11/09/2014
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương VI - Nguồn gốc, bản chất, chức năng, kiểu hình thức pháp luật
CHƯƠNG VI

NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG, KIỂU, HÌNH THỨC PHÁP LUẬT

I. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT


Để xem xét một cách toàn diện và đầy đủ về bản chất, vai trò, chức năng cũng như giá trị của pháp luật trước hết đòi hỏi phải làm sáng tỏ được pháp luật là gì? Pháp luật có từ đâu và tồn tại như thế nào? Nói tóm lại cần phải làm sáng tỏ được danh, tính của pháp luật trong sự tồn tại của chính nó. Trên thực tế, đây là những vấn đề phức tạp trong nhận thức luận bởi lịch sử tư tưởng và khoa học pháp lí nhân loại từ xưa đến nay chưa có sự kiến giải mang tính thống nhất. 

Lịch sử tư tưởng chính trị, pháp lí ở phương Tây nhìn chung có hai trường phái (quan niệm) chính thống về pháp luật. Trường phải pháp luật tự nhiên( ) khẳng định pháp luật là tất cả các quy tắc mà con người cũng như các sự vật, hiện tượng tự nhiên phải có và sẽ tồn tại bất biến như thuộc tính của con người, sự vật và hiện tượng. Đó là thứ pháp luật lí tưởng bao hàm những quy tắc, tiêu chuẩn mà nhân loại phải noi theo. Montesquieu quan niệm: “Luật, theo nghĩa rộng nhất là những quan hệ tất yếu từ trong bản chất của sự vật. Với nghĩa này thì mọi vật đều có luật của nó. Thế giới thần linh, thế giới vật chất, những trí tuệ siêu việt, cho đến các loài vật và loài người đều có luật của mình”. Về nguồn gốc, quan niệm tự nhiên pháp đã xuất hiện ở Hy Lạp từ thời cổ đại. Đến thế kỉ XIX, quan điểm này bị khủng hoảng do sự chỉ trích của trường phái thực hiện và phái xã hội. Tuy nhiên, đến đầu thế kỉ XX quan niệm tự nhiên pháp được sống lại bằng sự tiếp cận của một số học gia tư sản. Trường phái pháp luật thực tại ra đời muộn hơn và cho rằng nói đến pháp luật phải là những chuẩn mực nêu lên những giới hạn xử sự cụ thể, rõ ràng. Pháp luật là tổng thể các quy tắc hiện hữu trên thực tế được đặt ra với mục đích chi phối, điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Trong mỗi quốc gia, các quy tắc pháp lí đó tồn tại trong mối quan hệ hữu cơ tạo nên hệ thống pháp luật riêng biệt, cụ thể. 


Ở Trung Quốc cổ đại cũng tồn tại hai quan niệm quan trọng về pháp luật có sự khác biệt rất lớn của phái nho gia và phái pháp gia. Trên thực tế, mặc dù xuất hiện muộn hơn nhưng phái pháp gia đã có quan niệm rõ ràng về pháp luật cũng như vai trò của nó trong quản lí xã hội. Theo Hàn Phi Tử, pháp luật, đó là thứ tiêu chuẩn để biết đâu là chính đâu là tà, để khen đúng người phải, trách đúng người quấy. Theo phái pháp gia, pháp tức là pháp luật “...là hiến lệnh công bố ở các công sở, thưởng hay phạt dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận giữ pháp luật để phạt kẻ phạm pháp, như vậy về tôi sẽ theo pháp”. Cũng theo Hàn Phi Tử thì tính chất của pháp luật là phải hợp thời, phải soạn cho dân dễ biết, dễ thi hành và phải công bằng. Tuy nhiên, với cách tiếp cận một chiều là đề cao vai trò của pháp luật nhằm xóa bỏ hoàn toàn quan nhiệm của nho giáo nên phái pháp gia đã không nhận được sự ủng hộ sâu rộng của xã hội Trung Quốc và phương Đông cổ đại. Trong lúc đó, quan niệm của phái Nho gia cho rằng động lực chủ yếu để duy trì trật tự xã hội không phải là pháp luật mà là sự rèn luyện về nhân phẩm của con người. Tất cả các vấn đề xã hội của con người bắt nguồn nhân bản, do đó phải quy về sự tu thân giáo hóa từ con người. Pháp luật theo phái Nho gia là thứ công cụ bất đắc dĩ phải có và chỉ thật sự cần thiết mới sử dụng khi con nguời không còn luân thường, đạo lí, vi phạm các nguyên tắc (đạo) làm người. Như vậy, phái Nho gia không chủ trương xóa bỏ pháp luật thực tại mà chỉ nhìn nhận vai trò của nó thấp hơn so với việc giáo dưỡng bằng đạo đức cho con người. 

Theo quan niệm thần học, luật pháp được quy về cội nguồn của thượng đế, do thượng đế tạo nên. Về bản chất, đó là ý của chúa trời, là thứ luật chỉ tồn tại ở sự quy phục của con người và nó “nhất thành bất biến”. Các tộc người nguyên thủy cổ đại ở Ai Cập, Ấn Độ, Ba Tư, Hy Lạp... đều coi quyền lực và những quy tắc sinh hoạt nói chung là do thần linh ban phát. Chẳng hạn, theo quan niệm thần thoại của người Ai Cập, nữ thần Maat (Ma-at) tượng trưng cho chân lí, công bằng xã hội và tòa án. Các quan tòa mang hình người nữ thần được xem là những người phụng sự của nữ thần.

Với cách tiếp cận duy tâm khách quan, Hêghen (1770 – 1831) đã cho rằng pháp luật cũng như nhà nước chính là sản phẩm hiện thực của ý niệm đạo đức, là hiện tượng lí tính của quá trình nhận thức. Theo ông: “pháp luật là ở chỗ tồn tại hiện có của ý chí tự do, do vậy pháp luật là tự do nói chung như ý niệm”.( )

Quan niệm của J. J. Rousseau (1712 – 1778), pháp luật là phương tiện để liên kết các thành viên trong xã hội, đó chính là công ước chung cho mọi người, Để có công ước đó, các thành viên trong xã hội phải từ bỏ một số phần quyền riêng của mình góp vào. Ông cho rằng “công ước cơ bản (pacte fondamental) không phá bỏ sự bình đẳng tự nhiên, nó xây dựng bình đẳng tinh thần và hợp pháp để thay thế cái mà tự nhiên đã làm cho con người không bình đẳng về thế lực...” và theo ông, “chỉ có một đạo luật duy nhất đòi hỏi phải được sự đồng ý của tất cả mọi người, đó là công ước xã hội”.

Quan điểm Mác-Lênin được xây dựng trên cơ sở triết học duy vật lịch sử đã khẳng định về hiện diện khác quan của pháp luật trong đời sống xã hội có giai cấp. Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội theo mục tiêu, định hướng cụ thể. Với các tiếp cận này, pháp luật chính là thứ chuẩn mực xã hội, là thước đo của hành vi được hình thành bằng con đường nhà nước và mang tính quyền lực nhà nước. Pháp luật là hiện tượng lịch sử có nguồn gốc từ xã hội và là nhân tố trật tự hóa các quan hệ xã hội. Đó chính là công cụ mà gaii cấp cầm quyền sử dụng để thực hiện chức năng quản lí và hợp pháp hóa quan hệ thống trị đối với xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn nghiên cứu khoa học pháp lí ở nước ta cũng đã có ý kiến cho rằng cần phải mở rộng nội hàm khái niệm pháp luật để tiếp cận pháp luật một cách đầy đủ hơn. Hay nói cách khác là hiểu pháp luật với nghĩa rộng hơn bằng việc xem xét một cấu trúc đa dạng nguồn tạo lập nên chính nó. Theo đó, pháp luật không đơn thuần chỉ là sự hiện hữu bằng hệ thống quy tắc xử sử có tính bắt buộc chung mà còn bao gồm nhiều yếu tố khác như: các nguyên tắc pháp luật, khung pháp luật, chính sách pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật và các học thuyết pháp lí, các thực nghiệm pháp lí cũng như các hành vi pháp lí thực tiễn v.v..


II. NGUỒN GỐC PHÁP LUẬT


Do có nhiều quan niệm khác nhau về pháp luật nên đã đem lại sự khác biệt nhất định khi xem xét nguồn gốc của pháp luật. Quan điểm Mác-Lênin khẳng định những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước đồng thời là những nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật. Nhà nước cũng như pháp luật không có con đường phát triển riêng ngoài sự vận động của kinh tế. Vì lẽ đó, theo Mác nghiên cứu nguồn gốc của pháp luật trước hết phải đi từ căn nguyên kinh tế và xem xét cả hai giai đoạn phát triển của xã hội loài người là giai đoạn xã hội chưa có giai cấp, chưa có pháp luật và giai đoạn có giai cấp, có pháp luật. Cách tiếp cận khoa học này cho thấy mối liên hệ, tính quyết định của cơ sở hạ tầng cũng như điều kiện tồn tại xã hội đối với sự hình thành, phát triển của pháp luật trên thực tế.

1. Xã hội cộng sản nguyên thủy và các hình thức quản lí

Xã hội cộng sản nguyên thủy tồn tại trên nền tảng kinh tế tự nhiên nguyên thủy với đặc điểm sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất phù hợp với mức độ thấp của tính chất, trình độ lực lượng sản xuất. Trong xã hội này chưa đem lại sự khác biệt về hưởng thụ lợi ích giữa các thành viên trong cộng đồng thị tộc, bào tộc và bộ lạc. Đặc điểm này cũng đã quy định tính đặc thù về tổ chức xã hội và quyền lực xã hội nguyên thủy là bình đẳng và chưa tách biệt khỏi cộng đồng dân cư. Tuy vậy, nhu cầu của quy luật sinh tồn đã buộc loài người cần phải phối hợp các hoạt động săn bắn, hái lượm, chế ngự thiên nhiên và bảo vệ cộng đồng thị tộc, bộ lạc của mình. Mặc dù, sự phối hợp điều chỉnh đó còn hết sức sơ khai và chủ yếu thực hiện bằng các hình thức như:

- Sự ràng buộc của huyết thống: Cộng đồng nguyên thủy với đơn vị cơ sở là thị tộc được hình thành dựa trên huyết thống (dòng máu) có tổ chức chặt chẽ. Các thành viên trong thị tộc đặt dưới sự quản lí trước tiên theo chế độ mẫu hệ và sau đó là phụ hệ. Sự phục tùng các nguyên tắc bất thành văn trong quản lí cộng đồng được mọi người tuân thủ nghiêm ngặt đã xác lập trật tự xã hội có tính ổn định cao. Biện pháp xử lí nặng nhất đối với các thành viên có hành vi phá vỡ sự ràng buộc của nguyên tắc huyết thống, xâm phạm trật tự cộng đồng là loại bỏ khỏi thị tộc. Trên thực tế biện pháp này đồng nghĩa với việc tước bỏ sự tồn tại của thành viên đó bởi vì lúc này con người chưa có tư cách cá nhân, chưa thể tồn tại ngoài thị tộc.

- Sự quản lí của hội đồng thị tộc, bào tộc và bộ lạc: Mặc dù còn sơ khai nhưng ở các đơn vị cơ sở của xã hội nguyên thủy đã có sự quản lí bằng việc lập nên hội đồng quản lí các công việc chung. Hội đồng thị tộc bao gồm toàn thể thành viên trong thị tộc đó nên mọi quyết định được đưa ra đều có ý kiến của các thành viên. Hội đồng bào tộc hoặc bộ lạc bao gồm các vị trưởng lão, thủ lĩnh quân sự, tù trưởng của các thị tộc trong bào tộc đó hợp lại. Tương tự như cách tổ chức này nhưng hội đồng bộ lạc có quy mô lớn hơn nhiều so với bào tộc bởi bộ lạc có thể có lãnh địa riêng, thổ ngữ riêng. 

- Phong tục, tập quán nguyên thủy: Phong tục, tập quán là những thói quen trong xử sự được hình thành mặc nhiên cùng đời sống cộng đồng nguyên thủy. Có thể nói, đây là phương tiện quản lí xuất hiện sớm nhất có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các hoạt động xã hội. Nhiều tập quán của thị tộc sau này trở thành nguồn pháp luật được giai cấp chủ nô thừa nhận, sử dụng như tập quán báo thù, tập quán ăn miếng trả miếng (ngang bằng).

- Quy tắc đạo đức nguyên thủy: Cũng như phong tục tập quán, các quy tắc đạo đức được hình thành mặc nhiên cùng đời sống sinh hoạt vật chất, tinh thần và trao đổi tình cảm của người nguyên thủy. Đó là những quan niệm về phương diện sống theo cách hiểu của người nguyên thủy. Tuy nhiên, do tính cát cứ trong tổ chức xã hội nguyên thủy mà các quy phạm đạo đức cũng ít nhiều mang tính khép kín theo từng thị tộc, bào tộc, bộ lạc.

- Các quan niệm tôn giáo nguyên thủy: Trong xã hội khi mà sự nhận thức của con người còn nhiều hạn chế thì sự chi phối của các quan niệm tôn giáo về hoạt động của họ là rất lớn. Sự thiếu hiểu biết về thế giới tự nhiên, khả năng chinh phục thiên nhiên còn hạn chế cộng với những rủi ro thường gặp đã buộc con người dựa vào những nguyện ước tâm linh, mong đợi sự chở che của thần thánh. Người nguyên thủy đặt tên những vị thần của trời, đất để những vị thần này phù hộ, ban phát cho từng lĩnh vực như thần lửa, thần nước, thần mặt trời... và theo họ đó là đấng tối cao. Cùng với thời gian, các quan niệm, nghi lễ tín ngưỡng của họ dần dần đã tạo nên những tín điều, quy tắc thiêng liêng và bất thành văn. Các tín điều, quy tắc đó dù hoàn toàn mang tính duy tâm nhưng đã đóng góp vai trò nhất định trong việc điều chỉnh hệ thống quan hệ xã hội nguyên thủy. 

- Uy tín cá nhân của các vị trưởng lão, thủ lĩnh quân sự: Đời sống xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có những tổ chức tách biệt cộng đồng để thực hiện chức năng quản lí. Tuy vậy, trong các đơn vị cơ sở đó, đứng đầu là vị trưởng lão, bên cạnh đó còn có các vị thủ lĩnh quân sự và trong chiến tranh có cả tù trưởng. Vai trò, uy tín của những cá nhân đó đối với các thành viên trong công đồng là rất lớn. Mác viết: “Viên cảnh sát xoàng nhất của một nhà nước văn minh cũng có uy quyền hơn tất cả những cơ quan của xã hội thị tộc cộng lại nhưng một vị vương công có thế lực nhất, một chính khách hoặc một chỉ huy quân sự lớn nhất của thời đại văn minh vẫn có thể ganh tị với thủ lĩnh nhỏ nhất trong thị tộc về lòng tôn kính mà người ta có đối với vị thủ lĩnh này, một sự tôn kính không thể chối cãi được và cũng không phải dùng roi vọt mà có”.

Tóm lại, xã hội cộng sản nguyên thủy dựa trên nền kinh tế hoàn toàn mang tính tự nhiên chưa có sự khác biệt về lao động, hưởng thụ, chưa có sự phân hóa xã hội. Việc điều chỉnh, quản lí xã hội bằng các hình thức, phương tiện như trên là hoàn toàn phù hợp, hiệu lực và hiệu quả.

2. Nguyên nhân, điều kiện và các con đường hình thành pháp luật trong lịch sử.

Trong lịch sử, khi nghiên cứu về sự xuất hiện của pháp luật có không ít cách lí giải khác nhau về nguyên nhân, điều kiện làm xuất hiện pháp luật. Nhìn chung, quan niệm của các nhà duy tâm, tôn giáo đều đã cho rằng pháp luật xuất hiện do lực lượng siêu tự nhiên bên ngoài áp đặt vào xã hội hoặc đó là sản phẩm của ý niệm đạo đức là hiện thực của nhận thức lí tính. Quan điểm của Mác-Lênin đã khẳng định một cách khoa học rằng pháp luật là kết quả tất yếu khách quan của quá trình vận động lịch sử với những nguyên nhân, điều kiện cụ thể. Những nguyên nhân làm xuất hiện pháp luật cũng như nhà nước đều bắt nguồn từ thực tiễn đời sống xã hội của con người. Do đó, tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện và các con đường hình thành pháp luật đòi hỏi phải xem xét từ chính xã hội của con người. 

a. Nguyên nhân, điều kiện làm xuất hiện pháp luật

Xem xét nguyên nhân xuất hiện của pháp luật tức là tìm hiểu cội nguồn của lí do vì sao pháp luật đã được hình thành trong lịch sử. Quan điểm duy vật lịch sử của Mác đã chỉ ra rằng khi dựa trên nền kinh tế tự nhiên nguyên thủy, pháp luật không thể xuất hiện. Bằng sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến xuất hiện chế độ tự hữu đã xóa bỏ nền kinh tế nguyên thủy. Đồng thời làm xuất hiện nền kinh tế mang tính sản xuất, xã hội và trao đổi với sự tiến bộ về tổ chức sản xuất. Trong điều kiện đó, xung đột về lợi ích ngày càng gat gắt đã kéo theo sự biến đổi căn bản về kết cấu quyền lực xã hội cũng như tính chất các quan hệ xã hội. Khoảng cách về sự phân hóa xã hội ngày càng lớn khi xuất hiện giai cấp và sự thống trị giai cấp. Việc quản lí thị tộc, bộ lạc bằng những hình thức, phương tiện như trước không còn hiệu lực và hiệu quả. Trong lúc đó, nhu cầu quản lí xã hội vẫn đặt ra, tầng lớp trên (giai cấp thống trị) bắt đầu đưa ra những quy định mới có lợi cho mình, từng bước loại bỏ những phương tiện cũ trong điều chỉnh, quản lí xã hội. Những quy định đó thể hiện ý chí, bảo vệ lợi ích cho giai cấp thóng trị và nhanh chóng được áp đặt vào xã hội, buộc xã hội thừa nhận, dần dần nó được hiểu đó là pháp luật. Như vậy, theo quan điểm Mác-Lênin thì việc xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã tạo ra sự khác biệt xã hội chính là nguyên nhân của mọi nguyên nhân đem lại sự xuất hiện pháp luật.

Với tính cách là công cụ quản lí xã hội, pháp luật sẽ không xuất hiện nếu nhu cầu của xã hội của con người không đặt ra. Lịch sử đã chứng minh, xã hội loài người không phải bao giờ cũng có sự hiện diện của pháp luật và không phải quan hệ xã hội nào cũng cần đến sự điều chỉnh của pháp luật. Vì lẽ đó, pháp luật cũng chỉ xuất hiện khi cơ sở kinh tế, xã hội đạt đến trình độ nhất định. Mặc dù pháp luật là sản phẩm của ý chí con người nhưng nó chỉ nảy sinh khi điều kiện khách quan chín muồi cho phép. Đó là:

Về điều kiện kinh tế, khi có sự chuyển đổi từ nền kinh tế tự nhiên nguyên thủy sang nền kinh tế mang tính sản xuất, xã hội và trao đổi. Sự chuyển đổi này chỉ diễn ra có một lần duy nhất trong lịch sử của xã hội loài người. Điều này đồng nghĩa với thực tế là pháp luật chỉ xuất hiện một lần như chính nó đã có trong lịch sử. Ngày nay, lực lượng sản xuất và quá trình sản xuất của nhân loại đã đạt đến mức xã hội hóa có tính toàn cầu. Dĩ nhiên, không thể có một nền kinh tế nguyên thủy cũng như quá trình chuyển đổi tương tự đó nữa.

Về điều kiện xã hội, khi xuất hiện sự phân chia xã hội thành những cực đối lập không điều hòa (tức là các giai cấp đối kháng). Mâu thuẫn giai cấp thực chất là biểu hiện về mặt xã hội của mâu thuẫn giữa tính chất, trình độ lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn giai cấp biểu hiện, tồn tại trên nhiều phương diện khác nhau của đời sống xã hội và không thể điều hòa được chính vì vậy cần phải có pháp luật để kìm giữ, kiểm soát trong vòng trật tự nhất định.

b. Con đường hình thành pháp luật

Con đường hình thành pháp luật thực chất là quá trình, cách thức tạo nên (làm ra) pháp luật trong lịch sử. Pháp luật không phải ngẫu nhiên mà có và càng không phải là hiện tượng được áp đặt từ ngoài vào xã hội mà nó là sản phẩm của ý thức con người. Đó là kết quả của quá trình nhận thức chủ quan về quy luật khách quan của đời sống xã hội. Theo Mác, “nhà lập pháp phải coi mình như là nhà khoa học tự nhiên, ông ta không làm ra luật, không phát minh ra chúng mà chỉ nêu chúng lên, biểu hiện những quy luật nội tại của những mối quan hệ tinh thần thành những đạo luật thành văn có ý thức”.( ) Không phải ngay từ khi ra đời, pháp luật đã được hoàn thiện cả về nội dung, hình thức mà nó từng bước được hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội và khả năng nhận thức của con người. Do đó, con đường hình thành pháp luật phản ánh quá trình vận động đa dạng, hàm chứa sâu sắc đặc tính của văn hóa, văn minh pháp lí nhân loại. Mỗi kiểu pháp luật, mỗi hệ thống pháp luật và từng quốc gia cụ thể đã tạo nên tính sống động cho quá trình hình thành phát triển của pháp luật từ xưa đến nay. Trong thực tiễn lịch sử, pháp luật hình thành bằng những con đường cơ bản sau: 

Một là giai cấp thống trị thông qua nhà nước chọn lọc, thừa nhận các quy tắc xử sự thông thường trong xã hội (như các quy tắc đạo đức, phong tục tập quán...) nâng lên thành các quy định pháp luật có tính quy phạm. Những quy tắc xử sự bất thành văn này đa dạng, được con người sử dụng từ lâu đời và dễ hiểu. Theo J. J. Rousseau, đó là thứ luật của nhân dân, “Luật này không khắc lên đá, lên đông mà khắc vào lòng công dân, tạo nên hiến pháp chân chính của quốc gia. Luật này mỗi ngày lại có thêm sức mới, khi các thứ luật khác đã già cỗi và tắt ngấm thì luật này thắp cho nó lại sáng lên hoặc bổ sung thay thế nó duy trì cả dân tộc trong tinh thần thể chế, lẳng lặng đưa sức mạnh của thói quen thay sức mạnh của quyền uy”.( ) Chẳng hạn, trong tổ chức công xã La Mã cổ đại đã có tập quán về quyền sở hữu tập thể đối với ruộng đất và nô lệ. Khi tổ chức công xã tan rã thì nội dung của tập quán trên cũng thay đổi dần dần và cuối cùng, theo Luật 12 bảng của La Mã, mỗi gia đình La Mã có quyền định đoạt đối với phần đất của mình còn nô lệ và súc vật trở thành tài sản riêng của mỗi gia đình giàu có. 

Hai là nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật. Việc chuyển hóa tập quán thành pháp luật chỉ đáp ứng được phần nào về nhu cầu đặt ra. Hơn nữa, tập quán nói chung có tính bảo thủ và cục bộ theo vùng, miền nên không phải lúc nào cũng thuận lợi trong điều chỉnh. Trên thực tế, do ngày càng có nhiều quan hệ xã hội mới xuất hiện nên hệ thống pháp luật của mỗi nước cần phải có các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành để điều chỉnh đa dạng và linh hoạt.

Ba là nhà nước thừa nhận các cách thức xử lí đã được đưa ra trong các quyết định áp dụng pháp luật (của tòa án hoặc của các cơ quan hành chính) nâng lên thành các quy định pháp luật có tính quy phạm. Thực chất đây là con đường hình thành nên hình thức tiền lệ pháp trong lịch sử. 


III. BẢN CHẤT CỦA PHÁP LUẬT


1. Khái niệm bản chất của pháp luật

Bản chất của pháp luật không chỉ là nội dung cơ bản trong nghiên cứu của khoa học mà còn là vấn đề thực tiễn pháp lí quan trọng ở bất kì chế độ xã hội nào. Do có nhiều quan niệm khác nhau về pháp luật nên việc lí giải về bản chất pháp luật cũng có sự khác nhau nhất định. Học thuyết Mác-Lênin giải thích một cách khoa học về bản chất pháp luật trong mối quan hệ có tính quyết định của cơ sở kinh tế xã hội. Đồng thời khẳng định pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát huy giá trị đích thực trong đời sống xã hội có giai cấp. Không có pháp luật tự nhiên, pháp luật ngoài giai cấp hoặc pháp luật “nhất thành bất biến”. Điều đó có nghĩa là với tính cách là một hiện tượng xã hội, xét về bản chất pháp luật hàm chứa tính giai cấp và tính xã hội sâu sắc.

Tính giai cấp là thuộc tính không thể thiếu của pháp luật. Nhận thức đầy đủ về thuộc tính này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đối với việc xem xét các giá trị xã hội ở từng kiểu pháp luật trên thực tế

Tính giai cấp của pháp luật thể hiện trước hết ở chỗ pháp luật phản ánh ý chí nhà nước của giai cấp thống trị. Pháp luật là nhân tố điều chỉnh về mặt giai cấp các mối quan hệ xã hội. Nhờ nắm trong tay quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị thể hiện ý chí của mình một cách hợp pháp hóa thành ý chí nhà nước. Ý chí đó được bảo đảm thực hiện một cách có hiệu lực, hiệu quả trên thực tế. Với nghĩa đó, pháp luật chính là phương tiện để thực hiện sự thống trị giai cấp hay bảo đảm chuyên chính giai cấp.

Pháp luật do cơ sở kinh tế của giai cấp cầm quyền quy định. Sự quy định của cơ sở hạ tầng đối với pháp luật cả về nội dung, hình thức và khuynh hướng của sự vận động. Trong lịch sử, mỗi kiểu pháp luật tương ứng với nền tảng kinh tế của một giai cấp thống trị. Khi nghiên cứu về pháp luật tư sản, Mác khẳng định: “Pháp luật tư sản chẳng qua là ý chí của giai cấp tư sản đề lên thành luật. Cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp tư sản quy định”.

Trong xã hội có giai cấp, sự tồn tại khách quan nhiều loại quy phạm xã hội khác nhau. Một số loại quy phạm của các giai cấp khác nhau đã đan xen phát huy giá trị như đạo đức, tôn giáo và pháp luật. Tuy nhiên, chỉ có một hệ thống quy phạm pháp luật của giai cấp cầm quyền thể hiện ý chí của giai cấp cầm quyền có hiệu lực và giá trị điều chỉnh một cách chính thống. Thực tế cho thấy không thể có quy phạm pháp luật của giai cấp khác có thể tồn tại và phát huy hiệu lực nếu không được giai cấp cầm quyền cho phép hoặc thừa nhận. Như vậy, bản thân sự tồn tại của hệ thống quy phạm pháp luật trên thực tế cũng phản ánh tính giai cấp sâu sắc. 

Pháp luật là phương tiện điều chỉnh về mặt giai cấp các mối quan hệ xã hội. Thông qua pháp luật, giai cấp cầm quyền tác động vào quan hệ xã hội và bảo đảm cho quan hệ xã hội vận động trong một trật tự nhất định theo ý chí của giai cấp đó. Điều này có nghĩa, thông qua pháp luật giai cấp cầm quyền hợp pháp hóa quan hệ thống trị của mình đối với xã hội bằng cách như thể chế và bảo vệ chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, xác lập quyền thống trị về chính trị, tư tưởng, văn háo đối với các giai cấp, lực lượng đối lập v.v.. Tuy nhiên, tính giai cấp là thuộc tính chung của bất kì kiểu pháp luật nào. Do đó, trên thực tế giới hạn của mỗi giai cấp cầm quyền là khác nhau nên mỗi kiểu pháp luật của giai cấp đó lại có những đặc điểm, cách biểu hiện thuộc tính này trong pháp luật là khác biệt nhau.

Về mặt bản chất, pháp luật do nhà nước đại diện chính thức của toàn xã hội ban hành nên nó hàm chứa tính xã hội. Bên cạnh việc thể hiện chính thống ý chí của giai cấp thống trị thì pháp luật còn ghi nhận ý chí và bảo vệ lợi ích cho các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Hơn nữa, với tính cách là một hiện tượng xã hội, pháp luật phải hàm chứa các giá trị xã hội tích cực, phổ biến thuộc về con người. Nội dung của pháp luật và cách thức ứng xử trong các hoạt động pháp lí luôn mang tính điển hình bởi nó là hiện thực của đời sống xã hội, được xã hội thừa nhận và sử dụng. Pháp luật chính là phương tiện để giải quyết các vấn đề thiết yếu của an sinh xã hội như: ăn, ở, lao động, học tập và giải quyết các vấn đề về dân số, môi trường v.v.. Thực tiễn đời sống xã hội trong nhiều trường hợp đặt ra những vấn đề cấp thiết cần phải huy động mọi tầng lớp dân cư, đối tượng cùng hợp lực, chung lòng giải quyết để bảo đảm sự ổn định xã hội. Khi đó, nếu pháp luật thực sự là phương tiện tạo nên sự liên kết, đồng thuận của quốc gia, dân tộc nó sẽ mang tính dân chủ, tính xã hội sâu sắc. Tương tự như tính giai cấp, xét về bản chất, tính xã hội là thuộc tính chung của pháp luật. Điều đó có nghĩa là ở mỗi kiểu pháp luật khác nhau sẽ hàm chứa tính xã hội và thể hiện những giá trị xã hội khác nhau trên thực tế.


2. Đặc điểm cơ bản của pháp luật

Đặc trưng của pháp luật không chỉ là yếu tố nhận diện để phân biệt nó với hiện tượng khác mà nó còn thể hiện bản chất của pháp luật trên thực tế. 

a. Pháp luật mang tính quyền lực nhà nước

Pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện nghĩa là nó chỉ được hình thành bằng con đường nhà nước. Với tư cách đặc biệt của mình, nhà nước là tổ chức hợp pháp, công khai và có quyền lực bao trùm toàn xã hội. Thông qua nhà nước, giai cấp thống trị thể hiện và hợp pháp hóa ý chí của mình một cách chính thống trên thực tế. Việc bảo đảm cho các quy định pháp luật được thực thi có hiệu quả chính là bảo đảm cho quyền lực nhà nước có thể tác động đến mọi chủ thể. Chính vì vậy, pháp luật không tách rời nhà nước, luôn mang tính quyền lực nhà nước trong quá trình tồn tại và phát huy giá trị đích thực của nó

b. Pháp luật mang tính bắt buộc chung

Pháp luật được xây dựng nên không phải vì cá nhân hay tổ chức đơn lẻ mà nó được sử dụng cho số đông các loại chủ thể gắn liền với những điều kiện cụ thể. Vì lẽ đó, pháp luật ghi nhận các giá trị xã hội, các phương thức ứng xử điển hình, phổ biến trong xã hội. Bằng những mệnh lệnh thức: cho phép, ngăn cấm hoặc bắt buộc, pháp luật tác động đến ý thức chủ thể, đòi hỏi chủ thể xác lập hoặc không được xác lập những hành vi nhất định. Bất cứ chủ thể nào rơi vào hoàn cảnh đã được pháp luật xác định đều phải xử sự theo quy định, yêu cầu của pháp luật. Như vậy, xử sự đúng với pháp luật không chỉ là yêu cầu pháp lí đối với chủ thể mà cũng là trách nhiệm của chính chủ thể đó trước các giá trị và phương thức ứng xử đã được xã hội tôn trọng và thừa nhận. Tính bắt buộc chung của pháp luật trước hết đòi hỏi nó phải được thống nhất trong nhận thức và thực thi trên thực tế. Tuy nhiên, do ý thức và trình độ văn hóa nói chung ở mỗi người khác nhau nên đòi hỏi đó là điều khó có được trong đời sống thực tế.

c. Pháp luật mang tính quy phạm phổ biến

Pháp luật là hệ thống quy tắc xử sự, đó chính là khuôn mẫu, thước đo, chuẩn mực pháp lí. Tính quy phạm của pháp luật không trừu tượng mà rất cụ thể trong việc xác định giới hạn hành vi của mọi chủ thể mà pháp luật tác động tới. Giới hạn đó được xác định cả về mặt nội dung và hình thức, thể hiện ở khả năng cho phép, cấm đoán hoặc bắt buộc với chủ thể. Đây là ranh giới để các chủ thể tự do lựa chọn cách thức xử sự cho phù hợp, vượt quá giới hạn đó là trái pháp luật.

d. Pháp luật có tính ý chí

Pháp luật là sản phẩm của ý thức con người, nó hoàn toàn không phải là hiện tượng được áp đặt ngoài vào xã hội. Pháp luật xuất hiện trên cơ sở nhu cầu của xã hội. Như vậy, xét về mặt bản chất, pháp luật thể hiện một cách chính thống ý chí của giai cấp, lực lượng cầm quyền bằng con đường nhà nước. Thông qua cơ chế điều chỉnh pháp luật, ý chí của giai cấp thống trị thực hiện sự tác động có mục đích, định hướng vào quan hệ xã hội. Đây chính là điểm khác biệt hoàn toàn giữa pháp luật với các loại phương tiện điều chỉnh xã hội khác.


e. Pháp luật mang tính hệ thống

Với tính cách là hiện tượng xã hội độc lập, pháp luật có tính hệ thống trong quá trình tồn tại và phát huy giá trị. Pháp luật là hệ thống quy phạm và có mối liên hệ hữu cơ với nhau. Mặc dù tồn tại trong nhiều loại văn bản khác nhau nhưng các quy phạm pháp luật tạo nên chỉnh thể có sự tương tác hữu cơ với nhau để phát huy hiệu lực của mỗi quy phạm. Tính hệ thống của pháp luật còn thể hiện trong quá trình thực hiện pháp luật trên thực tế.


3. Các mối quan hệ cơ bản của pháp luật


Sự hình thành, tồn tại và phát huy giá trị của pháp luật trên thực tế có mối quan hệ, tương tác hữu cơ với kinh tế và nhiều hiện tượng xã hội khác.

a. Quan hệ giữa pháp luật với kinh tế.

Trong mối quan hệ này, pháp luật phụ thuộc vào cơ sở kinh tế. Cơ cấu kinh tế quyết định cơ cấu pháp luật. Khi chế độ kinh tế có những thay đổi căn bản thì sớm hoặc muộn sẽ kéo theo sự thay đổi của pháp luật. Pháp luật là hình thức ghi nhận sự biến đổi của các quan hệ kinh tế, phản ánh trình độ phát triển của kinh tế. Do đó, để thực hiện các mục tiêu kinh tế các giai cấp thống trị phải sử dụng đến pháp luật. Nguyên lí về sự phù hợp giữa pháp luật với kinh tế đã được Lênin nêu lên là pháp luật không thể cao hơn cơ sở kinh tế và trình độ văn hóa, xã hội. Mặc dù vậy, pháp luật có tính độc lập tương đối nên nó tác động trở lại đối với sự phát triển của kinh tế theo hai chiều hướng tích cực hoặc tiêu cực. Khi pháp luật phản ánh chính xác và kịp thời sự vận động của các quan hệ kinh tế nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế. Ngược lại, khi không thỏa mãn điều kiện trên pháp luật sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế.

b. Quan hệ giữa pháp luật với chính trị

Chính trị được hiểu là mối quan hệ giữa giai cấp, đẳng cấp, tập đoàn người, các lực lượng xã hội thông qua nhà nước. Chính trị và pháp luật đều là những bộ phậm thuộc kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng quy định. Đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền giữ vai trò chỉ đạo đối với hệ thống pháp luật. Khi chính trị có những thay đổi căn bản thì kéo theo sự thay đổi của pháp luật. Hơn nữa, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, đường lối chính trị thể hiện trước hết ở các chính sách về kinh tế cần được cụ thể hóa thành các quy định pháp luật mới có khả năng thực thi trên thực tế. Không có pháp luật tách rời chính trị và cũng không có chính trị thuần túy ngoài pháp luật. Pháp luật là phương tiện để thực hiện các mục tiêu chính trị, củng cố và bảo đảm sự ổn định thể chế chính trị của giai cấp cầm quyền.

c. Quan hệ giữa pháp luật với đạo đức

Đạo đức là những quan niệm, quan điểm về những phạm trù xã hội như tốt, xấu, công bằng, danh dự, hạnh phúc... và sự đánh giá về những hành vi tương ứng của con người trong đời sống thực tiễn. Pháp luật và đạo đức là những hiện tượng thuộc kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng quy định. Pháp luật và đạo đức là những hiện tượng mang tính giai cấp sâu sắc. Đó là những chuẩn mực để đánh giá hành vi của con người. Tuy nhiên, pháp luật và đạo đức là những hiện tượng độc lập tương đối, do đó chúng có sự khác nhau nhất định trong sự tồn tại và phát huy giá trị. Pháp luật được hình thành từ nhà nước còn đạo đức được hình thành từ xã hội. Về hình thức, pháp luật thể hiện chủ yếu dưới dạng văn bản còn đạo đức lại chủ yếu được lưu truyền miệng từ đời này sang đời khác. Pháp luật thể hiện bằng các quy định có tính chặt chẽ còn đạo đức mang tính ước lệ, chung chung. Pháp luật được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp nhà nước còn đạo đức được đảm bảo bằng các biện pháp như dư luận xã hội, bài xích xã hội. Pháp luật là phương tiện cần thiết để ghi nhận và bảo vệ các quan hệ, giá trị đạo đức truyền thống. Ngược lại, đạo đức là nhân tố góp phần bảo đảm cho việc thực thi pháp luật có hiệu quả.

d. Quan hệ giữa pháp luật với nhà nước

Pháp luật và nhà nước là hai thành tố cơ bản của thượng tầng chính trị-pháp lí, nó luôn có mối quan hệ khăng khít với nhau. Pháp luật và nhà nước cùng có nguyên nhân ra đời, tồn tại, phát triển. Pháp luật do nhà nước ban hành luôn phản ánh những quan điểm, đường lối chính trị của lực lượng nắm quyền lực nhà nước và đảm bảo cho quyền lực đó được thực thi trong toàn xã hội. Với nghĩa đó, nhà nước không thể tồn tại thiếu pháp luật và pháp luật chỉ có thể phát sinh và có sức mạnh hiệu lực khi dựa trên nhà nước. Tóm lại, pháp luật và nhà nước là những hiện tượng không thể tách rời nhau, do đó khi xem xét bản chất của mỗi hiện tượng cần đặt chúng trong mối quan hệ qua lại với nhau và với đời sống thực tiễn. 


IV. CHỨC NĂNG CỦA PHÁP LUẬT


Chứng năng của pháp luật trả lời cho câu hỏi: “Pháp luật được sinh ra để làm gì?”. Chức năng của pháp luật là những tác động của pháp luật đến các quan hệ xã hội nhằm duy trì trật tự và đem lại lợi ích cho xã hội trong đó có lợi ích của giai cấp thống trị.

Pháp luật có các chức năng cơ bản là chức năng điều chỉnh, chức năng bảo vệ và chức năng giáo dục.


1. Chức năng điều chỉnh.

Bằng việc đặt ra các quy tắc mang tính khuôn mẫu, pháp luật xác định trước cho các chủ thể trong xã hội phải có những ứng xử tương ứng với những tình huống xảy ra trong xã hội theo ý chí của nhà nước với những quyền và nghĩa vụ pháp lí theo điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Nếu công lí là một đại lượng chỉ ra lợi ích chung của xã hội thì pháp luật được hiểu như mẫu số chung cho lợi ích của mỗi thành viên hay bộ phận của xã hội ấy. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội sao cho mỗi thành viên hay bộ phận – trong đó đáng kể nhất là giai cấp thống trị - đều thể hiện được lợi ích của mình, đồng thời vẫn bảo vệ được lợi ích chung của xã hội. Pháp luật ghi nhận và tác động vào các quan hệ xã hội được hình thành từ trước mang tính ổn định, phổ biến, đồng thời đặt ra các biện pháp đảm bảo cho sự phát triển bình thường của các quan hệ xã hội đó cũng như dự kiến trước những quan hệ xã hội xảy ra trong tương lai. Pháp luật vừa xác lập trật tự xã hội, vừa củng cố và bảo vệ trật tự xã hội đó. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội thông qua việc quy định về quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể trong xã hội dưới những hình thức như cho phép, bắt buộc, ngăn cấm hay khuyến khích, mô hình hóa những quy tắc hành vi cho các ứng xử trong xã hội qua đó mà tác động đến suy nghĩ, tình cảm và gây ra sự chuyển biến trong nhận thức về ý nghĩa xã hội của hành vi ở mỗi thành viên trong xã hội. Pháp luật có thể thêm vào chỗ thiếu, bớt đi ở những chỗ thừa để cân bằng giữa các bộ phận hay các lợi ích xã hội, chẳng hạn như đề ra chính sách thuế thu nhập, chính sách an sinh xã hội… Ngoài ra, pháp luật còn trực tiếp uốn nắn hành vi lệch lạc so với chuẩn mực mà pháp luật đã xác định để khôi phục lại trật tự xã hội theo mục đích cuả nhà nước kèm theo các biện pháp cưỡng chế cần thiết. Mặt khác, các quan hệ xã hội luôn luôn thay đổi, khi đó, pháp luật cũng phải có sự thay đổi tương ứng. Điều đó không chỉ nằm trong các quan hệ ở một nhà nước mà nhất là trong xã hội hiện đại.


2. Chức năng bảo vệ.

Trong bất kì xã hội nào có giai cấp thì quan hệ lợi ích cũng có tính chất chi phối các quan hệ xã hội còn lại. Lợi ích của giai cấp thống trị chỉ có thể thực hiện được khi xã hội có sự ổn định. Cũng chính vì thể mà pháp luật phải ra đời với mục đích duy trì trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Việc duy trì lợi ích của giai cấp thống trị phải gắn liền với việc duy trì sự tồn tại của tầng lớp bị trị và vì thế mà mức độ mâu thuẫn, tính chất đối kháng giai cấp cũng chỉ có thể giữ được ở mức khi mà các giai cấp không tiêu diệt lẫn nhau, các lợi ích khác nhau có thể xung đột mà không triệt tiêu nhau. Công việc này đòi hỏi pháp luật phải quy định ra một trật tự, trong đó có sự khẳng định vị trí thống trị của một giai cấp gắn với những lợi ích trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và sự phục tùng của giai cấp bị trị. Điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu như có các biện pháp đảm bảo kèm theo. Nó mang theo một hệ quả đương nhiên là pháp luật sinh ra cũng là để bảo vệ trật tự xã hội. Việc bảo vệ trật tự xã hội không bó hẹp trong các quy định thuần túy và các biện pháp cưỡng chế. Nhiều khi những quy định của pháp luật chỉ dừng lại ở mức độ răn đe, phòng ngữa đối với những nguy cơ vi phạm cũng đã có tác dụng bảo vệ cho trật tự xã hội ở mức nào đó.


3. Chức năng giáo dục.

Pháp luật ra đời là kết quả tất yếu của quá trình tiến bộ xã hội. Việc nhà nước đặt ra các quy tắc hay các khuôn mẫu ứng cử không chỉ để “nắn” hành vi của con người một cách máy móc theo ý chí của giai cấp thống tị mà còn để tác động vào suy nghĩ, tình cảm của con người, qua đó mà gây nên những sự thay đổi nhất định trong xử sự của họ. Sự tác động của pháp luật lên các yếu tố tâm lí, ý thức sẽ tạo ra thói quen cân nhắc trước khi thực hiện một xử sự nào đó. Nhờ đó sự tác động của pháp luật tói con người không chỉ có ý nghĩa mang lại lợi ích trực tiếp cho chính họ và xã hội mà còn có một ý nghĩa giáo hóa đối với bản thân con người, qua đó con người tự điều hòa được lợi ích của cá nhân với lợi ích của xã hội, đồng thời cũng thấy được trách nhiệm đối với chính bản thân và trách nhiệm trước xã hội. Xét ở khía cạnh khác, bản thân pháp luật đã là kết quả của sự sáng tạo của con người trong quá trình  đấu tranh sinh tồn, phản ảnh sự hiện hữu của kinh nghiệm sống được truyền từ đời này qua đời khác. Có thể nói ở mức độ nào đó, pháp luật còn được coi là đạo đức cho nên con người thấy rằng mình cần phải tuân theo những chuẩn mực đạo đức đó. Chính lợi ích mà pháp luật đem lại cho xã hội loài người trong quá khứ đã là một minh chứng cho sự cần thiết của pháp luật như là một hệ quả tất yêu của tri thức nhân loại mà con người trên nền tảng đạo đức nhất định, vì thế pháp luật còn là một cơ sở quan trọng trong việc định hướng giá trị cho con người, là phương tiện chứa đựng các giá trị mà con người trong quá trình tồn tại và phát triển đã sáng tạo ra. Với ý nghĩa đó, pháp luật trở thành công cụ đăng tải hay là hình thức pháp lí của đạo đức. Điều đó làm cho con người ngày càng trở nên văn minh hơn, ứng xử của con người ngày càng trở nên chuẩn mực và hợp lí hơn.

Có một số ý kiến cho rằng pháp luật còn có một số các chức năng khác như chức năng đồng thuận xã hội, chức năng phản ánh, chức năng quy định hay chức năng ổn định trật tự xã hội… Tuy nhiên, những điều đó có thể xem như kết quả cũng như biểu hiện sự tác động của pháp luật thông qua các chức năng nêu trên. Với việc thực hiện các chức năng này, pháp luật mang lại những giá trị xã hội to lớn là công bằng, nhân đạo và nhân văn tương ứng với các mục đích mà nhân loại hướng tới là chân, thiện, mĩ (các giá trị trường tồn).


V. KIỂU PHÁP LUẬT.


Kiểu pháp luật là tổng thể những dấu hiệu (đặc điểm) cơ bản đặc thù của pháp luật, thể hiện bản chất giai cấp và những điều kiện tồn tại và phát triển của pháp luật trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

Việc phân định kiểu pháp luật dựa vào học thuyết Mác  - Lênin về các hình thái kinh tế-xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù dùng để chỉ xã hội ở giai đoạn nhất dịnh, có quan hệ sản xuất đặc trưng phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và trên đó hình thành một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Pháp luật là yếu tố quan trọng của kiến trúc thượng tầng chính trị pháp lí nên nó chịu sự quy định của các điều kiện kinh tế - xã hội, do vậy mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau thì sẽ có một kiểu pháp luật tương ứng. Lịch sử tồn tại của pháp luật là lịch sử của sự thay thế của các kiểu pháp luật theo quy luật kiểu pháp luật sau tiến bộ hơn ra đời thay thế cho kiểu pháp luật trước, mặc dù có thể ở từng nhà nước hay khu vực có những biểu hiện khác nhau. Tương ứng với các hình thái kinh tế - xã hội có giai cấp là chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và chế độ xã hội chủ nghĩa thì ó pháp luật chủ nô, pháp luật phong kiến, pháp luật tư sản và pháp luật xã hội chủ nghĩa, trong đó ba kiểu pháp luật trước tồn tại trong xã hình thái kinh tế-xã hội có quan hệ xã hội được đặc trưng bởi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột sức lao động nên quan hệ giai cấp là quan hệ đối kháng và nó quy định tính chất giai cấp đạm nét trong nội dung của pháp luật với mục đích chủ yếu là phục vụ cho lợi ích giai cấp thống trị. Còn kiểu pháp luật xã hội chủ nghĩa được đặc trưng bởi chế độ công hữu hướng tới lợi ích công cộng nên nó mang bản chất mới. Đây là kiểu pháp luật thể hiện ý chi của đông đảo nhân dân lao động trong xã hội, hướng tới việc xóa bỏ quan hệ giai cấp và thủ tiêu hoàn toàn chế độ người bóc lột người, qua đó thực hiện sự bình đẳng và tự do cho con người. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng khi xét đến một kiểu pháp luật nào đó, ta phải suy xét đến tất cả những yếu tố cũng như cơ sở kinh tế - xã hội, kết cấu giai cấp, bản chất của nhà nước đang cùng tồn tại và những điều kiện lịch sử cụ thể của nó.

Việc nghiên cứu về kiểu pháp luật sẽ cho ta thấy được cơ sở nhận thức về bản chất của pháp luật ở những chế độ xã hội nhất định đồng thời cũng chỉ ra được quy luật vận động và phát triển của của pháp luật gắn liền với quy luật vận động của xã hội, qua đó xây dựng được hệ thống pháp luật phù hợp với trình độ phát triển của xã hội theo xu hướng ngày càng tiến bộ hơn, nhất là việc giải phóng con người, xây dựng xã hội tốt đẹp hơn.



VI. HÌNH THỨC PHÁP LUẬT.


Hình thưc pháp luật là khái niệm chỉ ra ranh giới giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác, là phương thức hay dạng tồn tại cũng như quy mô, cách tổ chức các yếu tố cấu tạo nên hệ thống pháp luật. Theo đó, hình thức của pháp luật được xem xét dưới hai góc độ là cách thức tổ chức các yếu tố cấu tạo nên pháp luật và phương thức tồn tại cua pháp luật và tương ứng với nó là hình thức bên trong và hình thức bên ngoài.


1. Hình thức bên trong của pháp luật.


Hình thức bên trong của pháp luật là sự liên kết, sắp xếp của các bộ phận, các yếu tố cấu tạo nên hệ thống pháp luật. Hình thức bên trong của pháp luật xác định vị trí, vai trò của các yêu tố hay các bộ phận của pháp luật bao gồm các chính sách pháp luật, nguyên tắc pháp lí, các quy phạm pháp luật, chế định pháp luật và ngành luật. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó chính sách pháp luật và các nguyên tắc pháp lý giữ vai trò chỉ đạo và định hướng cho toàn bộ hệ thống  pháp luật. Hình thức bên trong phản ánh khá cơ bản bản chất của pháp luật, vì các chính sách pháp luật của một nhà nước thể hiện đầu tiên trong các quan điểm hay nguyên tắc pháp lí định hướng cho nội dung của pháp luật. Trên cơ sở định hướng của các nguyên tắc này, toàn bộ hệ thống pháp luật sẽ được hình thành với những biểu hiện cụ thể ở các cấp độ khác nhau từ ngành luật, chế định pháp luật đến các quy phạm pháp luật cụ thể.

Ngành luật được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh một lĩnh vực quan hệ xã hội nhất định với phương pháp điều chỉnh tương ứng. Để nhận biết một ngành luật, có thể dựa vào đối tượng điều chỉnh của nó là loại quan hệ xã hội nào, với những tính chất gì và dựa vào cách thức được sử dụng để tác động lên các quan hệ xã hội ấy.

Chế định pháp luật là một tập hợp các quy phạm pháp luật để điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có tính chất giống nhau hoặc có quan hệ mật thiết với nhau.
Quy phạm pháp luật là quy tắc chung mà các thành viên trong xã hội phải coi là chuẩn mực để tuân theo trong những phạm vi xác định, là tế bào cấu tạo nên hệ thống pháp luật.


2. Hình thức bên ngoài của pháp luật


Những yếu tố cấu tạo nên pháp luật được thể hiện dưới những hình thức cụ thể chỉ ra pháp luật được hình thành bằng cách nào đồng thời cho biết căn cứ pháp lí trực tiếp để áp dụng pháp luật được gọi là hình thức bên ngoài của pháp luật. Đó là những phương thức tồn tại và cách thức biểu hiện ra bên ngoài của pháp luật, chứa đựng các quy phạm pháp luật.

Hình thức bên ngoài của pháp luật cho biết pháp luật hình thành từ đâu (hay chỉ ra kết quả của các con đường hình thành của pháp luật), có biểu hiện như thế nào, mặt khác nó cũng cho ta biết khi nào thực hiện và áp dụng pháp luật thì phải dựa vào căn cứ pháp lí nào đồng thời cũng chỉ ra ranh giới giữa pháp luật với các quy phạm xã hội khác. Nói cách khác, nhờ hình thức bên ngoài của pháp luật, người ta có thể “nhìn” thấy pháp luật và chúng được biểu hiện dưới các dạng chủ yếu là tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật.

Tập quán pháp là hình thức của pháp luật tồn tại dưới dạng những phong tục, tập quán đã được lưu truyền trong đời sống xã hội, được nhà nước thừa nhận thành những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc đối với xã hội.

Có thể nói đây là hình thức pháp luật cổ điển nhất, ra đời rất sớm cùng với sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy. Các quy phạm xã hội thể hiện dưới dạng các phong tục, tập quán đã điều chỉnh các quan hệ xã hội trước đó còn tiếp tục phát huy tác dụng trong xã hội có giai cấp lại phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị chính là cơ sở để hình thành nên các quy phạm pháp luật. Tập quán pháp có ưu điểm là có nguồn gốc trực tiếp từ chính cuộc sống nên nó gần gũi với các đối tượng điều chỉnh trong cuộc sống hàng ngày, dễ tạo ra thói quen tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, do phần lớn tập quán được hình thành một cách tự phát nên thiếu cơ sở khoa học. Mặt khác, nó mang tính cục bộ nên tính quy phạm phổ biến cũng sẽ bị hạn chế và vì có hình thức truyền miệng nên việc áp dụng nó có thể không thống nhất. Thông thường, tập quán pháp vừa hình thành chậm, vừa có tính bảo thủ và rất khó thay đổi nên nó không phải hình thức có thể đáp ứng linh hoạt các yêu cầu của cuộc sống. Hình thức này tồn tại khá phổ biến ở pháp luật chủ nô và phong kiến vì thời kì này chữ viết chưa phổ biến, mặt khác việc sử dụng văn bản (nếu có) cũng rất khó khăn vì chất liệu thể hiện chúng rất đắt và số người có thể sử dụng được cũng không nhiều.

Bên cạnh đó còn có cách gọi khác đối với hình thức này là tục lệ pháp (droit coutumier) như quan điểm của giáo sư Vũ Văn Mẫu.

Tiền lệ pháp là hình thức pháp luật tồn tại dưới dạng các phán quyết của các chủ thể có thẩm quyền khi giải quyết các vụ việc cụ thể được nhà nước thừa nhận làm khuôn mẫu cho việc giải quyết các vụ việc tương tự về sau.
Sự phát triển kịp thời mau chóng của đời sống kinh tế xã hội luôn đòi hỏi sự điều chỉnh kịp thời. Tuy nhiên, không phải bao giờ nhà nước cũng kịp ban hành các quy phạm mới để đáp ứng nhu cầu đó nên tiền lệ pháp đã hình thành. Do được hình thành nhanh, thủ tục gọn lại có tính xác định cụ thể nên hiện nay tiền lệ pháp được khá nhiều quốc gia sử dụng, đặc biệt là ở các nước thuộc hệ thống pháp luật Common Law. Tuy nhiên, do có nguồn gốc từ hoạt động của các cơ quan không có chức năng xây dựng hay sáng tạo pháp luật nên tính chất pháp lí của chúng không cao. Mặt khác, sự phụ thuộc vào các chi tiết của vụ việc trước sẽ làm hạn chế phần nào tính linh hoạt của chủ thể áp dụng do tính bất di bất dịch của của tình huống mẫu trong các vụ việc đã được giải quyết. Ngược lại, cũng có thể xảy ra trường hợp kh áp dụng tiền lệ pháp, người ta có thể suy diễn làm các tình tiết của phán quyết mẫu không còn đúng như ý nghĩa ban đầu khi đối chiếu với các tình tiết của vụ án cần áp dụng. Tiền lệ pháp được sử dụng phổ biến hơn trong các quan hệ dân sự, đặc biệt trong các quan hệ thương mại do xu thế hội nhập của nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, việc sử dụng hình thức pháp luật này nhiều hay không còn phụ thuộc truyền thống của các nền văn minh pháp lí, trong đó có các vấn đề về trình tự và thủ tục tố tụng là vấn đề khá phức tạp mà người áp dụng có thể gặp phải. 

Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung, do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục và hình thức luật định, được nhà nước bảo đảm thực hiện và được sử dụng nhiều lần trong cuộc sống. 
Văn bản pháp luật có thể được thể hiện như văn bản chúng ta thường thấy ngày nay nhưng cũng có thể được thể hiện trên bia đá, đồng, đất nung hay có thể là da súc vật,… khi mà giấy viết chưa được phát minh. 

Văn bản quy phạm pháp luật có các đặc điểm chủ yếu sau:

Là văn bản có chứa đựng các quy tắc xử sự chung. Đây là dấu hiệu để có thể phân biệt với các văn bản pháp lý cá biệt như các quyết định áp dụng  pháp luật.

Do các chủ thể có thẩm quyền ban hành theo trình tự thủ tục được pháp luật quy định. Các chủ thể này có thể là một cơ quan nhà nước (Quốc hội, Chính phủ), một nhà chức trách (Thủ tướng, Bộ trưởng) hoặc liên kết ban hành (nghị quyết liên tịch giữa Chính phủ với cơ quan trung ương của tổ chức xã hội)…

Có tên gọi cụ thể theo quy định của pháp luật như Hiến Pháp, luật, nghị định…

Được nhà nước bảo đảm thực hiện bằng nhiều biện pháp như tuyên truyền, cổ động, tổ chức thực hiện… và đặc biệt là các biện pháp cưỡng chế nhà nước.

Được áp dụng nhiều lần trong cuộc sống cho nhiều vụ việc hay những đối tượng khã nhau trong thời gian văn bản có hiệu lực.

Với những ưu điểm như dễ phổ biến, dễ kiểm soát, đơn giản khi ban hành hoặc sửa đổi lại mang tính pháp lí cao do được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật với tên gọi cụ thể, văn bản quy phạm pháp luật là hình thức pháp luật chủ yếu được ưu tiên sử dụng trong xã hội hiện đại. Tu nhiên, văn bản quy phạm pháp luật có tính khái quát cao, nhiều khi phải ban hành văn bản hướng dẫn nên giảm mất tính tích cực của chúng, mặt khác chi phí xây dựng khá tốn kém cũng là một hạn chế của văn bản quy phạm pháp luật.

Ngoài các hình thức chủ yếu đã nêu trên, pháp luật còn được thể hiện ở một số hình thức khác. Chẳng hạn, các tín điều trong giáo lí của một số tôn giáo được nhà nước thừa nhận thành pháp luật. Thời kì phong kiến, mệnh lệnh của vua chúa ban ra cũng có thể trở thành luật (khẩu luật), đây cũng được coi là hình  thức của pháp luật.

Cần chú ý khái niệm rất gần với khái niệm hình thức pháp luật là nguồn của pháp luật. Trong phạm vi nhất định, hình thức pháp luật còn được hiểu là nguồn của pháp luật vì nguồn của pháp luật là những yếu tố hay cơ sở để tạo nên hệ thống pháp luật. Nó bao gồm nguồn về nội dung và nguồn về hình thức. Khái niệm nguồn có nội hàm rộng hơn khái niệm hình thức pháp luật vì nguồn của pháp luật còn có những yếu tố khác như các quan điểm khoa học của các nhà khoa học chẳng hạn. Nguồn về nội dung tương ứng với hình thức bên trong chỉ ra pháp luật được hình thành từ đâu, nguồn về hình thức là cái chứa đựng các quy phạm pháp luật mà chủ yếu được thể hiện ở hình thức bên ngòai như tập quán pháp, tiền lệ pháp hay văn bản quy phạm pháp luật.


3. Hiệu lực của các hình thức pháp luật.


Để có thể thực hiện và áp dụng pháp luật một cách hợp pháp, cần phải xác định hiệu lực của các hình thức pháp luật. Mỗi hình thức lại có cách xác định hiệu lực khác nhau nhưng nói chung thì hiệu lực của chúng được hiểu là giá trị áp dụng của chúng được xác định trong phạm vi nhất định theo quy định của pháp luật.

Các phạm vi xác định hiệu lực của các hình thức này bao gồm phạm vi về thời gian, về không gian và theo đối tượng tác động của chúng.

Hiệu lực của tập quán pháp được xác định về thời điểm phát sinh về mặt thời gian khi một tập quán chính thức được nhà nước thừa nhận và về mặt không gian ở nơi mà tập quán ấy tồn tại trước khi nó được pháp luật hóa. Để trở thành một tập quán pháp thì tập quán nguồn được luật hóa phải tồn tại một thời gian tương đối dài. Thông thường nó sẽ chấm dứt hiệu lực khi đã có một văn bản pháp luật – cũng điều chỉnh loại quan hệ mà tập quán ấy đã điều chỉnh phát sinh hiệu lực. Việc thừa nhận đối với một tập quán thành tạp quán pháp theo nguyên tắc chung khi việc áp dụng pháp luật đòi hỏi chưa có quy phạm pháp luật nào giải quyết mà tập quán đó điều chỉnh loại vụ việc này nhưng không vi phạm các nguyên tắc chung của pháp luật và các chủ thể trong các quan hệ không tự đưa ra được cách thức để giải quyết. Tuy nhiên, hiệu lực của tập quán pháp có thể được xác định bởi những cách thức khác nhau tùy từng quốc gia. Thông thường các tập quán sẽ có hiệu lực trong phạm vi (thời gian, không gian, đối tượng) nhất định khi chúng được các chủ thể có thẩm quyền áp dụng để giải quyết vụ việc cụ thể thực tế nào đó. Ở một số quốc gia người ta có thể sưu tầm, hệ thống hóa và công bố chính thức các tập quán thành Luật tập quán để áp dụng.

Đối với tiền lệ pháp, việc xác định hiệu lực dễ dàng hơn bởi thủ tục thừa nhận nó khá rõ ràng và cụ thể. Hiệu lực của một tiền lệ được xác định khi các phán quyết mẫu – sau khi có hiệu lực với vụ việc cần giải quyết, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận và thường được đăng công khai trong những tập án lệ. Ví dụ: Ở Anh, một phán quyết của tòa án khi được Nghị viện thừa nhận sẽ có giá trị bắt buộc đối với các cấp xét xử (trừ chính Nghị viện) khi đối chiếu và áp dụng các vụ việc khác, hay ở Việt Nam thời Nguyễn, sau khi xét xử một vụ việc và đã ra một bản án, vua Minh Mạng có chỉ dụ rằng:” Từ nay phàm các quan văn, quan võ nào có tội giáng bổ đi hiệu lực thì cứ chiếu theo lệ ấy”.

Do không mang tính khái quát nên án lệ có hiệu lực theo loại vụ việc với phạm vi không gian và đối tượng chịu sự tác động hẹp. Một tiền lệ pháp sẽ không còn hiệu lực khi nó được đưa vào quá trình pháp điển hóa khi xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật. Một số nước theo pháp luật án lệ đã pháp điển hóa thành bộ luật thương mại mẫu để áp dụng thay thế cho các án lệ.

Hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật là giá trị tác động lên các quan hệ xã hội của văn bản quy phạm pháp luật được xác định trong phạm vi thời gian, không gian và đối tượng nhất định. Như vậy, muốn áp dụng pháp luật phải xác định hiệu lực của văn bản quy phạm pháp luật theo các giới hạn về thời gian, không gian và đối tượng tác động.

Hiệu lực về thời gian của văn bản quy phạm pháp luật là giá trị tác động của văn bản lên các quan hệ xã hội xảy ra được xác định trong phạm vi thời gian kể từ khi phát sinh cho đến khi chấm dứt hiệu lực của văn bản đó.

Thời điểm phát sinh hiệu lực của văn bản thường được xác định trực tiếp trong chính văn bản nhưng có thể dựa vào sự quy định của một văn bản pháp lý khác của chủ thể có thẩm quyền. Nó có thể là văn bản công bố hay văn bản hướng dẫn thi hành. Sự hướng dẫn của các loại văn bản kiểu này thường có thể là chi tiết, cụ thể, trực tiếp chỉ ra thời điểm có hiệu lực của văn bản cần xác định.

Ngoài các cách xác định trên đây, một số văn bản được xác định hiệu lực theo sự quy định chung của pháp luật. Việc quy định như vậy của pháp luật là nhằm để khắc phục tình trạng các văn bản không tự xác định hoặc không có văn bản nào hướng dẫn việc thi hành như đã từng xảy ra trước đây làm cho các chủ thể tiến hành thực thi pháp luật không có căn cứ để xác định hiệu lực của chúng.

Khi một văn bản chấm dứt hiệu lực thì nó sẽ không được áp dụng đối với các vụ việc phát sinh từ thời điểm đó nữa. Thời điểm chấm dứt hiệu lực của văn bản có thể là mặc nhiên khi đến thời điểm mà văn bản đó đã tự quy định là hết hiệu lực hoặc không còn đối tượng áp dụng. Cũng có thể văn bản hết hiệu lực khi có một văn bản thay thế. Văn bản thay thế đó có thể là văn bản cùng loại với văn bản bị thay thế hoặc là văn bản có giá trị pháp lí cao hơn.

Văn bản còn có thể được xác định là hết hiệu lực khi có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ văn bản đó. Văn bản có thể không chấm dứt toàn bộ hiệu lực trong trường hợp nó chỉ bị sửa đổi, thay thế, hoặc bãi bỏ từng phần. Phần còn lại của nó vẫn tiếp tục có giá trị áp dụng như những trường hợp thông thường khác.

Các văn bản hướng dẫn hay quy định chi tiết đối với văn bản hết hiệu lực cũng hết hiệu lực theo văn bản đó.

Văn bản bị tạm ngưng hiệu lực khi có quyết định của chủ thể có thẩm quyền cho tạm dừng việc áp dụng văn bản đó cho đến khi có quyết định khôi phục lại hiệu lực của chúng. Nhưng cũng có thể chúng bị mất hiệu lực luôn sau khi bị xác định là văn bản trái pháp luật. Khi đó, thường sẽ có một quyết định hủy bỏ hoặc bãi bỏ của chủ thể có thẩm quyền.
Văn bản còn có hiệu lực trở về trước (hiệu lực hồi tố). Hiệu lực trở về trước của văn bản được hiểu là giá trị tác động của văn bản đối với những vụ việc xảy ra trước khi văn bản đó có hiệu lực. Việc lấy văn bản mới để áp dụng cho các vụ việc như vậy phải có những  điều kiện là nó phải được pháp luật quy định và việc áp dụng đó không gây ra tình trạng bất lợi cho người bị áp dụng.

Hiệu lực theo không gian của văn bản quy phạm pháp luật là giá trị tác động của văn bản được xác định theo phạm vi lãnh thổ, vùng hay khu vực.

Hiệu lực theo không gian của văn bản thường được văn bản tự xác định hoặc được xác định theo thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản. Theo đó, thông thường các văn bản do cơ quan nhà nước trung ương ban hành có hiệu lực trong phạm vi toàn lãnh thổ. Còn các văn bản do cơ quan nhà nước ở địa phương nào ban hành sẽ có hiệu lực trên phạm vi địa phương đó.

Tuy nhiên, việc xác định hiệu lực về mặt không gian của văn bản không chỉ thuần túy dựa vào những căn cứ trên mà cần phải chú ý đến mối quan hệ giữa nó với các văn bản khác hoặc xem xét trong mối quan hệ với đối tượng tác động.

Trường hợp chia tách hoặc sáp nhập các đơn vị hành chính lãnh thổ thì hiệu lực của văn bản thường được xác định theo phần lãnh thổ trước khi được chia tách hoặc sáp nhập cho đến khi đơn vị hành chính mới ban hành văn bản thay thế.

Hiệu lực theo đối tượng tác động là giá trị tác động của văn bản lên các quan hệ xã hội, trong đó xác định những loại chủ thể nào tham gia vào những quan hệ đó.

Khi xác định hiệu lực theo đối tượng tác động cần xem xét nó trong mối quan hệ với hiệu lực của văn bản về không gian tác động và các văn bản pháp lý khác, nhất là các văn bản có hiệu lực pháp lí cao hơn. Thông thường, hiệu lực theo đối tượng tác động của văn bản được xác định trực tiếp trong chính văn bản đó. Nếu không, hiệu lực theo đối tượng tác động được xác định trên cơ sở thẩm quyền của cơ quan đã ban hành văn bản. Các văn bản do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành thường có hiệu lực đối với hầu hết các chủ thể đang hoạt động trong phạm vi lãnh thổ. Còn các văn bản do các cơ quan nhà nước ở địa phương nào ban hành thì có hiệu lực đối với các chủ thể trong phạm vi địa phương đó. Trong một số trường hợp đặc biệt thì hiệu lực theo đối tượng tác động của văn bản có thể bị thay đổi mà chủ yếu là thu hẹp phạm vi đối tượng do sự hạn chế của văn bản có hiệu lực cao hơn, nhất là các điều ước quốc tế mà quốc gia ban hành văn bản đó là thành viên.
Trong một số trường hợp, sự thay đổi một chế độ xã hội bởi một lực lượng cầm quyền khác có thể dẫn tới sự vô hiệu toàn bộ hoặc một bộ phận quan trọng của hệ thống pháp luật của từng quốc gia với tất cả  các hình thức pháp luật. Tuy nhiên điều đó ít xảy ra trên thực tế trong thời đại ngày nay mà đặc biệt là đối với các điều ước quốc tế với tư cách là các văn bản pháp luật được các quốc gia kí tên hoặc phê chuẩn.



No comments:

Post a Comment