25/08/2014
Các tội phạm khác về chức vụ - Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 285) - Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 - Tập 5
MỤC B
CÁC TỘI PHẠM KHÁC VỀ CHỨC VỤ

8. TỘI THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY HẬU QUẢ NGHIÊM TRỌNG    

Điều 285.  Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng  

1. Người nào vì thiếu trách nhiệm mà không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 144, 235 và 301 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm.

3. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một  năm đến năm năm.

Định nghĩa: Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nhiệm vụ được giao gây hậu quả nghiêm trọng.

Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là tội phạm đã được quy định Điều 220 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, do yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, nên Quốc hội đã hai lần sửa đổi bổ sung vào ngày 12-8-1991 và ngày 22-12-1992 theo hướng nghiêm khắc hơn.

Tội phạm này, nếu chỉ xét về hành vi khách quan và ý thức chủ quan thì giống với tội “thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước” (Điều 144), tội “ thiếu trách nhiệm trong việc giữ vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ gây hậu quả nghiêm trọng” (Điều 235) và tội “thiếu trách nhiệm để người bị giam, giữ trốn” (Điều 301) chỉ khác với các tội phạm này ở hậu quả, ở đối tượng tác động. Cũng chính vì vậy, điều văn của điều luật quy định: “nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 144, 235 và 301 của Bộ luật này”.
 So với Điều 220 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này, thì Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 không có thay đổi lớn, chỉ bổ sung loại hình phạt cải tạo không giam giữ và thêm trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng ở khoản 2 của điều luật, đồng thời quy định hình phạt bổ sung ngay trong điều luật.

A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM 

 Như đã nêu ở trên, tội phạm này gần giống với một số tội phạm khác có hành vi thiếu trách nhiệm, nên các dấu hiệu của tội phạm này nếu chỉ xét về hành vi khách quan và ý thức chủ quan thì cũng tương tự như các tội thiếu trách nhiệm quy định ở các điều 144, 235 và 301. Trong đó, Điều 144 chúng tôi đã phân tích trong cuốn “ Bình luận Bộ luật hình sự 1999- tập 2”46 Tuy nhiên, để theo dõi một cách có hệ thống, chúng ta lần lượt nghiên cứu từng dấu hiệu của tội phạm này.

1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm

 Cũng như đối với tội “thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước”, chủ thể của tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” cũng được coi là chủ thể đặc biệt, chỉ những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan, tổ chức mới có thể là chủ thể của tội phạm này. Việc xác định tư cách chủ thể của tội phạm này là việc làm đầu tiên khi xác định hành vi phạm tội.

Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ khác, người có chức vụ, quyền hạn là người đã được phân tích ở phần khái niệm về chức vụ. Tuy nhiên, đối với tội phạm này khác với các tội thiếu trách nhiệm quy định tại các Điều 144, 235 và 301 Bộ luật hình sự ở chỗ, trách nhiệm của người phạm tội là trách nhiệm gián tiếp đối với hậu quả xảy ra (hành vi thiếu trách nhiệm không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả nghiêm trọng). Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng với ba trường hợp thiếu trách nhiệm quy định tại các Điều 144, 235 và 301 Bộ luật hình sự.

Mặc dù chủ thể của tội phạm này là chủ thể đặc biêt, nhưng điều khẳng định này cũng chỉ đúng đối với trường hợp vụ án không có đồng phạm, nếu vụ án có đồng phạm thì chỉ yêu cầu người thực hành phải là người có chức vụ, quyền hạn, còn những người đồng phạm khác không nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn.

Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án, thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau:

Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 285 Bộ luật hình sự, vì trường hợp  phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng. Tuy nhiên, đối với những người này họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án với vai trò giúp sức, vì những người này chưa thể trở thành người có chức vụ, quyền hạn.

Người dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng.

2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm 

Khách thể của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; gây thất thoát, lãng phí nghiêm trọng đến tài sản của cơ quan, tổ chức; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức mình bị thoái hoá biến chất 

3. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm 

a. Hành vi khách quan

Có thể nói người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là thiếu trách nhiệm, bản thân của hành vi này đã phản ảnh bản chất của tội phạm. Nhưng biểu hiện của hành vi thiếu trách nhiệm lại không phải giống nhau nó tuỳ thuộc vào nhiệm vụ được giao và tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra hậu quả.

Hành vi thiếu trách nhiệm trong công tác quản lý, điều hành của người có chức vụ, quyền hạn được biểu hiện như: Vi phạm các nguyên tắc, chính sách, chế độ liên quan đến việc quản lý Nhà nước, quản lý con người, quản lý tài sản. v.v... 

Các nguyên tắc, chế độ có liên quan đến việc quản lý Nhà nước có thể là là các chế độ chính sách trên phạm phi toàn quốc, từng địa phương, từng ngành, từng lĩnh vực.

Các nguyên tắc, chế độ có liên quan đến việc quản lý con người là nguyên tắc chế độ quản cán bộ, công chức hoặc thành viên trong một cơ quan, tổ chức; có thể là quy chế, chỉ thị, nghị quyết, nghị định... về công tác quản lý cán bộ, công chức

Các nguyên tắc, chế độ có liên quan đến việc quản lý tài sản có thể là các nguyên tắc, chế độ quản lý kinh tế, nhưng cũng có thể chỉ là nguyên tắc, chế độ về hành chính nhưng có liên quan quản lý tài sản, đôi khi chỉ là một bản nội quy cơ quan nếu vi phạm mà gây hậu quả nghiêm trọng thì cũng bị coi là thiếu trách nhiệm.

Thiếu trách nhiệm là không làm hoặc làm không hết trách nhiệm được giao nên mới gây ra hậu quả, nếu làm tròn trách nhiệm được giao thì không thể gây ra hậu quả. Trường hợp đã làm hết trách nhiệm mà hậu quả vẫn xảy ra thì không phải là thiếu trách nhiệm và không phải là hành vi phạm tội này dù hậu quả gây ra rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Ví dụ: Ông Đào Ngọc H là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã giao cho Bùi Văn T là Phó chủ tịch đại diện cho bên A ký hợp đồng với Công ty xây dựng M sửa chữa Trụ sở Uỷ ban nhân dân xã với tổng giá trị là 600.000.000 đồng. Trong quá trình thi công, ông H đã thường xuyên yêu cầu T báo cáo tình hình thực hiện hợp đồng, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện hợp đồng. Việc thực hiện đang tiến triển thuận lợi thì đột nhiên ông H bị bệnh phải vào Bệnh viện tỉnh đièu trị. Trong thời gian nằm bệnh viện, ông H yêu cầu T thường xuyên báo cáo tình hình thực hiện hợp đồng cho ông nghe, nhưng T đã móc ngoặc với bên B nâng khống một số hạng mục công trình rút tiền chia nhau. Sau khi nghiệm thu công trình dưa vào sử dụng được 6 tháng thì bị sập một góc làm chết một người và bị thương 2 người với tỷ lệ thương tật mối người là 35%. Mặc dù là người đứng đầu, nhưng ông H đã làm hết trách nhiệm của mình, nên không thể coi việc làm của ông H là thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Thực tiễn xét xử cho thấy, hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng bị coi là hành vi phạm tội thường là những hành vi thiếu yếu tố cấu thành tội phạm khác hoặc không chứng minh được động cơ, mục đích phạm tội. Ví dụ: Trong vụ án Nguyễn Ngọc Lâm, một số cán bộ kiểm hoá thuộc Cục hải quan tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã không làm tròn trách nhiệm (không kiểm hoá hoặc kiểm hoá qua loa) để Nguyễn Ngọc Lâm buôn lậu trót lọt một lượng lớn xe ô tô. Trong quá trình điều tra, không chứng minh được các cán bộ Hải quan này nhận hối lộ của Nguyễn Ngọc Lâm, nên chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự họ về tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

b. Hậu quả

Hậu quả của tội phạm này là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm là một bộ phân hợp thành tội danh, đó là hậu quả nghiêm trọng. Nếu hậu quả gây ra rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật.

Hậu quả nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của con người; những thiệt hại về tài sản, uy tín của cơ quan, tổ chức và những thiệt hại phi vật chất khác.

Hành vi thiếu trách nhiệm gây ra hậu quả nghiêm trọng, được xác định như là một nguyên nhân gián tiếp. Đây cũng là dấu hiệu để phân biệt tội phạm tội này với  một số tội phạm khác có hành vi thiếu trách nhiệm là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả như tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước.

Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra, nhưng tham khảo hướng dẫn của liên ngành về các tội xâm phạm sơ hữu, thì có thể coi hậu quả nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra nếu:

 - Làm chết một người;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;

- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.

- Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa.47
Các hướng dẫn trên, có thể áp dụng đối với hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự.

4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm 

Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng được thực hiện do vô ý.

Các dấu hiệu về vô ý phạm tội được quy định tại Điều 10 Bộ luật hình sự. Có hai trường hợp vô ý phạm tội:
Trường hợp thứ nhất là người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được; khoa học luật hình sự gọi trường hợp vô ý phạm tội này là “vô ý vì quá tự tin”.

Trường hợp thứ hai là người phạm tội không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả , mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước. Khoa học luật hình sự gọi trường hợp vô ý phạm tội này là “vô ý vì cẩu thả”.

Cả hai trường hợp vô ý trên, người phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng đều có thể mắc phải tuỳ thuộc vào chức vụ, quyền hạn của họ và hoàn cảnh cụ thể lúc xảy ra hậu quả. Việc xác định lỗi vô ý gây hậu quả nghiêm trọng của người phạm tội là bắt buộc, nhưng không bắt buộc phải xác định người phạm tội do vô ý vì quá tự tin hay vô ý vì cẩu thả. 

Động cơ phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Đây là đặc điểm khác với một số tội phạm khác mà người phạm tội có chức vụ, quyền hạn thực hiện. Do đó, khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, nếu cần xác định động cơ phạm tội cũng chỉ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt chứ không có ý nghĩa định tội.

B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ

1. Phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng không có các tình tiết định khung hình phạt 

Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. So với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 220 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì khoản 1 Điều 285 có quy định hình phạt cải tạo không giam giữ và nếu so sánh Điều 220 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999, thì Điều 285 cũng là điều luật nhẹ hơn. Vì vậy, đối với hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000  mới phát hiện,xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
  
Khi áp dụng khoản 1 Điều 285 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Việc áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ phải đúng quy định tại Điều 31 Bộ luật hình sự về loại hình phạt này. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ( sáu tháng tù). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới 5 năm tù.

2. Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 285 Bộ luật hình sự 

Nhà làm luật quy định hai tình tiết có nội dung như nhau nhưng lại có tính chất và mức độ nghiêm trọng khác nhau là yếu tố định khung hình phạt, đó là: Gây hậu quả rất nghiêm trọng và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Nếu xét về kỹ thuật lập pháp thì việc quy định này chưa khoa học, không chỉ đối với tội phạm này mà chúng ta còn thấy ở nhiều tội phạm khác, nhà làm luật cũng quy định như vậy như: Khoản 3 của Điều 281, khoản 3 của Điều 282.... Tuy nhiên, thực tiễn xét xử, mặc dù hai tình tiết này đều được quy định trong cùng một khung hình phạt, nhưng khi quyết định hình phạt Toà án vẫn phải phân biệt trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng với trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng để áp dụng một hình phạt tương xứng đối với hậu quả mà người phạm tội gây ra. 

a. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác 

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả  nghiêm trọng, chỉ khác ở chỗ: Hậu quả do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội gây ra. 

Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra:

- Làm chết hai người;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;

- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;

- Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ: Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. v.v...

- Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm trọng.48

Đây là hướng dẫn đối với các tội xâm phạm sơ hữu, trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây thì có thể tham khảo hướng dẫn này để xác định hành vi thiếu trách nhiệm gây ra hậu quả rất nghiêm trọng.

b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng 

Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả  nghiêm trọng và gây hậu quả rất nghiêm trọng, chỉ khác ở chỗ: Trường hợp phạm tội này, hậu quả do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra. 

Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra:

- Làm chết ba người trở lên;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;

- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;

- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên;

- Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng;

- Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng;

- Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm trọng.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 285 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc nếu có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể và hậu quả gây ra chỉ là hậu quả rất nghiêm trọng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới ba năm tù), nhưng không được dưới sáu tháng tù. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không tình tiết giảm nhẹ hoặc có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể hoặc chỉ là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 46, là người đã bị xử lý nhiều lần về hành vi thiếu trách nhiệm nhưng vẫn tái phạm, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì có thể bị phạt đến 12 năm tù.

3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng

Theo quy định tại khoản 3 Điều 285 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm.

So với quy định tại Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì hình phạt bổ sung đối với tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 3 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi, bổ sung như sau: 

- Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 3 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm”. 

- Nếu căn cứ vào mức hình phạt thì khoản 3 Điều 285 nhẹ hơn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng căn cứ vào nguyên tắc áp dụng hình phạt này thì khoản 3 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định không có lợi cho người phạm tội vì việc áp dụng hình phạt cấm đảm chức vụ đối với người phạm tội là bắt buộc “bị cấm”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định không bắt buộc Toà án phải áp dụng “có thể bị cấm”. 

Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 3 Điều 285 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội. 

No comments:

Post a Comment