17/08/2014
Đặc điểm chung của các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999 - Bình luận Bộ luật Hình sự năm 1999 - Tập 3
I - NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA CÁC TỘI XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 

So với Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, thì Bộ luật hình sự năm 1999 chỉ quy định thêm 1 Điều tương ứng với một tội danh mới (không kể điều luật quy định về hình phạt bổ sung), nhưng thực chất là tách Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 thành hai điều luật (Điều 126 và Điều 127) quy định hai tội danh riêng biệt mà Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hai hành vi phạm tội trong cùng một điều luật. Tuy nhiên, đối với các tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt trong các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định nhiều hơn, và chi tiết hơn. Tên tội danh, các khái niệm, các thuật ngữ cũng được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn xét xử, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của nước ta và quy định của các ngành luật khác.

Các hình phạt bổ sung trước đây Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chung trong một điều luật (Điều 128), nay quy định ngay trong từng điều luật, nếu xét thấy tội phạm đó cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Việc quy định này, không chỉ phản ảnh trình độ lập pháp cao hơn, mà còn có tác dụng to lớn trong việc áp dụng hình phạt bổ sung đối với người phạm tội, tránh được việc bỏ quên hoặc áp dụng không chính xác hình phạt bổ sung đối với người phạm tội. Quy định thêm một số hình phạt bổ sung để đáp ứng yêu cầu phòng ngừa loại tội phạm này như: hình phạt cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định mà Điều 128 Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định hình phạt bổ sung đối với người phạm tội “buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật”, mà Bộ luật hình sự năm 1985 có quy định hình phạt bổ sung “cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm” đối với tội này. Lý do bỏ hình phạt bổ sung đối với hành vi buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật không được ban dự thảo Bộ luật hình sự năm 1999 giải thích, nhưng theo chúng tôi việc không quy định hình phạt “cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định” đối với người phạm tội là không thoả đáng, nhất là đối với người phạm tội buộc cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật.

- Đối với tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 123), được cấu tạo lại thành bốn khoản, trong đó khoản 4 quy định hình phạt bổ sung, riêng khoản 2 của điều luật quy định thêm 3 tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt, đó là: “có tổ chức; đối với người thi hành công vụ; phạm tội nhiều lần; đối với nhiều người”, ngoài tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” đã quy định tại khoản 2 Điều 119 Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này.

- Đối với tội xâm phạm chỗ ở của công dân (Điều 124), được cấu tạo lại thành ba khoản, trong đó khoản 3 quy định hình phạt bổ sung, riêng khoản 2 của điều luật quy định thêm 2 tình tiết là dấu hiệu định khung hình phạt, đó là: “có tổ chức; gây hậu quả nghiêm trọng”, ngoài tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” đã quy định tại khoản 2 Điều 120 Bộ luật hình sự năm 1985 về tội phạm này.

- Đối với tội xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác (Điều 125) được cấu tạo thành ba khoản, trong đó khoản 3 quy định hình phạt bổ sung; khoản 1 là cấu thành cơ bản được cấu tạo lại, bổ sung một số tình tiết định tội (cụ thể thêm một số hành vi ) như: “chiếm đoạt telex, fax hoặc các văn bản khác được truyền đưa bằng phương tiện viễn thông và máy tính” mà Điều 121 Bộ luật hình sự 1985 về tội phạm này chưa quy định; đặc biệt, cấu thành cơ bản của tội phạm này, nhà làm luật quy định các dấu hiệu làm ranh giới giữa hành vi tội phạm với hành vi chưa phải là tội phạm. Ranh giới đó là: nếu hành vi xâm phạm bí mật an toàn thư tín, điện thoại, điện tín chưa bị xử lý kỷ luật hoặc chưa bị xử phạt hành chính thì chưa bị coi là tội phạm. Khung hình phạt của khoản 1 Điều 125 cũng được bổ sung thêm loại hình phạt tiền là hình phạt chính. Riêng khoản 2 của điều luật được cấu tạo hoàn toàn mới mà Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1985 không có, với 5 tình tiết định khung, đó là: “phạm tội có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; phạm tội nhiều lần; gây hậu quả nghiêm trọng; tái phạm”. Ngoài hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhật định, khoản 3 của điều luật quy định thêm hình phạt tiền là hình phạt bổ sung. So với Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội phạm này thì Điều 125 nặng hơn, vì khoản 2 của điều luật có mức cao nhất của khung hình phạt là hai năm tù (Điều 121 chỉ có một năm tù).   

- Đối với tội xâm phạm quyền bầu cử, quyền ứng cử của công dân (Điều 126) là hành vi quy định tại khoản 1 cuả  Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 và được cấu tạo lại thành ba khoản, trong đó khoản 3 là hình phạt bổ sung; khoản 1 là cấu thành cơ bản, ngoài những hành vi đã được quy định tại khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985, nhà làm luật quy định thêm một số tình tiết là dấu hiệu định tội như: “Hành vi cưỡng ép; xâm phạm  quyền ứng cử”; khung hình phạt của khoản 1 Điều 126 nhẹ hơn khoản 1 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985; riêng khoản 2 của điều luật là cấu thành mới (cấu thành tăng nặng) quy định ba tình tiết định khung hình phạt, đó là: “có tổ chức; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; gây hậu quả nghiêm trọng”.

- Đối với tội làm sai lệch kết quả bầu cử (Điều 127) là hành vi quy định tại khoản 2 cuả  Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985 và cũng được cấu tạo lại thành ba khoản, trong đó khoản 3 là hình phạt bổ sung; khoản 1 là cấu thành cơ bản, nhà làm luật không quy định thêm tình tiết nào mới là dấu hiệu định tội; khung hình phạt của khoản 1 Điều 126 nhẹ hơn khoản 2 Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1985; riêng khoản 2 của điều luật là cấu thành mới (cấu thành tăng nặng) quy định hai tình tiết định khung hình phạt, đó là: “có tổ chức; gây hậu quả nghiêm trọng”.

- Đối với tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật (Điều 128), chỉ có một vài thay đổi, đó là: thêm đối tượng bị xâm phạm, ngoài người lao động còn có cả cán bộ, công chức, đặc biệt nhà làm luật quy định dấu hiệu gây hậu quả nghiêm trọng là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nếu hành vi buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng thì chưa cấu thành tội phạm. Đây là điểm mới cơ bản so với tội phạm này quy định tại Điều 123 Bộ luật hình sự năm 1985.  

- Đối với tội xâm phạm quyền hội họp, lập hội, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân ( Điều 129) được cấu tạo thành hai khoản, khoản 2 quy định hình phạt bổ sung, khoản 1 là cấu thành cơ bản và cũng là cấu thành tội phạm duy nhất (không có cấu thành tăng nặng hoặc giảm nhẹ). Đối với tội phạm này, có một thay đổi lớn, đó là: hành vi xâm phạm các quyền trên phải bị xử hành chính mà còn vi phạm thì mới cấu thành tội phạm. Ngoài ra, Điều 129 còn quy định thêm đối tượng bị xâm phạm không chỉ có quyền hội họp, lập hội, tự do tín ngưỡng mà có cả quyền theo hoặc không theo một tôn giáo nào

- Đối với tội xâm phạm quyền bình đẳng của phụ nữ ( Điều 130) không có gì sửa đổi, bổ sung.

- Đối với tội xâm phạm quyền tác giả ( Điều 131) được cấu tạo thành ba khoản, khoản 3 quy định hình phạt bổ sung, khoản 1 là cấu thành cơ bản, khoản 2 là cấu thành tăng nặng. Tội phạm này, về cơ bản được cấu tạo lại, quy định cụ thể từng loại hành vi xâm phạm đến quyền tác giả, đối tượng bị xâm phạm; nếu hành vi xâm phạm quyền tác giả chưa gây hậu quả nghiêm trọng hoặc chưa bị xử phạt hành chính, chưa bị kết án hoặc đã được xoá án tích thì chưa cấu thành tội phạm này; hình phạt chính nặng hơn hình phạt quy định tại Điều 126 Bộ luật hình sự năm 1985; hình phạt tiền không chỉ là hình phạt chính mà còn là hình phạt bổ sung;

- Đối với tội xâm phạm quyền khiếu nại, tố cáo ( Điều 132), về cơ bản không có sửa đổi bỏ sung lớn, chỉ bỏ từ “của công dân” ở tên tội và quy định hình phạt bỏ sung ngay trong điều luật.

II- ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC TÔI XÂM PHẠM QUYỀN TỰ DO, DÂN CHỦ CỦA CÔNG DÂN

Các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quyền tự do, dân chủ của công dân.

1. Hành vi nguy hiểm cho xã hội

Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ trong các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân là các quyền tự do, dân chủ của con người được cụ thể hoá, do Hiến pháp và pháp luật quy định. Tuy nhiên, Hiến pháp và pháp luật quy định công dân có nhiều quyền, có những quyền bị xâm phạm tới mức bị coi là tội phạm đã được quy định trong các Chương khác của Bộ luật hình sự. Ví dụ: Các tội xâm phạm sở hữu (Chương XIV); các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự con người (Chương XII)... Chương XIII chỉ quy định các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ, và cũng chỉ quy định một số quyền tự do, dân chủ bị xâm phạm là tội phạm. Đó là: Quyền tự do thân thể; chỗ ở; bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín; quyền bầu cử, ứng cử; quyền lao động; quyền hội họp, lập hội, tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền bình đẳng của phụ nữ; quyền tác giả; quyền khiếu nại tố cáo.

Việc đánh giá hành vi nào là hành vi nguy hiểm cho xã hội tới mức bị coi là tội phạm khi xâm phạm đến các quyền tự do, dân chủ của công dân phụ thuộc vào tình hình phát triển của xã hội và yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Nếu trước đây, hành vi chiếm đoạt thư, điện báo chưa bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính đã là hành vi nguy hiểm cho xã hội, thì nay Điều 125 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hành vi trên đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính mà còn vi phạm mới là hành vi nguy hiểm cho xã hội và được coi là hành vi phạm tội.  Ngược lại, có hành vi trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng nay lại coi là nguy hiểm cho xã hội và được coi là tội phạm. Ví dụ: Hành vi chiếm đoạt telex, fax, trước đây chưa được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội, nay hành vi này được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội và bị coi là tội phạm.

2. Hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được quy định trong Bộ luật hình sự 

Việc nhà làm luật quy định chỉ những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự  mới là tội phạm là nhằm gạt bỏ việc áp dụng nguyên tắc tương tự. Chỉ có Bộ luật hình sự mới được quy định tội phạm, ngoài Bộ luật hình sự ra không có văn bản pháp luật nào khác được quy định tội pham. Trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, đã có một thời gian dài các Toà án vận dụng đường lối chính sách hiện hành để xét xử một số hành vi mà pháp luật hình sự không quy định là tội phạm.

Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, cũng có nhiều ý kiến cho rằng, việc nhà làm luật quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất thiết phải được quy định trong Bộ luật hình sự sẽ dẫn đến tình trạng hình sự hoá một cách tuyệt đối. Trong khi đó ở nhiều nước trên thế giới chỉ quy định "tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự" hoặc "tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự". Mặt khắc, tại Điều 2 Bộ luật hình sự năm 1985 cũng chỉ quy định: "Chỉ người nào phạm một tội đã được luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự", trong khi đó khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1985 lại quy định: " tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự..." Vậy là giữa khái niệm tội phạm và cơ sở trách nhiệm hình đã không được quy định thống nhất ngay trong Bộ luật hình sự, dẫn đến việc hiểu và giải thích rất khác nhau giữa khái niệm tội phạm với cơ sở trách nhiệm hình sự. Trong quá trình soạn thảo Bộ luật hình sự năm 1999, cũng có ý kiến đề nghị Bộ luật hình sự nên quy định: " Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự." ý kiến này có nhân tố hợp lý, tránh sự sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự một cách triền miên, nhưng lại không đảm bảo tính thống nhất, tập trung, dễ dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa văn bản này với văn bản khác. Trong điều kiện xây dựng một Nhà nước pháp quyền thì con người với đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, được biết mình được làm gì, không được làm gì, nhất là các quan hệ pháp luật hình sự lại liên quan trực tiếp đến những quyền cơ bản nhất của con người kể cả quyền sống. Vì vậy, luật hình sự cần được pháp điển hoá thành Bộ luật hoàn chỉnh, nơi duy nhất quy định về tội phạm và hình phạt, đảm bảo tốt nhất cho việc thực hiện chính sách hình sự, đảm bảo quyền công dân, đảm bảo tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Sau hơn mười năm thi hành và qua nhiều lần thảo luận, một lần nữa Bộ luật hình sự năm 1999 vẫn khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội phải được quy định trong Bộ luật hình sự mới là tội phạm, đồng thời sửa đổi Điều 2 của Bộ luật hình sự cho phù hợp với khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 với nội dung " Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự".

3. Chủ thể của các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân là người có năng lực trách nhiệm hình sự 

Chủ thể của tội phạm nói chung và của các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân nói riêng là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhưng không phải ai thực hiện hành vi xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân cũng đều là chủ thể của tội phạm này, mà chỉ những người có năng lực trách nhiệm hình sự mới là chủ thể của tội phạm.

Bộ luật hình sự không quy định năng lực trách nhiệm hình sự là gì, mà chỉ quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13) và tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12). Từ quy định này, chúng ta có thể hiểu chủ thể của tội phạm phải là người ở một độ tuổi nhất định và là người nhận thức được và điều khiển được hành vi của mình.

a. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Luật hình sự nước nào cũng quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng không phải tất cả các nước đều quy định giống nhau, điều đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm của mỗi nước, vào sự phát triển về sinh học của con người ở mỗi quốc gia khác nhau: ở Anh từ 8 tuổi, ở Mỹ từ 7 tuổi, ở Thụy Điển từ 15 tuổi, ở Nga từ 14 tuổi, ở Pháp từ 13 tuổi, ở các nước đạo Hồi như Ai -Cập, Li-băng, I -Rắc từ 7 tuổi. v.v...1 

Ở nước ta, căn cứ vào thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm, có tham khảo luật hình sự của các nước khác trên thế giới và trong khu vực, Bộ luật hình sự đã quy định: Người đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm ( Điều 12 Bộ luật hình sự ).

Vấn đề đặt ra về lý luận cần phải giải quyết, đó là: vì sao người chưa đủ 14 tuổi lại không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ gây ra ? Khoa học luật hình sự xác định tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn về sự phát triển tâm sinh lý của con người, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến sự phát triển về quá trình nhận thức của con người và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.

Người chưa đủ 14 tuổi, trí tuệ chưa phát triển đầy đủ nên chưa nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình, chưa đủ khả năng tự chủ khi hành động nên họ không bị coi là có lỗi về hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ thực hiện. Một hành vi được coi là không có lỗi cũng tức là không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên họ không phải chịu trách nhiệm hình sự ( loại trừ trách nhiệm hình sự ).

Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi được coi là người chưa có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ. Do đó, họ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về một số tội phạm theo quy định của pháp luật chứ không chịu trách nhiệm hình sự về tất cả các tội phạm. Theo luật hình sự nước ta thì người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng  (khoản 2 Điều 12 Bộ luật hình sự). 

- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù. Đến ba năm tù chứ không phải là ba năm tù, do đó khi xác định tội phạm ít nghiêm trọng được quy định trong Bộ luật hình sự phải căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt, nếu mức cao nhất của khung hình phạt từ ba năm tù trở xuống thì đó là tội phạm ít nghiêm trọng. Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, các trường hợp quy định trong các điều khoản sau đây là tội phạm ít nghiêm trọng:

Khoản 1 Điều 123; Điều 124; Điều 125; Điều 126; Điều 127; Điều 128; Điều 129; Điều 130; Điều 132 và khoản 1 Điều 133. Như vậy, hầu hết các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân là các tội ít nghiêm trọng.

- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây y nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù. Đến bảy năm tù chứ không phải là bảy năm tù, do đó khi xác định tội phạm ít nghiêm trọng được quy định trong Bộ luật hình sự phải căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt, nếu mức cao nhất của khung hình phạt từ bảy năm tù trở xuống thì đó là tội phạm nghiêm trọng. Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân chỉ có ba trường hợp  là tội phạm nghiêm trọng, đó là các tội quy định tại khoản 2 Điều 123; khoản 2 Điều 129 và khoản 2 Điều 132. 

- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây y nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù. Đến mười lăm năm tù chứ không phải là mười lăm năm tù, do đó khi xác định tội phạm ít nghiêm trọng được quy định trong Bộ luật hình sự phải căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt, nếu mức cao nhất của khung hình phạt từ mười lăm năm tù trở xuống thì đó là tội phạm rất nghiêm trọng. Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân chỉ có một trường hợp là tội phạm rất nghiêm trọng, đó là trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 123 về tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật. Không có trường hợp nào là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân không có trường hợp nào là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Nếu người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi lại phạm tội do vô ý thì chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối chiếu với các quy định về các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân không có tội phạm nào được thực hiện do vô ý và cũng không có trường hợp nào là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, nên người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi lại phạm tội do vô ý xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân thì không cấu thành tội phạm và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. 

Một người chưa đủ 18 tuổi khi thực hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì khi điều tra, truy tố và xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng ( Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án) phải xác định rõ tuổi của họ. Cách tính đủ tuổi là tính theo tuổi tròn. Ví dụ: Sinh ngày 1-1-1980 thì ngày 1-1-1994 mới đủ 14 tuổi và ngày 1-1-1996 mới đủ 16 tuổi. Trong trường hợp không có điều kiện xác định chính xác ngày sinh thì tính ngày sinh theo ngày cuối cùng của tháng sinh. Ví dụ: Chỉ biết tháng sinh của người phạm tội là tháng 4-1981 mà không biết ngày nào thì lấy ngày 30-4-1981 là ngày sinh của họ. Trường hợp cũng không có điều kiện xác định chính xác tháng sinh thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng năm sinh là ngày sinh của người phạm tội. Ví dụ: Chỉ biết năm sinh của người phạm tội là năm 1983 thì ngày sinh của người phạm tội là ngày 31-12-1983. Các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử phải tiến hành hết các biện pháp xác minh mà không thể chứng minh được ngày tháng năm sinh thì mới lấy ngày cuối cùng trong tháng hoặc tháng cuối cùng trong năm làm ngày sinh của người phạm tội. Trong hồ sơ vụ án nhất thiết phải có bản sao giấy khai sinh (nếu là trường hợp có giấy khai sinh) hoặc các biên bản xác minh có xác nhận của các cơ quan có thẩm quyền (nếu là trường hợp không có giấy khai sinh). Nếu có nhiều tài liệu phản ánh tuổi của người phạm tội khác nhau thì việc xác định tuổi của người phạm tội theo hướng có lợi cho họ.

b. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự 

Theo quy định tại khoản 1 Điều 13 Bộ luật hình sự, thì tình trạng không có nặng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.

Như vậy, tiêu chuẩn ( dấu hiệu) để xác định một người không có năng lực trách nhiệm hình sự là mắc bệnh ( tiêu chuẩn y học) và tâm lý( mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển). Cả hai dấu hiệu này có mối liên quan chặt chẽ với nhau, cái này là tiền đề của cái kia và ngược lại. Một người vì mắc bệnh nên mất khả năng điều khiển và bị mất khả năng điều khiển vì họ mắc bệnh.

Cho đến nay chưa có giải thích chính thức nào về trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, về lý luận cũng như thực tiễn xét xử đã thừa nhận một người không có năng lực trách nhiệm hình sự khi họ mắc một trong các bệnh sau: Bệnh tâm thần kinh niên, bệnh loạn thần, bệnh si ngốc, các bệnh gây rối loạn tinh thần tạm thời.

Một người bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh làm mất khả năng nhận thức phải được Hội đồng giám định tâm thần xác định và kết luận. ở nước ta, ngành tâm thần học mới ra đời, nhưng đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, cho đến nay, những kiến thức về tâm thần học trong nhân dân và ngay trong đội ngũ cán bộ y tế còn hạn chế, chưa đáp ứng được sự đòi hỏi về phòng và chữa bệnh tâm thần cũng như việc xác định năng lực trách nhiệm hình sự đối với người mắc bệnh tâm thần thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Có nhiều trường hợp, có những kết luận trái ngược nhau về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự  giữa các Hội đồng giám định tâm thần, làm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không chính xác. Thậm chí có trường hợp kết luận của Hội đồng giám định không được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận vì kết luận đó thiếu cơ sở khoa học, không phù hợp với trạng thái tầm thần của người phạm tội. 

Thực tiễn xét xử cho thấy, có trường hợp một người bị mắc bệnh tâm thần nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự bởi vì khi thực hiện hành vi tội phạm họ không mắc bệnh. Pháp luật nước ta cũng như một số nước trên thế giới đều quy định: Chỉ người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong tình trạng họ đang bị bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức thì mới không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (loại trừ trách nhiệm hình sự).

Chỉ khi nào người mắc bệnh tâm thần tới mức làm mất khả năng nhận thức hành vi của mình và hậu quả do hành vi đó gây ra mới được coi là không có năng lực trách nhiệm hình sự. Nếu bệnh của họ chưa tới mức làm mất khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình thì tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, họ phải chịu toàn bộ hoặc một phần trách nhiệm hình sự .

Một người mắc bệnh tâm thần trong khi thực hiện hành vi phạm tội, họ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nhưng họ phải bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Đối với người lúc thực hiện hành vi phạm tội họ không mắc bệnh tâm thần nhưng sau khi phạm tội và trước khi bị kết án mà họ lại mắc bệnh tâm thần tới mức không nhận thức được hành vi của mình thì họ cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh, nhưng sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.

Người phạm tội cũng được loại trừ trách nhiệm hình sự nếu khi thực hiện hành vi phạm tội họ mắc một bệnh nào đó và bệnh đó đã làm mất khả năng điều khiển hành vi của mình. Đây là trường hợp người phạm tội vẫn nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vị bị bệnh nên họ không điều khiển được hành vi của mình theo ý muốn nên đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Thông thường những người ở trong tình trạng này là trường hợp theo quy định của pháp luật buộc họ phải hành động, nhưng vì bị bệnh nên họ không thể hành động theo ý muốn nên đã gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ví dụ: Một công an viên của xã nhận được lệnh đến cởi trói cho một người bị bắt nhầm, nhưng vì người này bị lên cơn sốt ác tính nên không thể thực hiện được nhiệm vụ được giao và cũng không báo được cho người phụ trách biết làm cho người bị trói không được cởi trói và bị giam trong nhà kho dẫn đến tổn hại nặng đến sức khoẻ.

c. Phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích khác

Theo quy định tại Điều 14 Bộ luật hình sự thì Người phạm tội trong tình trạng say do dùng rượu hoặc chất kích thích khác vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự .

Luật hình sự nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới không loại trừ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội do say rượu hoặc do dùng chất kích thích mạnh khác. Bởi vì trước đó họ là người có năng lực trách nhiệm hình sự và khi họ uống rượu hoặc sử dụng chất kích thích là tự họ đặt mình vào tình trạng “say” nên họ có lỗi. Say rượu là một hiện tượng không bình thường trong xã hội, là một thói xấu trong sinh hoạt, việc bắt người say rượu phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi tội phạm do họ gây ra còn là biểu thị thái độ nghiêm khắc của xã hội đối với tệ nạn say rượu. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng nếu người phạm tội không có lỗi trong việc uống rượu và như vậy họ cũng không có lỗi trong việc say rượu sẽ được thừa nhận là không có năng lực trách nhiệm hình sự  vì đó là một loại thuộc trường hợp say rượu bệnh lý. Thực tiễn xét xử cũng đã xảy ra trường hợp Hội đồng giám định pháp y tâm thần của kết luận người phạm tội do say rượu bệnh lý, nhưng họ vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, ở một số nước, trong đó có các nước Cộng hoà thuộc Liên Xô cũ coi trường hợp say rượu bệnh lý được loại trừ trách nhiệm hình sự .2 

Trong một số trường hợp chỉ một hoặc một số người mới là chủ thể của tội phạm, khoa học luật hình sự gọi là chủ thể đặc biệt. Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân có một trường hợp có chủ thể đặc biệt, đó là tội làm sai lệch kết quả bầu cử, tội buộc người lao động, cán bộ, công chức thôi việc trái pháp luật và tội xâm phạm quyền khiếu nại tố cáo.

4. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là người có lỗi

Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.

Khoa học luật hình sự coi lỗi là một dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Nếu một hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị coi là có lỗi thì người có hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự ( không đủ yêú tố cấu thành tội phạm).

Tội phạm là hành vi có lỗi, tính có lỗi là thuộc tính cơ bản của tội phạm, là cơ sở để buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu quả cuả hành vi đó gây ra. Luật hình sự Việt nam không chấp nhận hình thức buộc tội khách quan; tội phạm là hành vi tổng hợp các yếu tố chủ quan và khách quan, các yếu tố này có liên quan chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất  (tội phạm là sự thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan). Có thể nói, lỗi là một nguyên tắc cơ bản trong luật hình sự Việt nam, nên trong Điều 8 Bộ luật hình sự khi định nghĩa về tội phạm đã nêu: “ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội...thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý"

Hiện nay, vấn đề lỗi trong luật hình sự Việt nam có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng lỗi không phải là một đặc điểm riêng ( thuộc tính) của tội phạm mà nó là một yếu tố thuộc đặc điểm “ tính nguy hiểm cho xã hội”. Quan điểm này cho rằng, khi nói tính nguy hiểm cho xã hội có thể hiểu đó là một đặc điểm của riêng hành vi khách quan cuả tội phạm, gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được luật hình bảo vệ. Đặc điểm này không phụ thuộc vào mặt chủ quan bên trong của tội phạm. Nhưng nói đến tính nguy hiểm cho xã hội cũng có thể hiểu đó là một đặc điểm của một hành vi với ý nghĩa là thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan.3 Có quan điểm khác cho rằng, lỗi là thành phần cơ bản của mặt chủ quan. Trong mặt chủ quan, ngoài lỗi ra còn có động cơ, mục đích tội phạm, các yếu tố xúc cảm, v.v...4 Lại có quan điểm khác cho rằng, lỗi là thái độ tâm lý. Thái độ tâm lý của con người là một thể thống nhất không tách rời giữa nhận thức, động cơ, mục đích, ý chí và các yếu tố tâm lý khác. Hơn nữa, ngoài cố ý và vô ý, động cơ, mục đích có ý nghĩa pháp lý rất quan trọng trong định tội cũng như trong việc quyết định hình phạt. Vì vậy, lỗi chính là mặt chủ quan của tội phạm. Khi người ta nói một người có lỗi trong thực hiện tội phạm tức là nói đến toàn bộ mặt chủ quan của tội phạm mà không tách rời nó với động cơ, mục đích tội phạm.5 

a. Cố ý phạm tội

Theo Điều 9 Bộ luật hình sự thì cố ý phạm tội là tội phạm trong trường hợp sau đây:

- Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

- Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra;

Lần đầu tiên Bộ luật hình sự quy định rõ hai hình thức lỗi cố ý phạm tội, tuy không nói rõ đó là lỗi cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp, nhưng với nội dung quy định như trên chúng ta cũng hiểu được đó là hai hình thức lỗi : cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp. Bộ luật hình sự năm 1985 cũng quy định hai hình thức lỗi cố ý nhưng không quy định cụ thể và rõ ràng như Bộ luật hình sự năm 1999

Khoa học luật hình sự, khi nghiên cứu lỗi cố ý, còn chia ra nhiều hình thức khác nhau, các hình thức này không có ý nghĩa xác định trách nhiệm hình sự mà chỉ có ý nghĩa xác định mức độ nguy hiểm của hành vi tội phạm. Các hình thức đó là: Cố ý có dự mưu và cố ý đột xuất; cố ý xác định và cố ý không xác định.

- Cố ý có dự mưu là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi đó đã suy nghĩ, tính toán cẩn thận mới bắt tay vào việc thực hiện tội phạm.

- Cố ý đột xuất là trường hợp một người vừa có ý định tội phạm đã thực hiện ngay ý định đó.

- Cố ý xác định là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi đã xác định được hậu quả.

- Cố ý không xác định là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi không hình dung chính xác hậu quả xảy ra như thế nào.

b. Vô ý phạm tội

Theo quy định tại Điều 10 Bộ luật hình sự thì vô ý phạm tội là tội phạm  trường hợp sau đây:

- Người phạm tội tuy thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.

- Người phạm tội không thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậy quả đó

Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân không có trường hợp nào được thực hiện do vô ý nên chúng ta không nghiên cứu kỹ về hình thức lỗi vô ý.

Một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nếu không có lỗi thì không bị coi là hành vi tội phạm. Bộ luật hình sự quy định một số trường hợp không phải là tội phạm do người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có lỗi như: Sự kiện bất ngờ (Điều 11) phòng vệ chính đáng (Điều 15), tình thế cấp thiết (Điều 16). Ngoài ra, tuy Bộ luật hình sự không quy định, nhưng về lý luận cũng như thực tiễn xét xử có một số trường hợp tuy có hành vi gây thiệt hại cho lợi ích xã hội hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của công dân, nhưng cũng không bị coi là tội phạm vì người thực hiện hành vi không có lỗi như: Tình trạng không thể khắc phục được hậu quả; bắt người phạm tội quả tang hoặc có lệnh truy nã; chấp hành chỉ thị, quyết định hoặc mệnh lệnh; Rủi ro trong nghề nghiệp hoặc trong sản xuất.6 Tuy nhiên, đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự vì không có lỗi ít xảy ra. 

5. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị xâm phạm mà các quan hệ xã hội đó được Bộ luật hình sự bảo vệ.

Đây cũng là một đặc điểm mà thiếu nó thì không phải là tội phạm. Các quan hệ xã hội thì có nhiều, do nhiều ngành luật điều chỉnh, nhưng Bộ luật hình sự chỉ bảo vệ những quan hệ xã hội có liên quan trực tiếp đến độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức; tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa. Đối với các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân, khách thể của tội phạm chủ yếu là quyền tự do, dân chủ của công dân. Ngoài ra còn có những quan hệ khác như tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa nhưng không phải là khách thể đặc trưng cuả các tội này.

Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau, nhưng tuyệt đại đa số cho rằng, khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, có người cho rằng, quan hệ xã hội chỉ là khách thể chung, khách thể loại, còn khách thể trực tiếp không phải là quan hệ xã hội. Sự lầm lẫn này, thể hiện ở một số sách báo pháp lý khi nói đến khách thể trực tiếp thường nhầm với đối tượng tác động. 

Khách thể là một yếu tố rất quan trọng của tội phạm; các hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội không phải là khách thể của tội phạm thì không phải là tội phạm; hiểu rõ khách thể của tội phạm giúp chúng ta xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tội phạm, phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.

---
Chú giải:

1 Xem Tội phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự Việt nam- NXB Chính trị quốc gia- Hà Nội - 1994. Tr 197

2  Xem Tâm thần học- NXB “ MIR”-Matxcơva,NXB Y học - Hà Nội. 1980. Tr 183

3  Xem Nguyễn Ngọc Hoà- Tội phạm trong luật hình sự Việt nam- NXB Công an nhân dân- Hà Nội - 1991- Tr 12

4  Xem Tội phạm học, luật hình sự và tố tụng hình sự Việt Nam -NXB Chính trị quốc gia- Hà Nội -1994. Tr 193.

5 . Sách đã dẫn. Tr 193.

6 Xem Đinh Văn Quế "Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam ". NXB Cính trị quốc gia. Hà Nội năm 1998. Tr 52-69

Nguồn: BÌNH LUẬN BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 - PHẦN CÁC TỘI PHẠM - Thạc sĩ Luật học Đinh Văn Quế, Tòa án Nhân dân tối cao.

No comments:

Post a Comment