Điều 132. Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo
1. Người nào có một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo;
b) Có trách nhiệm mà cố ý không chấp hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo.
2. Người nào trả thù người khiếu nại, tố cáo thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm.
Định nghĩa: Tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo là hành vi Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo; Có trách nhiệm mà cố ý không chấp hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo hoặc trả thù người khiếu nại, tố cáo.
Điều 132 Bộ luật hình sự năm 1999 được cấu tạo thành 3 khoản, trong đó khoản 1 và khoản 2 quy định hình phạt chính và đều là cấu thành cơ bản vì khoản 1 quy định hai loại hành vi, khoản 2 quy định một loại hành vi. Đây cũng là một đặc điểm riêng biệt về kỹ thuật lập pháp, còn khoản 3 quy định hình phạt bổ sung. Nói chung, Điều 132 Bộ luật hình sự năm 1999 so với Điều 127 Bộ luật hình sự năm 1985 không có gì thay đổi, chỉ có khác ở chỗ hình phạt bổ sung được quy định ngay trong điều luật và mức tối thiểu của hình phạt bổ sung là một năm ( nhẹ hơn hình phạt bổ sung quy định về tội phạm này ở Điều 128 Bộ luật hình sự năm 1985).
Điều 132 Bộ luật hình sự quy định hai hành vi phạm tội khác nhau: Xâm phạm quyền khiếu nại và xâm phạm quyền tố cáo. Vì vậy khi định tội, nếu người phạm tội chỉ thực hiện một trong hai hành vi thì chỉ định tội “xâm phạm quyền khiếu nại” hoặc “xâm phạm quyền tố cáo” mà không định tội là “xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo”
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm
Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Đối với tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới có thể là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này khoản 1 là tội phạm ít nghiêm trọng còn khoản 2 là tội phạm nghiêm trọng.
Chủ thể của tội phạm này nếu thuộc trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 của điều luật là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn nhất định mới có thể thực hiện được hành vi xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo. Họ có thể là người bị khiếu nại, tố cáo nhưng cũng có thể là người đứng đầu trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc những có liên quan đến việc khiếu nại, tố cáo hoặc được người bị khiếu nại tố cáo nhờ giải quyết việc khiếu nại, tố cáo.
Tuy nhiên, đối với trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 của điều luật thì chủ thể của tội phạm không chỉ bao gồm người có chức vụ, quyền hạn mà có thể có cả người không có chức vụ, quyền hạn.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm
Khách thể của tội xâm phạm này là quyền khiếu nại, tố cáo được pháp luật bảo vệ.
Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân không chỉ được quy định trong Hiến pháp, mà còn quy định ở các văn bản pháp luật khác. Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền vè những việc làm trái pháp luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ quan Nhà nước xem xét và giả quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo...”. Quyền khiếu nại, tố cáo còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo như: Bộ luật tố tụng hình sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, hành chính; pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính... Ngoài ra, Quốc hội còn ban hành luật khiếu nại, tố cáo quy định cụ thể quyền khiếu nại, tố cáo và nghĩa vụ giải quyết khiếu nại tố cáo.18
3. Các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo có thể thực hiện một hoặc một số hành vi sau:
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc khiếu nại, tố cáo, việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo hoặc việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo. Như vậy, hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người phạm tội đã cản trở nhiều việc khác nhau có liên quan đến quyền khiếu nại, tố cáo. Do đó chúng ta cần tìm hiếu các khái niệm: khiếu nại; tố cáo; giải quyết khiếu nại, tố cáo; xử lý người bị khiếu nại, tố cáo. Theo luật khiếu nại, tố cáo thì:
Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật khiếu nại, tố cáo quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Tố cáo là việc công dân theo thủ tục do Luật này quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Người bị khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật bị khiếu nại.
Người bị tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi bị tố cáo.
Giải quyết khiếu nại là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết của người giải quyết khiếu nại.
Giải quyết tố cáo là việc xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc quyết định xử lý của người giải quyết tố cáo.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc khiếu nại, tố cáo là sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để gây khó khăn cho việc khiếu nại, tố cáo như: Mua chuộc, hăm doạ người khiếu nại, tố cáo để họ không thực hiện việc khiếu nại, tố cáo hoặc rút đơn khiếu nại tố cáo...
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo là sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để gây khó khăn cho việc xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo như: Tiêu huỷ đơn khiếu nại, tố cáo; không thụ lý giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo; không chuyển đơn khiếu nại, tố cáo đến người có trách nhiệm giải quyết...
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn cản trở việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo là sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để gây khó khăn cho việc xử lý người bị khiếu nại, tố cáo như: Bao che cho người bị khiếu nại, tố cáo; không xử lý hoặc xử lý qua loa cho xong chuyện không đúng với tính chất, mức độ vi phạm của người bị khiếu nại, tố cáo. Ví dụ: Một cán bộ bị tố cáo là nhận hối lộ tới 60.000 USD của người phạm tội mua bán ma tuý, nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ bị xử lý hành chính.
Không chấp hành quyết định của cơ quan có thẩm quyền xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo là hành vi của người có trách nhiệm mà cố ý không thực hiện việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo khi đã có quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Đây là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn ở cấp dưới không chấp hành quyết định của cấp trên trong việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo của người khiếu nại tố cáo. Ví dụ: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh đã có quyết định giao cho bà H được quyền sử dụng vườn Cà phê, nhưng Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện cố ý không giao vườn Cà phê cho bà H, nên đã gây thiệt hại cho bà H 50.000.000 đồng. Khi xác định hành vi phạm tội này, cần chú ý đến hậu quả do hành vi không chấp hành quyết định gây ra. Nếu hành vi không chấp hành quyết định nhưng chưa gây thiệt cho người khiếu nại tố cáo thì chưa cấu thành tội phạm. Thiệt hại gây ra cho người khiếu nại, tố cáo bao gồm thiệt hại về vật chất hoặc thiệt hại về tinh thần, đối với thiệt hại về vật chất có thể tính được bằng tiền, nhưng đối với thiệt hại về tinh thần thì khó xác định, do đó khi xem xét hành vi gây thiệt hại về tình thần phải căn cứ vào nhiều yếu tố để ác định thiệt hại đó đã tới mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi của người phạm tội hay chưa.
Trả thù người khiếu nại, tố cáo là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn hoặc của người khác vì bị khiếu nại, tố cáo hoặc tuy không bị khiếu nại tố cáo nhưng có liên quan đến việc khiếu nại, tố cáo hoặc có liên quan đến người bị khiếu nại, tố cáo đã có hành vi gây thiệt hại (làm hại) cho người đã khiếu nại, tố cáo mình hoặc người mà mình quan tâm. Thủ đoạn trả thù rất đa dạng, tinh vi có thể trả thù ngay hoặc chờ cơ hội sẽ trả thù, có khi năm năm, mười năm sau, do đó, khi xác định hành vi trả thủ phải lấy thời điểm người phạm tội thực hiện hành vi trả thù làm căn cứ xác định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự chứ không lấy thời điểm xảy ra hành vi khiếu nại tố cáo để tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu hành vi trả thù lại cấu thành một tội độc lập thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng với động cơ trả thù. Ví dụ: Do bị anh Đinh Văn T tố cáo nên Nguyễn Như B bị cách chức giám đốc Công ty 262. Sau khi bị cách chức, B đã thuê Bùi Xuân K và Đỗ Thanh N chặn đánh anh
T bị trọng thương có tỷ lệ thương tật 50%. Hành vi của B, K và N là hành vi phạm tội cố ý gây thương tích thuổcth quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự với các tình tiết định khung hình phạt là: Có tổ chức, thuê gây thương tích (đối với B), gây thương tích thuê (đối với K và N).
Người trả thù chỉ có thể là con người cụ thể ( thể nhân), nhưng người bị trả thù có thể là thể nhân nhưng cũng có thể là cơ quan, tổ chức, vì theo quy định của luật khiếu nại, tố cáo thì người khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức thực hiện quyền khiếu nại.
b. Hậu quả
Hậu quả của tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo là những thiệt hại vật chất hoặc tinh thần do hành vi xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo gây ra cho cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức. Những thiệt hại này có thể tính ra bằng tiền, nhưng cũng có thể không tính ra được bằng tiền, do đó, nếu những thiệt hại không thể tính được bằng mọt số tiền thì phải đánh giá một cách toàn diện để xác định hành vi xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo đã gay ra hậu quả như thế nào cho xã hội.
Hậu quả của tội phạm này là dấu hiệu bắt buộc đối với trường hợp phạm tội quy định tại điểm b khoản 1 của điều luật, vì nếu chưa gây thiệt hại cho người khiếu nại, tố cáo thì chưa cấu thành tội phạm, còn đói với trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 và khoản 2 của điều luật hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng vấn phải xác định thiệt hại đẻ đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
4. Các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo thực hiện hành vi của mình do cố ý, với nhiều động cơ, mục đích khác nhau như: vì lợi ích vật chất, vì danh vọng, địa vị xã hội... Nếu do thiếu trách nhiệm hoặc do không hiểu biết mà xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo mà tuỳ trường hợp, nếu hành vi xâm phạm đó gây hậu quả nghiêm trọng thì người có hành vi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại Điều 285 Bộ luật hình sự.
B. NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 132 Bộ luật hình sự
Là trường hợp xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo không thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, là cấu thành độc lập với cấu thành tội phạm tại khoản 2 của điều luật mà không phải là cấu thành cơ bản của tội phạm này, khoản 1 Điều 132 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm, là tội phạm ít nghiêm trọng.
So với khoản 1 Điều 127 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì khoản 1 Điều 132 Bộ luật hình sự năm 1999 không nhẹ hơn và cũng không nặng hơn, nên hành vi phạm tội thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 127 Bộ luật hình sự năm 1985 mà không áp dụng khoản 1 Điều 132 Bộ luật hình sự năm 1999 như hướng dẫn tại mục 4 Thông tư liên tịch số 02/2000 TTLT của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an.19
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 1 Điều 132 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội chỉ thực hiện một hành vi trong các hành vi quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 1 của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đối với người phạm tội, chỉ áp dụng hình phạt tù, nếu có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ.
2. Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 132 Bộ luật hình sự
Khoản 2 của điều luật cũng là một cấu thành độc với khoản 1 của điều luật, có các yếu tố cấu thành tội phạm riêng, nhưng cũng có thể coi đây là cấu thành tăng nặng, vì hành vi phạm tội cũng xuất phát từ việc xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo. Tuy nhiên, cấu thành tội phạm quy định tại khoản 2 của điều luật là hành vi của người trả thù người khiếu nại, tố cáo. Khoản 2 của điều luật có khung hình phạt tù từ sáu tháng đến năm năm, là tội phạm nghiêm trọng. Cũng như đối với trường hợp quyết định hình phạt ở khoản 1 của điều luật, Toà án phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của hình phạt hoặc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn hình phạt tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ, thì phải áp dụng mức cao hoặc cao nhất của khung hình phạt.
3. Hình phạt bổ sung
Ngoài hình phạt chính, Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ từ một năm đến năm năm. Khi áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật Toà án chỉ áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ đối với người phạm tội có chức vụ quyền hạn.
---
Chú giải
18 Xem Luật khiếu nại, tố cáo phần phụ lục
19 Tại mục 4 Thông tư liên tịch số 02/2000 TTLT của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an lại hướng dẫn: “Đối với những Tội phạm đã được quy định trong một điều luật của Bộ luật hình sự năm 1985, nay theo cách so sánh tại các điểm từ điểm b1 đến điẻm b6 Mục 2 và tại các điểm từ điểm d1 đến điểm d6 Mục 3 Thông tư này mà vẫn giữ nguyên trong điều luật tương ứng của Bộ luật hình sự 1999, thì áp dụng điều luật của Bộ luật hình sự năm 1999 để truy cứu trách nhiệm hình sự”.
Nguồn: BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 - PHẦN CÁC TỘI PHẠM - Thạc sĩ Luật học Đinh Văn Quế, Tòa án Nhân dân tối cao.
No comments:
Post a Comment