định kết luận H bị chết là do bị vỡ lá lách, chảy máu trong, phổi xung huyết mất máu cấp. Trong ví dụ này, hành vi thái quá của A đã cấu thành tội phạm khác ( tội giết người) nhưng hành vi này cùng tính chất với hành vi của những người đồng phạm khác ( cùng đấm đá, cùng xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ của con người ).
Trường hợp thứ hai:
Hành vi thái quá của người thực hành chưa cấu thành tội phạm khác mà nó vẫn là tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện. Ví dụ: Lê Khắc T, Trần M và Vũ Văn B bàn với nhau về việc chặn đường cướp xe đạp của học sinh đi học về . T và B được phân công trực tiếp ra chăn xe còn M có nhiệm vụ dùng dao đe doạ để T và B cướp xe tẩu thoát. Nhưng sau khi T và B đã cướp được xe đạp tẩu thoát thì M còn tiếp tục khống chế nạn nhân lục soát và lấy đi 500.000 đồng và một đồng hồ của nạn nhân. Trong ví dụ này, rõ ràng M có hành vi thái quá, nhưng hành vi thái quá này không cấu thành một tội phạm khác riêng biệt, cả M, T và B đều tội phạm cướp tài sản, nhưng tính chất và mức đội tội phạm của B và T có khác M. Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau thì T và B phải chịu hình phạt nhẹ hơn M.
Sự phân biệt hai loại hành vi thái quá như trên chỉ có ý nghĩa trong công tác nghiên cứu khoa học, còn thực tiễn xét xử dù là thái quá về chất lượng hay về số lượng của hành vi thì những người đồng phạm khác đều không phải chụi trách nhiệm hình sự về hành vi thái quá của người thực hành.
Đối với các vụ án phạm tội có tổ chức, khi xác định những người đồng phạm khác có phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của người thực hành hay không cũng có nhiều phức tạp. Bởi vì trong quá trình thực hiện tội phạm, người thực hành có nhiều hành vi nhằm đạt được mục đích mà những người đồng phạm khác mong muốn, trong đó có hành vi được những người đồng phạm khác biết trước và đồng tình, nhưng cũng có những hành vi không được những người đồng phạm khác biết trước, không mong muốn hậu quả của những hành vi đó xảy ra, nhưng có thái độ bỏ mặc, muốn ra sao thì ra. Vậy vấn đề trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác được xác định như thế nào khi người thực hành có những hành vi gây ra hậu quả mà mình không biết, không mong muốn ? Ví dụ: A,B và C chỉ bàn bạc với nhau về việc đến uy hiếp chủ nhà để cướp tài sản. Khi đi chúng có mang theo dao găm, dây trói, giẻ và chanh để bịt miệng. Tới nơi, A và B trói chủ nhà, nhét chanh vào miệng chủ nhà ,lấy giẻ buộc lại và giao cho C canh giữ. Thấy giẻ bịt miệng chủ nhà tuột ra, C sợ chủ nhà kêu cứu, nên đã bóp cổ làm chủ nhà bị chết ngạt. Về trường hợp này, có ý kiến cho rằng hành vi bóp cổ chủ nhà của C là hành vi thái quá nên C phạm giết người và cướp tải sản, còn A và B không chịu trách nhiệm về hành vi và hậu quả do hành vi thái quá của C nên chỉ tội phạm cướp tài sản. Nhưng ý kiến thứ hai lại cho rằng, tuy A,B và C không bàn bạc với nhau từ trước về việc giết người, nhưng A và B bỏ mặc cho C hành động, không quan tâm đến hậu quả do hành vi của C gây ra miễn là cướp được tài sản; việc C bóp cổ chủ nhà cũng là nhằm cho đồng bọn thực hiện trót lọt việc lấy tài sản mà cả A và B đều mong muốn. Do đó cái chết của chủ nhà do C trực tiếp gây ra nhưng phải buộc cả A và B cùng phải chịu trách nhiệm hình sự.
Hành vi thái quá của người thực hành, về lý luận cũng như pháp luật của các nước trên thế giới còn có nhiều cách đánh giá khác nhau, nhưng qua thực tiễn xét xử ở nước ta cũng như một số nước thừa nhận: Nếu những người đồng phạm để cho người thực hành hoàn T tự do hành động nhằm đạt được mục đích của tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện, thì mọi hành vi của người thực hành không được coi là hành vi thái quá và những người đồng phạm khác phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của người thực hành gây ra. Tuy nhiên, khi xem xét hành vi của người thực hành được tự do hành đồng để đạt được mục đích mà các người đồng phạm khác đặt ra phải chú ý một điểm là: Hành vi đó phải là dấu hiệu của cấu thành tội phạm mà tội phạm đó đã được những người đồng phạm khác bàn bạc thống nhất như trường hợp ví du trên hành vi bóp cổ chủ nhà của C cũng là hành vi vũ lực (dấu hiệu của tội cướp tài sản). Thì những người đồng phạm khác mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Nếu hành vi dó lại là dấu hiệu cấu thành một tội độc lập khác, thì hành vi đó lại được coi là thái quá và những người đồng phạm khác không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp ví dụ trên, giả thiết C không bóp cổ chủ nhà chết mà lại hiếp dâm chủ nhà thì hành vi diếp dâm của C là hành vi thái quá và A, B không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm mà C thực hiện.
Việc để cho người thực hành tự do hành động, tức là người thực hành không bị ràng buộc bởi bất kỳ hành vi nào của những người đồng phạm khác. Nếu những người đồng phạm khác lại có hành vi ngăn cản hay hành động tích cực để ngăn chặn hậu quả, nhưng người thực hành vẫn cố tình thực hiện thì hành vi của người thực hành dù có là dấu hiệu câú thành tội phạm mà những người đồng phạm khác có ý định thực hiện thì những người này cũng không phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Trương Q T, Vũ Minh H và Hoàng Công V bàn bạc đến nhà cậu ruột của V để cướp. V không trực tiếp thực hiện mà giao cho T và H chỉ được trói chủ nhà để uy hiếp lấy tài sản chứ không được gây án mạng. Vì sợ bọn H làm ẩu, nên trước khi đi, V đã kiểm tra và giữ lại hai dao găm mà bọn H định mang theo. Trên đường đến nhà cậu của V để cướp, H và T tự ý về nhà H lấy một khẩu súng ngắn mà H đã chuẩn bị từ trước, vì chúng cho rằng không có vũ khí thì không thể làm gì được. Tới nơi, H và T dùng súng uy hiếp bắt trói chủ nhà, rồi lục soát tài sản. Trong khi bọn chúng đang lục soát thì chủ nhà tự cởi được trói, kêu cứu, H đã dùng súng bắn chết chủ nhà. Trong trường hợp này hành vi của H cũng là hành vi nhằm thực hiện tội cướp mà cả V đã bàn bạc từ trước, nhưng V đã có những hành động tích cực nhằm hạn chế ngăn chặn hậu quả nên V không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người do H và T gây ra.
Thực tiễn xét xử cũng có những trường hợp nếu chỉ căn cứ vào hành động hoặc lời nói của những người đồng phạm khác ( chủ mưu, tổ chức, xúi dục, giúp sức) thì thấy họ có ý thức bỏ mặc cho hậu quả do người thực hành thực hiện tội phạm nên đã buộc những người này phải chịu trách nhiệm về hậu quả mà người thực hành gây ra, nhưng căn cứ vào nội dung hành động và lời nói của họ thì họ không có ý thức bỏ mặc cho hậu quả do người thực hành gây ra và như vậy họ không thực hiện được mục đích của mình. Ví dụ: Nguyễn Tiến N là đội phó đội điều tra Công an huyện Y, tỉnh P và Tống Viết Q là điều tra viên được phân công điều tra vụ án mà Hà Văn T là người tiêu thụ tài sản do ngươì khác tội phạm mà có, trong qúa trình điều tra, mặc dù có căn cứ đề xác định rằng T đã tiêu thụ 17 cái mày bơm bị trộm cắp chứ không phải chỉ có 4 cái như T thừa nhận, nên phải ra lệnh bắt giam T để tiếp tục làm rõ hành vi tội phạm của T. T được giam chung với một số phạm nhân trong đó có Bùi Xuân Ph là tên đã có nhiều tiền án tiền sự được các phạm nhân khác mệnh danh là đầu gấu trong buồng giam. Q đã nhiều lần lấy lời khai của T nhưng T một mực không nhận, N và Q nói với Ph phải đánh cho T một trận thì nó mới khai đúng sự thật. Để lấy lòng cán bộ điều tra và cũng vì sợ không đánh T thì sẽ không được yên nên Ph đã tổ chức cho các phạm nhân cùng buồng đánh đập T rất dã man làm cho T bị ngất xỉu phải đưa đi cấp cứu nhưng bị chết. Khi xem xét trách nhiệm của Nguyễn Tiến N và Tống Viết Q có ý kiến cho rằng, mặc dù Q và N không có ý định tước đoạt tính mạng của T từ trước, nhưng đã có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra không có biện pháp ngăn chặn và việc Ph cùng các phạm nhân khác đánh chết T là do câu nói của Q và N “ đánh cho nó một trận để nó khai ra sự thật”. Do đó, Q và N phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người với vai trò xúi dục. Tuy nhiên, nghiên cứu kỹ nội dung lời nói của N và Q chúng ta thấy, nếu N và Q để mặc cho bọn Ph đánh chết anh T thì về thực tế không đạt được mục đích là làm cho T khai ra sự thật, còn về pháp lý nói đánh cho một trận để nó khai ra chứ không phải đánh cho một trận cho nó biết thế nào là tù tội, hoặc mày cứ đánh cho nó một trận muốn ra sao thì ra. Vì thế trong trường hợp này việc bọn Ph đánh quá tay làm anh T bị chết là ngoài mục đích của N và Q, và hành vi của Ph và đồng bọn là hành vi thái quá của người thực hành nên những người đồng phạm khác không phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên hành vi của N và Q nói đánh cho nó một trận cũng tức là mong muốn cho T bị thương tích hoạc bị tổn hại đến sức khoẻ, nên hành vi của N và Q phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự vì có tình tiết gây hậu quả chết người.
Tóm lại, vấn đề loại trứ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác (không phải là người thực hành) trong vụ án có đồng phạm không chỉ có liên quan đến hành vi thái quá của người thực hành mà còn liên quan đến nhiều chế định khác như: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc tội phạm, vấn đề lỗi, các điều kiện của đồng phạm và phạm tội có tổ chức.v.v... nhưng hành vi thái quá của người thực hành lại liên quan trực tiếp đến việc loại trừ trách nhiệm hình sự đối vơí người đồng phạm khác, nên có thể nói hành vi thái quá của người thực hành chính là điều kiện (căn cứ) để loại trừ trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm khác.
Người xúi dục là người kính động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm. Hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm chỉ được coi là người đồng phạm trong vụ án có tổ chức, khi hành vi xúi dục có liên quan trực tiếp đến toàn bộ hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm trước khi bị xúi dục chưa có ý định tội phạm, vì có người khác xúi dục nên họ mới nảy sinh ý định tội phạm. Nếu việc xúi dục không liên quan trực triếp đến hoạt động tội phạm của những người đồng phạm khác và người thực hiện tội phạm đã có sẵn ý định tội phạm, thì không phải là người xúi dục trong vụ án có đồng phạm (phạm tội có tổ chức). Ví dụ: Lê Tiến D đi thăm đồng thấy A đang đuổi B để đánh, D liền hô: “đánh bỏ mẹ chúng nó đi !” nhưng chỉ hô như vậy rồi thôi. Sau đó A vẫn đuổi đánh B và lấy đi chiếc xe đạp của B . Hành vi của D tuy có vẻ xúi dục người khác, nhưng khi D có hành vi xúi dục thì ý định tội phạm của A đã có sẵn từ trước nên hành vi xúi dục của D không có ý nghĩa gì đến việc phạm tội của A, dù D có hô hay không hô câu "đánh bỏ mẹ nó đi" thì cũng không làm thay đổi ý định tội phạm của A, nên không thể coi D là người xúi dục được.
Người xúi dục là người phạm tội giấu mặt, dân gian thường gọi là kẻ "ném đã giấu tay". Tuy nhiên, nếu xúi dục trẻ em dưới 14 tuổi, người không có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm, thì hành vi xúi dục được coi là hành vi thực hành thông qua hành vi của người không chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này, người không phải chịu trách nhiệm hình sự trở thành phương tiện, công cụ để người xúi dục thực hiện tội phạm. Nếu xúi dục trẻ em từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi tội phạm thì người xuí dục còn phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "xúi dục người chưa thành niên tội phạm" (điểm n khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự).
Trong trường hợp người xúi dục lại là người tố chức và cùng thực hiện tội phạm, thì họ trở thành người tố chức và nếu xúi người chưa thành niên tội phạm thì họ còn phải chịu tình tiết tăng nặng" xúi dục người chưa thành niên tội phạm".
Hành vi xúi dục phải cụ thể, tức là người xúi dục phải nhằm vào tội phạm cụ thể và người phạm tội cụ thể nếu chỉ có lời nói có tính chất thông báo hoặc gợi ý chung chung thì không phải là người xúi dục và không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tội phạm của người thực hiện tội phạm. Ví dụ: Nguyễn Quang T cùng ngồi uống nước với một số thanh niên. Trong lúc uống nước, T nói: " Tao vừa đi qua Ngân hàng thấy nhiều người đến gửi tiền tiết kiệm lắm, đứa nào bạo gan ra đó nhất định kiếm được". Trong số thanh niên ngồi uống nước có Trần Quốc P và Đặng Văn V là những tên đã có nhiều tiền án, tiền sự về tội trộm cắp, nghe T nói vậy, liền bàn nhau ra Ngân hàng dùng dao khống chế một phụ nữ để chiếm đoạt số tiền hơn 10 triệu. Khi bị bắt, P và V khai vì do T nói nên chúng tôi mới bàn với nhau đi chấn lột. Đúng là trong trường hợp này, T có nói một câu như có vẻ xúi dục, nhưng câu nói của T không phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc P và V cướp tài sản. Mặt khác, T cũng không phải là người xúi dục P và V cướp tài sản, cũng không được P và V hứa chia tiền hoặc tài sản nếu cướp được.
Người giúp sức là người tạo điều những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm. Trong một vụ án có đồng phạm, vai trò của người giúp sức cũng rất quan trọng, nếu không có người giúp sức thì người thực hiện tội phạm sẽ gặp khó khăn. Ví dụ: Phạm Thị H hứa với Trần Công T sẽ tiêu thụ toàn bộ số tài sản nếu T cướp được. vì có sự hứa hẹn của H nên đã thúc đẩy T quyết tâm phạm tội vì đã có nơi tiêu thụ tài sản cướp được.
Người giúp sức có thể giúp bằng lời khuyên, lời chỉ dẫn; cung cấp phương tiện phạm tội hoặc khắc phục những trở ngại cho việc thực hiện tội phạm; hứa che giấu người phạm tội, phương tiện, xoá dấu vết, hứa tiêu thụ tài sản do phạm tôi mà có...
Hành vi tạo những điều kiện về tinh thần thường được biểu hiện như: Hứa hẹn sẽ che giấu hoặc hứa ban phát cho người phạm tội một lợi ích tinh thần nào đó như: hứa gả con, hứa đề bạt, thăng cấp, tăng lương cho người phạm tội, bày vẽ cho người phạm tội cách thức thực hiện tội phạm như: nói cho người phạm tội biết người bị hại hay đi về đường nào để người phạm tội phục cướp...
Hành vi tạo điều kiện vật chất cho việc thực hiện tội phạm là hành vi cung cấp phương tiện phạm tội như: cung cấp dao, súng, côn gỗ, xe máy, xe ô tô... để người phạm tội thực hiện tội phạm.
Dù tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho việc thực hiện tội phạm thì hành vi đó cũng chỉ tạo điều kiện dễ dàng cho việc thực hiện tội phạm chứ người giúp sức không trực tiếp thực hiện tội phạm.
Hành vi tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm cuả người giúp sức cũng có thể là hành vi của người tổ chức, nhưng khác với ngừơi tổ chức, người giúp sức không phải là người chủ mưu. cầm đầu, chỉ huy mà chỉ có vai trò thứ yếu trong vụ án có đồng phạm. Nếu các tình tiết khác như nhau thì người giúp sức bao giờ cũng được áp dụng hình phạt nhẹ hơn những người đồng phạm khác.
Cần chú ý rằng, khi đã xác định vụ án được thực hiện có tổ chức thì tất cả những người trong vụ án đều bị áp dụng tình tiết "phạm tội có tổ chức". Tuy nhiên, trách nhiệm hình sự đối với từng người còn tuỳ thuộc vào vai trò của họ trong vụ án như đã phân tích ở trên.
b. Phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội lấy việc phạm tội là nguồn sống chính cho mình.
Phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp là người phạm tội lấy việc cướp tài sản là nguồn sống chính cho mình.
Bộ luật hình sự năm 1985 chưa coi trường hợp phạm tội này là tình tiết tăng nặng hoặc là tình tiết định khung hình phạt. Nhưng qua thực tiễn xét xử, có một số tội phạm, người phạm tội đã lấy việc phạm tội là nguồn thu nhập chính của bản thân, nhất là đối với các tội phạm về kinh tế như tội "làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả", các tội xâm phạm sở hữu như tội “cướp tài sản”, tội "trộm cắp tài sản", tội "lừa đảo chiếm đoạt tài sản"... Và hành vi này cần phải trừng trị nghiêm khắc để phòng ngừa tội phạm, nên nhà làm luật đã bổ sung tình tiết "phạm tội có tính chất chuyên nghiệp" là tình tiết định khung tăng nặng của một số tội phạm.
Bộ luật hình sự năm 1999 coi trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và trong một số tội phạm nhà làm luật quy định là tình tiết định khung hình phạt. Việc nhà làm luật coi trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là tình tiết tăng nặng hoặc là tình tiết định khung hình phạt là một yêu cầu cần thiết do thực tiễn xét xử đặt ra.
Khi áp dụng tình tiết này, cần lưu ý rằng khái niệm chuyên nghiệp được hiểu ở đây không đồng nghĩa với khái niệm nghề nghiệp của một người, vì không thể coi phạm tội là một nghề kiếm sống, tính chất chuyên nghiệp của hành vi phạm tội thể hiện ở chỗ tội phạm đó được lặp đi lặp lại nhiều lần mà người phạm tội coi việc phạm tội đó là phương tiện kiếm sống. Ví dụ: Hoàng Văn N là một kẻ sống lang thang không nghề nghiệp, thường tụ tập một số người cùng cảnh ngộ như mình chuyên trộm, cướp để sinh sống. Tuy nhiên, không phải hành vi phạm tội nào cứ lặp đi, lặp lại nhiều lần đều coi là có tính chất chuyên nghiệp, mà chỉ những hành vi mà người phạm tội coi đó là phương tiện kiếm sống thì mới là có tính chất chuyên nghiệp. Ví dụ: Trần Văn Đ là học sinh lớp 12, bị kỷ luật đuổi học, Đ đã rủ Bùi Văn C dùng dao nhọn “Thái Lan” liên tiếp gây ra hai vụ cướp xe đạp trước cổng Công viên. Hành vi của Đ và C chỉ bị coi là phạm tội nhiều lần chứ không bị coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp và phạm tội nhiều lần đều giống nhau ở điểm, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần (từ hai lần trở lên), nhưng khác nhau ở chỗ: Phạm tội nhiều lần, người phạm tội không lấy việc phạm tội làm Phương tiện sống và họ chỉ phạm một tội, nhưng tội phạm đó được thực hiện nhiều lần. Còn phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, người phạm tội có thể chỉ phạm một tội, nhưng có thể phạm nhiều tội với nhiều lần khác nhau, nhưng lại lấy việc phạm tội đó là phương tiện kiếm sống thường xuyên. Hiện nay, cũng có quan điểm cho rằng, đối với trường hợp một người chỉ phạm một tội, nhưng được thực hiện nhiều lần trong một thời gian nhất định mà hành vi phạm tội đó được lặp đi, lặp lại thì cũng phải coi là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, chứ không nhất thiết phải xác định người phạm tội phải lấy việc phạm tội làm phương tiện kiếm sống. Quan điểm này, theo chúng tôi là không có cơ sở khoa học, và nếu cứ coi trường hợp phạm tội nhièu lần nào cũng là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thì không thể lý giải được sự khác nhau giữa phạm tội có tính chất chuyên nghiệp với phạm tội nhiều lần. Tuy nhiên, phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp không chỉ phạm tội cướp tài sản nhiều lần, mà người phạm tội còn phải lấy việc cướp tài sản là nguồn sống chính cho bản thân. Do đó, sự khác nhau giữa tình tiết là yếu tố định khung với tình tiết tăng nặng về trường hợp phạm tội có tính chất chuyên nghiệp chính là ở chỗ này.
---
Chú giải
[10] Khoản 1 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ ba năm đến bảy năm tù; khoản 1 Điều 129 Bộ luật hình sự năm 1985 có khung hình phạt từ năm năm đến mười lăm năm tù.
[11] Xem Đinh Văn Quế “ Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 phần chung” NXB thành phố Hồ Chí Minh năm 2000. tr 121-141.
Nguồn: BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ - PHẦN CÁC TỘI PHẠM, ĐINH VĂN QUẾ, THẠC SĨ LUẬT HỌC – TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
No comments:
Post a Comment