03/05/2014
Bài tập học kỳ dân sự 1 - Người không được quyền hưởng di sản - lý luận và thực tiễn
A. ĐẶT VẤN ĐỀ

Thừa kế di sản chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hưởng thừa kế. Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân, đã được ghi nhận tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992 và Điều 631 BLDS năm 2005. Nguyên tắc quyền bình đẳng về thừa kế là một trong những nguyên tắc của quyền thừa kế, cụ thể Điều 632 BLDS năm 2005 quy định: “Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”. Tuy nhiên, trong xã hội có một số trường hợp cá biệt người thừa kế vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của mình, có những hành vi trái pháp luật, trái với đạo đức xã hội, trái với thuần phong mĩ tục của nhân dân Việt Nam, xâm phạm đến danh dự, uy tín, tính mạng, sức khỏe của bố, mẹ, anh, em, vợ, chồng,... Những người này không còn xứng đáng được hưởng thừa kế và pháp luật đã tước quyền đó của họ. Việc này được thể hiện ở Điều 643 BLDS năm 2005 với quy định về những người không được quyền hưởng di sản. Trong bài luận này, chúng ta sẽ cùng đi sâu phân tích về “người không được quyền hưởng di sản” theo pháp luật Việt Nam.

B. NỘI DUNG

I. Một số vấn đề lý luận

1. Khái quát chung về thừa kế

Quyền thừa kế, theo nghĩa rộng, là một chế định pháp luật bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ về việc dịch chuyển tài sản từ người chết cho những người còn sống khác theo ý chí của họ được thể hiện trong di chúc hoặc theo ý kiến của nhà nước được thể hiện trong các quy phạm pháp luật. Theo nghĩa hẹp, quyền thừa kế được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan của chủ thể có quyền để lại di sản thừa kế hoặc có quyền hưởng di sản thừa kế của người chết để lại theo ý chí của người đó hoặc theo quy định của pháp luật.

Thừa kế là một chế định pháp luật dan sự, là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho người khác theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định, đồng thời quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ và phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế 

Di sản thừa kế là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết, quyền về tài sản của người đó . Điều 634 BLDS năm 2005 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Tài sản riêng của người chết là tài sản mà người đó có được từ các căn cứ xác lập quyền sở hữu hợp pháp. Tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác có thể là được tặng cho chung, thừa kế chung, cùng góp vốn để sản xuất kinh doanh hoặc là tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Thời điểm và địa điểm mở thừa kế. Điều 633 BLDS năm 2005 đã có quy định về hai khái niệm này. Theo đó, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trong trường hợp tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày được tòa án xác định trong quyết định tuyên bố một người là đã chết. Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di sản; còn nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn di sản.

Người thừa kế là người được hưởng di sản của người chết để lại theo chỉ định trong di chúc hoặc theo quy định của pháp luật . Điều 635 có quy định về điều kiện của người thừa kế như sau: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”

Việc thừa kế của những người có quyền hưởng di sản của nhau mà chết cùng thời điểm. Điều 641, BLDS năm 2005 đã có quy định về việc này, cụ thể như sau: “Trong trường hợp những người có quyền hưởng di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi là chết cùng thời điểm do không xác định được người nào chết trước thì họ không được hưởng di sản thừa kế của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị”.

Từ chối nhận di sản. Theo quy định tại Điều 642 BLDS năm 2005 thì người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác

2. Quy định người không có quyền hưởng di sản của pháp luật Việt Nam trước BLDS năm 2005.

Trước năm 1945 ở nước ta, pháp luật của chế độ thực dân phong kiến cũng có những quy định về người thừa kế không có quyền hưởng di sản của người quá cố (họ được coi là người thừa kế bất xứng). Điều 313 Bộ dân luật Bắc Kì và Điều 306 Dân luật Trung Kì đều dự liệu những trường hợp người thừa kế không có quyền hưởng di sản đó là: thứ nhất, người đã bị người lập di chúc tuyên bố không xứng đáng được hưởng di sản của người lập di chúc. Thứ hai là người có hành vi xâm phạm đến tính mạng người để lại di sản hoặc với danh nghĩa chính phạm hoặc đồng phạm hoặc tòng phạm. Thứ ba là người đã trưởng thành biết được hành vi cố ý giết người mà không tố giác với Tòa án, nhưng nếu kẻ sát hại là cha, mẹ, anh, em, vợ, chồng hoặc người thân thuộc của người thừa kế thì không bị coi là có lỗi vì đã không bị coi là tố giác và cuối cùng là người có hành vi vu khống để lại di sản hoặc vu khống ông, bà, cha, mẹ của người đó và người bị vu khống đã bị phạt về trọng tội hay thường tội. Cũng về vấn đề trên, theo án lệ ở miền Nam nước ta trước năm 1945 thì người vợ góa bị coi là bất xứng không có quyền hưởng di sản, phần di sản đó sẽ do con hoặc cháu của người đó được hưởng nếu người vợ góa có các hành vi như là:không để tang chồng; sống thiếu đạo đức và đã công khai gây tai tiếng cho gia đình chồng; đã có nhân tình hoặc đã lạm dụng quyền hưởng di sản mà không có biên bản kê khai.

Sau cách mạng tháng Tám, nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, chiếu theo Sắc lệnh ngày 10/10/1945 về tạm giữ các điều lệ hiện hành ở Việt Nam để thi hành cho đến khi ban hành những bộ luật của chế độ mới của toàn cõi Việt Nam, ở nước ta trong giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 vẫn áp dụng những quy định của pháp luật thời thực dân phong kiến quy định về thừa kế, chỉ loại bỏ những quy định trái với những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Từ năm 1959 đến năm 1981, trên thực tế ở nước ta, mặc dù đã có một số thông tư của ngành Tòa án hướng dẫn giải quyết tranh chấp về quyền thừa kế (ví dụ Thông tư số 594...) nhưng không có một nội dung nào về những người thừa kế không có quyền hưởng di sản.

Cơ sở pháp lí để tước quyền thừa kế của một số người chỉ bắt đầu được quy định tại Thông tư 81/TANDTC ngày 24/7/1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về quyền thừa kế. Cụ thể, tại thông tư 81/ TANDTC có quy định về người không được hưởng thừa kế:

“III A 4 Người không được thừa kế 

- Người đã giết người để thừa kế hoặc đã đối xử quá tàn tệ với người đó thì không được thừa kế di sản của người đó.

- Người đã giết người thừa kế cùng hàng với mình để chiếm đoạt toàn bộ di sản hoặc nhằm làm tăng kỷ phần cho bản thân thì không được thừa kế di sản của cả hai người ấy (người để thừa kế và người bị giết)”

Ngày 30/08/1990 Pháp lệnh thừa kế được ban hành. Vấn đề người thừa kế không có quyền hưởng di sản được quy định tại Điều 7. Cụ thể là:

“Điều 7: Những người thừa kế không có quyền hưởng di sản

1- Những người thừa kế sau đây không có quyền hưởng di sản:
a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản;
b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế khác có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép người có tài sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người có tài sản.

2- Những người nói tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người có tài sản thể hiện ý chí vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”.

Điều này đã được cụ thể hóa tại Khoản 2 Nghị quyết số 02/HĐTP về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp lệnh thừa kế.

Nội dung của Điều 7 Pháp lệnh thừa kế nói trên đã được giữ nguyên và được thể hiện tại Điều 646 BLDS năm 1995 và nay là BLDS năm 2005 tại Điều 643

3. Những người không được quyền hưởng di sản theo quy định tại Điều 643 BLDS năm 2005

Điều 643 BLDS năm 2005 có quy định về “người không được quyền hưởng di sản” vì họ không còn xứng đáng hưởng thừa kế. Cụ thể như sau: 

“1. Những người sau đây không được quyền hưởng di sản:

a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự và nhân phẩm của người đó;
b) Người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí người để lại di sản....\

2. Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”.

Theo đó, người không được quyền hưởng di sản được quy định tại Điều 643 BLDS năm 2005 bao gồm cả người thừa kế theo pháp luật và người thừa kế theo di chúc. Như vậy, người thừa kế không được quyền hưởng di sảnkhi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

Thứ nhất: Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự nhân phẩm của người đó.

Hành vi “xâm phạm đến tính mạng” được hiểu là hành vi cố ý tước đoạt tính mạng người để lại di sản trái pháp luật. Hành vi tước đoạt tính mạng người khác được hiểu là hành vi có khả năng gây ra cái chết cho người để lại di sản, chấm dứt sự sống của người đó. Hành vi đó là hành vi khách quan của tội giết người, phải là hành vi tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật (để phân biệt với những hành vi tước đoạt tính mạng của người khác trong trường hợp phòng vệ chính đáng hay trong trường hợp thi hành án tử hình).

Điều 643 BLDS năm 2005 chỉ quy định người có hành vi cố ý giết người để lại di sản và đã bị kết án về hành vi cố ý đó thì không có quyền hưởng thừa kế của người để lại di sản chứ không quy định một người chỉ bị kết án về hành vi vô ý làm chết người để lại di sản cũng bị tước luôn quyền đó. Như vậy, trong trường hợp trên thì việc xem xét hình thức lỗi của người có hành vi xâm phạm đến tính mạng người để lại di sản có ý nghĩa quyết định đến việc người đó có được hưởng di sản hay không.

Hành vi “ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó”. Người có hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản và đã bị kết án về một trong các hành vi đó thì bị tước quyền thừa kế di sản của người đã bị ngược đãi, bị hành hạ sau khi chết. Hành vi ngược đãi là hành vi đối xử tàn tệ, nhẫn tâm người thân của mình trái với đạo đức, luân lý xã hội. Người có hành vi trên có thể là người có quan hệ lệ thuộc với nạn nhân và người bị hành hạ, ngược đãi thường là người bị lệ thuộc trong quan hệ gia đình, họ tộc. Hành vi đối xử tàn ác có tính chất hành hạ, gây đau đớn về thể xác, tinh thần với người bi hại... Người có hành vi ngược đãi, hành hạ người để lại di sản phải xác định là hành vi cố ý. Xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản thể hiện ở hành vi làm nhục, bịa đặt hoặc loan tin những điều biết rõ là bịa đặt nhằm xúc phạm danh dự người để lại di sản 

Một người có quyền dân sự nhưng đã có hành vi gây hậu quả trái pháp luật là nguyên nhân dẫn đến quyền đó bị triệt tiêu. Người thừa kế có hành vi cố ý giết người để lại di sản, hành hạ, ngược đãi người để lại di sản, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản và đã bị Tòa án kết án về những hành vi cố ý đó thì bị tước quyền thừa kế của người để lại di sản. Các tội này đã được quy định tại Chương XII (các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người) và Điều 151 (tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình) Bộ luật hình sự năm 1999.

Như vậy, ta có thể kết luận: điều kiện chính đặt ra trong trường hợp này đó là phải có một bản án có hiệu lực pháp luật. Pháp luật luôn bảo vệ quyền lợi chính đáng cho mọi người nhưng những ai có hành vi cố ý tước đoạt tính mạng của người để lại di sản một cách trái pháp luật thì pháp luật quy định họ không có quyền thừa kế di sản của người để lại di sản. Với quy định “hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe” điều đó cũng có nghĩa rằng nếu một người chỉ bị kết án về hành vi vô ý làm chết người thì không bị tước quyền thừa kế. Bên cạnh đó, người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc không bị kết án thì không bị ràng buộc bởi điều luật này. Người có hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ, đối xử tàn tệ hoặc đày đọa về thể xác, tinh thần người để lại di sản thì bị tước quyền hưởng thừa kế di sản người bị ngược đãi, hành hạ đó. Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người để lại di sản đã biết hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi để đạt được mục đích của mình thì không có quyền nhận di sản thừa kế của người để lại di sản. 

Thứ hai là “người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản”.

Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa người để lại di sản với người thừa kếtheo pháp luật khi người để lại di sản còn sống. Nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau khi còn sống giữa cá nhân với cá nhân đã không những là thông lệ của xã hội mà còn được pháp luật quy định. Phổ biến nhất là quan hệ nuôi dưỡng giữa cha mẹ với các con, các con đã trưởng thành với cha mẹ già yếu không có khả năng lao động hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự (người để lại di sản) hoặc có người để lại di sản không đầy đủ. Nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc nhau giữa cha mẹ và các con, giữa ông bà với cháu đã được quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 và hiện nay là Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.

Nghĩa vụ cấp dưỡng gắn liền với nhân thân một cá nhân và không thể chuyển dịch cho người khác và cũng không thể phân chia như các nghĩa vụ khác. Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì người thừa kếđược xác định là người có nghĩa vụ cấp dưỡng người để lại thừa kế trong các trường hợp sau đây:

- Người để lại thừa kế là cha, mẹ của họ. Tại khoản 2 Điều 36 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định: “Con có nghĩa vụ và có quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt là khi cha mẹ đau ốm, già yếu, tàn tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ.” Theo quy định này thì bổn phận của con là phải chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ trong mọi tình trạng, bất luận tình trạng kinh tế, sức khỏe của cha mẹ như thế nào.

- Người để lại thừa kế là con của họ. Khoản 1 Điều 36 Luật Hôn nhân và gia đình đã có quy định về nghĩa vụ nuôi dưỡng của cha mẹ đôi với con cái, đó là: “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình” 

- Người để lại thừa kế là anh, chị, em ruột của họ. Theo quy định tại Điều 48 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 thì “Anh, chị, em có bổn phận thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ nhau; có nghĩa vụ và quyền đùm bọc, nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con”

- Người để lại thừa kế là ông bà nội, ông bà ngoại của họ. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 cũng đã xác định “Cháu có bổn phận kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà nội, ông bà ngoại” (khoản 2 Điều 47). Điều luật này ta thấy không quy định nghĩa vụ mà chỉ là bổn phận. Tuy vậy nếu ông, bà không có khả năng lao động và không có con cháu phụng dưỡng thì cháu cũng phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng (nếu có đủ điều kiện).

- Người để lại thừa kế là cháu ruột của họ mà họ là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại. Ông bà cũng có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu trong trường hợp: “Trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không có người nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 48 của Luật này thì ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu”(khoản 1 Điều 47 Luật hôn nhân gia đình năm 2000). 

- Người để lại thừa kế là vợ hoặc chồng của họ. Luật Hôn nhân và Gia đình không xác định nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa vợ và chồng mà chỉ xác định nghĩa vụ cấp dưỡng nhau khi ly hôn, nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ nhau. Tuy nhiên, vợ chồng có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau khi một bên không còn khả năng lao động và còn cấp dưỡng nhau kể cả khi đã ly hôn khi mà bên kia yêu cầu và được Tòa án chấp nhận. 

Người thừa kế đã vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản, bị Tòa án kết án về hành vi đó thì bị tước quyền thừa kế

Theo Nghị quyết số 02/HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh thừa kế: Người có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau theo quy định tại Điều 19, 20, 27 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 trong khoảng ba năm trước khi người để lại di sản chết nếu có khả năng thực hiện nuôi dưỡng mà không thực hiện làm cho người cần được nuôi dưỡng lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm đến tính mạng thì không có quyền hưởng di sản của người đó.

Nghĩa vụ nuôi dưỡng được pháp luật quy định một cách chính thức là một nghĩa vụ pháp lý chứ không phải là nghĩa vụ thuần túy đạo đức. Vì thế, nghĩa vụ nôi dưỡng, chăm sóc nhau giữa cha mẹ và con cái, giữa vợ và chồng, giữa các anh chị em ruột với nhau đã được quy định tại Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000. Người thừa kế đã vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng người để lại di sản là vi phạm pháp luật, sẽ bị tước quyền thừa kế và có khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 152 BLHS năm 1999: “Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của pháp luật mà cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp sưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”.

Nghĩa vụ cấp dưỡng nhau giữa những người thân thuộc do pháp luật quy định nếu vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng là vi phạm pháp luật. Do vậy, người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản mà bị kết án về hành vi đó sẽ không có quyền thừa kế di sản của người để lại di sản.

Thứ ba: người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng. 

Cũng giống như ở trường hợp thứ nhất, trong trường hợp này, người không được quyền huởng di sản là người đã có hành vi “cố ý xâm phạm đến tính mạng người thừa kế khác” do mưu đồ chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản thừa kế mà người thừa kế khác có quyền được hưởng. Trong trường hợp này cũng cần một bản án có hiệu lực pháp luật liên quan đến việc phạm tội để đương sự không có quyền hưởng di sản. Ngoài ra, việc đưa ra áp dụng quy tắc này còn tùy thuộc vào việc có chứng minh được hay không động cơ phạm tội nhằm hưởng một phần hay toàn bộ phần di sản mà người thừa kế có tính mạng bị xâm hại được hưởng nếu còn sống. Theo quy định trên thì một người bị kết án về hành vi cố ý giết hại người thừa kế khác với mục đích chiếm đoạt di sản của người thừa kế đó có quyền hưởng thì bị tước quyền thừa kế. Nhưng một người chỉ bị kết án về hành vi cố ý giết hại người thừa kế khác mà không nhằm mục đích chiếm đoạt di sản của người thừa kế đó có quyền hưởng thì không bị tước thừa kế. Hoặc là một người chỉ bị kết án vì hành vi vô ý làm chết người thừa kế khác cũng không bị tước quyền thừa kế.

Mặt khác, người thừa kế theo nguyên tắc tại Điều 635 BLDS năm 2005 phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế, phải thỏa mãn một trong ba mối quan hệ là căn cứ xác định phạm vi những người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Do vậy mà “những người thừa kế khác” ở đây chỉ có thể là những người thừa kế cùng được hưởng di sản theo di chúc chứ không phải là người thừa kế theo pháp luật. Hành vi cố ý giết người xảy ra sau khi người để lại di sản chết, người có hành vi cố ý giết người nhằm mục đích chiếm đoạt phần di sản thừa kế của người thừa kếbị giết có quyền được hưởng bị tước đoạt quyền được thừa kế của người để lại di sản

Thứ tư. Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc xác lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình sau khi chết của một cá nhân chính là quyền tự định đoạt tài sản mà mình là chủ sở hữu khi còn sống và được pháp luật bảo hộ. Do vậy, trước khi chết, người có tài sản có quyền để lại di chúc chỉ định cho những người thừa kế. Di chúc là sự thể hiện ý chí của người có tài sản và một di chúc hợp pháp phải thỏa mãn tất cả các quy định của pháp luật về hình thức, người lập di chúc. Ý chí của người lập di chúc phải hoàn toàn tự do, tự nguyện, tự định đoạt tài sản trong khi minh mẫn. Những hành vi cản trở người khác để lại di chúc là hành vi trái pháp luật, vì thế họ sẽ bị tước quyền thừa kế của người để lại di sản. Những hành vi cản trở này được pháp luật quy định là:

- Hành vi cưỡng ép, ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc. Đây là hành vi tác động đến tâm lý, tinh thần của người để lại di sản buộc họ phải lập một di chúc để định đoạt tài sản trái với ý nguyện đích thực của họ. Hành vi cưỡng ép, ngăn cản người để lại di sản cũng có thể do người thừa kế theo pháp luật hoặc do người ngoài diện thừa kế theo pháp luật thực hiện. Vì vậy, nếu người có hành vi lừa dối là người thừa kế theo pháp luật thì Tòa án sẽ tuyên bố tước quyền thừa kế theo pháp luật của người đó đối với di sản mà người chết để lại; nếu người có hành vi lừa dối là người ngoài diện thừa kế theo pháp luật và có tên trong di chúc thì Tòa án chỉ cần tuyên bố di chúc vô hiệu và di sản chia cho người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Nếu bị cưỡng ép hoặc bị ngăn cản trong việc lập di chúc thì người có di sản vẫn có thể sử dụng quyền trất di sản của mình, còn nếu trong việc cưỡng ép, ngăn cản có dấu hiệu bạo lực nghiêm trọng thì có thể áp dụng quy tắc trong trường hợp thứ nhất

- Hành vi lừa dối người để lại di sản nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản: lừa dối đối với người để lại di sản là việc cung cấp một thông tin sai sự thật làm cho người để lại di sản tin vào đó mà lập một di chúc trái với ý nguyện thực của mình. Di chúc được lập dưới sự tác động của hành vi này thì di chúc đó không phải là di chúc hợp pháp được quy định tai Điều 652 BLDS năm 2005 nên di chúc này sẽ bị tuyên là vô hiệu và phần di sản này sẽ chia thừa kế theo pháp luật. Theo quy định tại điều luật trên thì hành vi lừa dối phải chứa đựng động cơ nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản thì người có hành vi lừa dối mới bị tước quyền hưởng di sản. Riêng đối với người có hành vi lừa dối người di chúc, giả mạo di chúc mà không nhằm mục đích hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người lập di chúc thì áp dụng các biện pháp chế tài thông thường như bồi thường thiệt hại và người này vẫn được hưởng thừa kế của người chết vì họ có hành vi trái pháp luật nhưng không nhằm mục đích hưởng một phần hay toàn bộ di sản

- Hành vi giả mạo di chúc là hành vi của một người đã lập một di chúc theo ý chí của mình nhằm thay thế di chúc của người để lại di sản hoặc để cho những người khác tưởng lầm rằng người chết có để lại di chúc. Hành vi sửa di chúc là hành vi làm thay đổi nội dung của di chúc do người để di sản lập ra, trái với ý chí của người đó khi còn sống. Hủy di chúc là hành vi của một người đã làm tiêu hủy di chúc của người để lại di sản và di chúc bị tiêu hủy đó không còn tồn tại dưới hình thức khách quan nữa. Những hành vi này đều nhằm mục đích hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Đây là hành vi xâm phạm đến ý chí tự nguyện của người lập di chúc và xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa kế khác. Vì thế, người có hành vi này sẽ bị tước quyền thừa kế của người để lại di sản.

Tóm lại, những người không được quyền hưởng di sản theo khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 không có quan hệ thừa kế với người để lại di sản. Họ không được hưởng thừa kế, dù theo di chúc hay theo pháp luật. Tuy nhiên, nếu người để lại di sản đã biết được hành vi của người đó nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc thì họ được hưởng thừa kế theo khoản 2 Điều 643 BLDS năm 2005: “Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”. Quy định này tùy thuộc người để lại di sản, họ có toàn quyền quyết định di sản và tha thứ cho người có hành vi trái pháp luật. Song dù muốn tha thứ người có di sản chỉ có thể loại trừ các hệ quả của tình trạng không có quyền hưởng di sản thừa kế trong thừa kế theo di chúc. Nếu không có di chúc cho họ hưởng thì họ không có quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Nếu di chúc đã lập trước khi người thừa kế thực hiện hành vi nói trên, thì người đã lập di chúc cũng phải thể hiện bằng văn bản về việc vẫn cho người thừa kế hưởng di sản. 

II. Thực tiễn về quy định “người không được quyền hưởng di sản”

Trong đời sống xã hội , có nhiều trường hợp người thừa kế vi phạm khoản 1 Điều 643 BLDS và bị tước quyền thừa kế. Quy định “người không có quyền hưởng di sản” này hoàn toàn phù hợp với đạo lý, phong tục tập quán của nhân dân ta. Tuy nhiên, trong điều luật trên có một số điểm chưa đầy đủ, rõ ràng, cụ thể dẫn đến việc áp dụng giải quyết các tranh chấp về thừa kế không thống nhất.

Thứ nhất, tại điểm b khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 có quy định về người không được quyền hưởng di sản: “vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản”. Theo quy định này, trong trường hợp người thừa kế đã bị kết án về hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản thì người đó sẽ không được quyền hưởng di sản. Tuy nhiên, việc xác định được một người có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sảnkhông thì còn phải xác định điều kiện, khả năng kinh tế của người thừa kế đó có đủ khả năng để có thể nuôi dưỡng được người để lại di sản hay không. Hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng cha, mẹ phải được tòa án xác định là nghiêm trọng. Việc xác định thế nào là vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng của Tòa án còn nhiều bất cập, thiếu thống nhất bởi chưa có văn bản nào hướng dẫn một cách đầy đủ, cụ thể về việc thế nào được coi là vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng. Do vậy, Tòa án chính là nơi xác định một người có vi phạm nghĩa vụ đối với người để lại di sảnhay không? Có bị tước quyền thừa kế hay không? Từ đó dẫn đến sự thiếu thống nhất trong các quy định của Tòa án. Mặt khác, trong luật cũng chưa xác định rõ về đối tượng người thừa kế phải nuôi dưỡng người để lại di sản. Vậy người thừa kế là cháu có nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản là cô, dì, chú, bác hay không và ngược lại cô, dì, chú, bác là người thừa kế có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu là người để lại di sản hay không. Nếu có thì phải nuôi dưỡng trong điều kiện nào? Do đó, trong điều luật này cần phải quy định rõ ràng hơn về vấn đề để tránh tình trạng hiểu sai.

Thứ hai, Cần xem xét một hành vi nguy hiểm khác của người thừa kếlà hành vi che dấu tội giết người để lại di sản. Khi người thừa kếbiết rõ là người khác giết người để lại di sản nhưng không tố giác hành vi đó mà còn thực hiện hành vi che dấu tội phạm. Hành vi này có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng dù trong trường hợp nào thì người thừa kế này cũng đã vi phạm pháp luật nghiêm trọng và vi phạm cả đạo đức xã hội nên không xứng đáng được nhận thừa kế của người để lại di sản. Vì vậy, khoản 1 Điều 643 cũng nên quy định thêm về vấn đề này.

Thứ ba, tính chất tương đối của tình trạng không có quyền hưởng di sản: một người ở trong tình trạng không có quyền hưởng di sản của một người khác chỉ bị loại ra khỏi một quan hệ thừa kế xác định chứ không mất năng lực thừa kế tổng quát. Vậy, người không có quyền hưởng di sản đối với một người vẫn bảo toàn quyền lợi của mình trong tất cả các di sản khác, trừ trường hợp cũng do hành vi đó, người thực hiện hành vi ở trong tình trạng không có quyền hưởng di sản của một người khác hay chuyển qua người trung gian. Ví dụ, A bị kết án về hành vi giết người là cha ruột của hắn (không nhằm mục đích chiếm đoạt phần di sản mà cha A có quyền hưởng từ mẹ của A) theo Điều 93 BLHS năm 1999. Vậy theo Điều 643 BLDS năm 2005 thì A không có quyền hưởng di sản của cha, ở hàng thừa kế thứ nhất chỉ có mẹ A. Di sản được giao trọn vẹn cho mẹ A. Khi mẹ A chết, ở hàng thừa kế chỉ còn A, vậy thì A được hưởng trọn vẹn di sản do người chết để lại trong đó có cả phần di sản của cha A mà đáng lẽ ra là A không có quyền hưởng thừa kế. Do vậy, phải chăng cần có quy định rõ ràng, cụ thể hơn về hạn chế quyền nhận di sản của người giết NTK cùng hàng để chiếm đoạt phần thừa kế của người đó

Thứ tư, trong trường hợp người thừa kế chết cùng thời điểm với người để lại di sản, nhưng khi người thừa kế đó còn sống đã bị kết án về một trong các hành vi được quy định tại khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 thì cháu có được quyền thế vị không và nếu được hưởng thế vị thì được hưởng trong trường hợp nào. Thiết nghĩ cần phải có quy định, tránh tình trạng không rõ ràng trong việc này.

Thứ năm, ở điểm a khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 quy định người thừa kế không có quyền hưởng di sản thì phải bị Tòa kết án. Nhưng thực tế, không phải mọi hành vi vi phạm đều được đưa ra xét xử và có quyết luận của Tòa án, nhất là các hành vi bạo lực gia đình, nó sẽ thường bị giấu kín do nhiều nguyên nhân. Do vậy, chỉ những hành vi được Tòa án xác định bằng một bản án, có lẽ sẽ là điểm thiếu sót của quy định pháp luật.

Thứ sáu, về quy định tại khoản 2 Điều 643 BLDS năm 2005: “Những người quy định tại khoản 1 Điều này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”. Như vậy, nếu hành vi trái pháp luật của người thừa kế xảy ra trước, người để lại di sản biết được nhưng vẫn lập di chúc cho người thừa kế đó hưởng di sản thì người đó vẫn có quyền hưởng di sản. Tuy nhiên, nếu người để lại di sản có lập di chúc cho người đó hưởng di sản nhưng lại không biết hành vi của người thừa kế đó thì người này không có quyền hưởng di sản. Trong tình huống này, việc xác định người lập di chúc biết hay không biết hành vi trái pháp luật của người thừa kếtheo di chúc là một yếu tố quan trọng trong việc xác định người thừa kế có hành vi đó có được hưởng di sản hay không? Trong thực tế, việc chứng minh được rằng người để lại di sản khi lập di chúc đã biết hành vi vi phạm pháp luật của người thừa kế không dễ dàng. Nên chăng pháp luật cần quy định rằng trong di chúc, người lập di chúc cần viết rõ ràng việc mình đã biết hành vi vi phạm của người thừa kế nhưng vẫn cho người đó được hưởng di sản

Thứ bảy, tại điểm d khoản 1 Điều 643 BLDS quy định là chỉ tước quyền thừa kế đối với người giả mạo, sửa chữa di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản mà không có quy định khi họ có hành vi như vậy không nhằm mục đích cho người khác hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản thì có bị tước quyền hưởng di sản hay không cho một người thừa kế nào đó được hưởng di sản. Nên chăng cũng cần bổ sung thêm quy định tước quyền thừa kế của những đối tượng trên vì họ đã có hành vi trái pháp luật và làm trái với ý chí của người để lại di sản

Thứ tám, trong thực tiễn để có thể áp dụng được điểm c, điểm d khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 thì phải chứng minh được mục đích của người vi phạm là nhằm để hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế mà mình đã cố ý xâm phạm đến tính mạng (trong trường hợp điểm c khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 ) được hưởng hoặc là trái với ý chí của người để lại di sản khi mình có hành vi lừa dối cưỡng ép, ngăn cản việc lập di chúc, giả mạo, sửa chữa hay là hủy di chúc (trong trường hợp điểm d khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005). Việc chứng minh này có ý nghĩa trong việc một người có được hưởng di sản thừa kế hay không và yêu cầu cần có trình độ và sự công tâm của những người xét xử.

Hiện nay, nước ta đang trên đà hội nhập với khu vực và quốc tế. Kinh tế phát triển cùng với sự hội nhập văn hóa của các dân tộc trên thế giới sẽ ảnh hưởng đến lối sống của con người, quan hệ đối xử với những người thân trong gia đình, có thể bị tha hóa, trong xã hội xuất hiện những hành vi vi phạm đạo đức nghiêm trọng. Vì vậy, pháp luật cần phải dự liệu trước và mở rộng hơn nữa các đối tượng không được hưởng di sản. Về phía Tòa án cần phải trau dồi kiến thức luật pháp, sự công tâm khi xét xử để tránh việc xác định vụ việc sai lệch, gây ảnh hưởng không nhỏ tới quyền lợi và nghĩa vụ của những người thừa kế, dẫn tới khiếu kiện lâu dài ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội cũng như tình cảm của những người thân trong gia đình. Đặc biệt là cần nâng cao sự hiểu biết pháp luật của người dân nói chung và pháp luật về thừa kế nói riêng, tránh sự hiểu sai lệch về việc xác định một người không có quyền hưởng thừa kế hay không.

C. KẾT LUẬN

Chế định quyền thừa kế trong BLDS đã kết tinh những thành tựu của khoa học pháp lý nhân loại góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy những phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp đã ăn sâu vào tiềm thức và lưu truyền qua bao đời của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay các tranh chấp về thừa kế có xu hư¬ớng ngày càng gia tăng và trở nên phức tạp hơn. Đặc biệt, một trong những khó khăn vướng mắc lớn khi áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp thừa kế chính là vấn đề xác định sao cho đúng về người thừa kế, một người có quyền hưởng di sản không những ảnh hưởng lớn đến ý chí của người để lại thừa kế mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của người thừa kế. Chính vì xác định không đúng, không rõ ràng đã làm cho các vụ việc phức tạp giải quyết gặp nhiều khó khăn dẫn tới kiếu kiện ảnh hưởng không tốt đến truyền thống đạo đức tốt đẹp vốn có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, cần phải hoàn thiện hơn nữa quy định về “người không có quyền hưởng di sản”.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Bộ luật Dân sự năm 2005.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (Tập 1),Nxb.Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
3. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam (Tập 1), Nxb.Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2009
4. Phùng Trung Tập, Luật thừa kế Việt Nam, Nxb.Hà Nội, Hà Nội, 2008
5. Nguyễn Minh Tuấn, Pháp luật thừa kế Việt Nam - những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Lao động xã hội, 2009.
6. Phạm Văn Tuyết, Thừa kế- quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2007
7. Phùng Trung Tập, Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2004
8. Trần Thị Huệ, “Di sản thừa kế”, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
9. Phan Thị Kim Chi, “Diện và hàng thừa kế theo quy định của BLDS năm 2005”, Luận án thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
10. Các website: 
http://www.chinhphu.vn
http://moj.gov.vn
http://www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com/

Nếu muốn download không mất phí, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

No comments:

Post a Comment