20/06/2014
Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là tư tưởng chỉ đạo được thể hiện xuyên suốt trong quá trình cải cách tư pháp hiện nay. Độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật đã trở thành một nguyên tắc hiến định và được áp dụng cho mọi thủ tục tố tụng ở nước ta. Trong tố tụng dân sự nguyên tắc này đã được ghi nhận và trở thành một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam. Có thể khẳng định đây là một nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của tòa án, tuy nhiên trong thực tế đâu đó vẫn còn tình trạng thẩm phán và hội thẩm nhân dân bị chi phối bởi các yếu tố chủ quan lẫn khách quan làm cho phán quyết của họ bị thiên lệch. Xuất phát từ nhận thức trên, với bài tập học kỳ môn Luật tố tụng dân sự Việt Nam, em xin chọn đề tai: “Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này” Sau đây là toàn bộ nội dung chính trong bài làm của em.

NỘI DUNG CHÍNH

1.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc cơ bản cấu thành nên hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự Việt Nam. Nguyên tắc này luôn được coi trọng và được ghi nhận trong bốn bản hiến pháp của nước ta qua các thời kỳ lịch sử khác nhau của đất nước. 

Thứ nhất, xuất phát từ nguyên tắc tổ chức và phân công quyền lực Nhà nước ở Việt Nam. Tiếp thu tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh, tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện này theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây cũng chính là cơ sở lý luận của nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án. 

Thứ hai, xuất phát từ bản chất của hoạt động tư pháp mà Tòa án thực hiện. Tòa án là cơ quan thực hiện hoạt động tư pháp - hoạt động nhân danh công lý và dựa vào công lý thì Tòa án phải xét xử như một người đứng giữa, trung lập, không phụ thuộc vào bên nào, chỉ xét xử độc lập và tuân theo pháp luật thì Tòa án mới tồn tại đúng với bản chất của mình là một cơ quan bảo vệ công lý. 

Thứ ba, xuất phát từ chế độ dân chủ nhân nhân ở nước ta. Việc xét xử của TA có Hội thẩm nhân dân tham gia đã được hiến pháp và pháp luật qui định, đó là một trong những nguyên tắc hể hiện rõ tư tương “Nhà nước của dân, do dân và vì dân” và chế độ dân chủ Xã hội chủ nghĩa. Pháp luật giao trọng trách cho Hội thẩm nhân dân thay mặt nhân dân tham gia xét xử, giám sát, chế ước, hạn chế tiêu cực trong hoạt động của Tòa án, bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế Xã hội chủ nghĩa. Giúp cho việc xét xử của Tòa án được rõ ràng, chính xác, phù hợp với tình hình thực tế và đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

2.NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ Hội thẩm nhân dân XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự được ghi nhận tại điều 12 Bộ luật tố tụng Dân sự được xác định với hai nội dung: khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật.

2.1 Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập

2.1.1 Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập với yếu tố bên ngoài

Theo phương diện độc lập với các yếu tố bên ngoài thì khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập với viện kiểm sát, với tòa án các cấp, độc lập với các cơ quan nhà nước, tổ chức  và cá nhân khác. Tuy nhiên, hoạt động xét xử của Tòa án được đặt dưới sự lãnh đạo của đảng và sự giám sát tối cao của Quốc hội – cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Đó là đặc điểm của chính thể nước ra để phân biệt với các nước theo chế độc tam quyền phân lập.

Hiện nay, theo qui định của luật tổ chức tòa án nhân dân thì ta cấp trên, Tòa án nhân dân tối cao vừa là cơ quan xét xử, vừa là cơ quan giám độc việc xét xử của Tòa án cấp dưới. Tuy nhiên, Tòa án cấp trên chỉ quán lý ta cấp dưới về mặt chuyên môn nghiệp vụ và tổ chức hành chính còn Tòa án cấp dưới vẫn có toàn quyền quyết định đối với những vụ việc thuộc thẩm quyền của mình. Pháp luật qui định nguyên tấc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật để đảm bảo cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thực hiện quyền tự quyết của mình khi xét xử. Đồng thời buộc họ phải có nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân về tính đúng đắng, hợp pháp đối với các quyết định của mình khi giải quyết vụ án. 

Vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam về mặt nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong mối quan hệ với cấp ủy đảng thể hiện ở việc đảng lãnh đạo chặt chẽ các cơ quan tư pháp về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ nhưng đảng không can thiệp vào hoạt động xét xử từng vụ án cụ thể của Tòa án. 

Trong quá trình xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không chỉ độc lập với các cơ quan Nhà nước mà còn độc lập với các bên đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, luật sự và những người tham gia tố tụng khác. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất của quan hệ dân sự là dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên nên trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, Tòa án luôn tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự.

Ngoài ra, trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân còn độc lập với các cơ quan báo chí và dư luận xã hội.

2.1.2 Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩn nhân dân độc lập với nhau

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử thì theo qui định tại điều 42 Bộ luật tố tụng Dân sự thì Hội thẩm nhân dân có quyền nghiên cứu hồ sợ trước khi mở phiên tòa để biết được nội dung cũng như những vấn đề cần phải giải quyết trong vụ án. mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong giai đoạn này mang tính chất hỗ trợ nhau, nhưng vẫn phai có sự độc lập trong nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm tra, đánh giá các tài liệu chứng cứ làm cơ sở cho việc giải quyết yêu cầu của đương sự. 

Tại phiên tòa tính độc lập giữa Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân càng được thể hiện rõ hơn. Tất cả các thành viên của Hội đồng xét xử đều có quyền hỏi đương sự về những vấn đề liên quan đến vụ án. Theo Điều 222 Bộ luật tố tụng Dân sự thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân có quyền hỏi tất cả các vấn đề mà mình cho là cần thiết để giải quyết vụ án mà không phụ thuộc vào Thẩm phán. 

Sự độc lập giữa Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được thể hiện rõ nhất trong quá trình nghị án. Điều 236, sự độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không cho phép thành viên này được áp đặt ý kiến của mình lên các thành viên khác trong cùng một HĐXX. Thẩm phán không được lấy quyền chủ tọa phiên tòa  để áp đặt các quyết định của Hội thẩm nhân dân theo ý kiến của mình. Ngược lại, Hội thẩm nhân dân cũng không được dựa vào ưu thế số động để đánh giá, gây áp lưc để giải quyết các vấn đề theo quan điểm của mình.

2.2 Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật

Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luât ở đây có nghĩa là tuân theo cả luật nội dung và luật hình thức. Vì vậy, khi xét cử các vụ án dân sự, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải căn cứ vào các qui định của của bộ luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình, luật lao động… đối chiếu các tình tiết của vụ án để xác định trên thực tế có hành vi vi phạm pháp luật hay không. đồng thời phải căn cứ vào Bộ luật tố tụng Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành để xác định thẩm quyền cũng như trình tư, thủ tục giải quyết tranh chấp.

Ngoài ra, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không có nghĩa là họ không chịu bất cứ một sự kiêm tra, giám sát nào. Mà ngược lại, theo qui định của Bộ luật tố tụng Dân sự, hoạt động xét xử các vụ án dân sư luôn chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát và giám đốc việc xét của của Tòa án cấp trên. Sự giám sát này không phải là can thiệp vào hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân mà nó nhằm đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật một cách chính xác và thống nhất. Có như vậy thì mới đảm bảo được tính đúng đắn và hợp pháp của các bản án, quyết định của Tòa án.

2.3 Mối quan hệ giữa độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự

Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Độc lập là điều kiện tiên quyết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử, và ngược lại, chỉ tuân theo pháp luật là cơ sở cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân được độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này là mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì sẽ dẫn đến sự tùy tiện, độc đoán, chủ quan, duy ý chí khi xét xử, Còn nếu chỉ tuân theo pháp luật mà không được độc lập thì có thể dẫn tới sự can thiệp trái phép từ phía các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào hoạt động xét xử của tòa án, làm mất đi tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. 

3.THỰC TIỄN THỰC HIỆN VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT

3.1Thực tiễn thực hiện nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Thực tiễn tố tụng ở nước ta trong những năm qua cho thấy nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã được tôn trọng và đảm bảo thực hiện trên thực tế. Nhìn chung các vụ án dân sự được TA giải quyết cơ bản đúng pháp luật. Nhưng bên cạnh những kết quả đạt được, thực tế vẫn còn nhiều vướng mắc, khó khăn trong việc đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc. Có thể thấy những hạn chế và bất cập ở những khía cạnh sau:

- Về hệ thống pháp luật: Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chỉ có thể được đảm bảo khi có 1 hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ với đời sống kinh tế, xã hội làm nền tảng cho phán quyết của mình. Tuy nhiên hệ thống pháp luật ở nước ta hiện nay bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót, chồng chéo và mâu thuẫn với nhau không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn xét xử các vụ án nói chung và nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân nói riêng. Đặc biệt thủ tục TTDS ở nước ta hiện nay là thủ tục xét hỏi đã làm cho TA có xu hướng lệ thuộc vào hồ sơ vụ án, các giai đoạn tố tụng diễn ra một cách khép kín. Để khắc phục tình trạng trên và đảm bảo tính độc lập của TA cần phải đổi mới thủ tục tại tòa theo hướng chuyển từ thủ tục xét hỏi sang tranh tụng

- Về mô hình tổ chức và hoạt động của TAND: Ở nước ta hệ thống TA được tổ chức theo cấp hành chính lãnh thổ,với cách thức tổ chức này bộc lộ những hạn chế làm ảnh hưởng đến tính độc lập của TA và Hội thẩm nhân dân. Chúng ta có 3 cấp TA nhưng mỗi cấp TA lại có nhiều thẩm quyền khác nhau, điều này dẫn đến hiện tượng một vụ án dân sự có thể trải qua nhiều lần xét xử khác nhau, việc giải quyết kéo dài nhiều năm không chấm dứt. Mặt khác, tổ chức của TA theo tiêu chí hành chính lãnh thổ còn dẫn đến hiện tượng ở những mức độ khác nhau, TA vẫn chịu ảnh hưởng của chính quyền địa phương trong hoạt động xét xử của mình. Chính vì vậy, tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không được đảm bảo, ảnh hưởng đến chất lượng xét xử. 

Một yếu tố không kém phần quan trọng để đảm bảo tính độc lập của TA trong xét xử là vấn đề kinh phí cho hoạt động của TA. Nguồn tài chính được bố trí chưa đủ đảm bảo cho hoạt động, cơ sở vật chất còn nhiều khó khăn, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động, chế độ chính sách chưa thực sự phù hợp với tổ chức đặc thù của công tác xét xử dẫn đến ảnh hưởng tới kết quả công tác xét xử và thực hiện nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

- Về chế độ đối với thẩm phán: Vẫn còn tồn tại tình trạng Thẩm phán chưa được đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ. do vậy đã bộc lộ những hạn chế về năng lực xét xử. Chế độ tiền lương và chế độ đãi ngộ vật chất đối với Thẩm phán cũng có tác động tới việc đảm bảo tính độc lập của TA trong xét xử. Lương của Thẩm phán thực tế chưa đủ nuôi Thẩm phán và gia đình họ nên đã vô tình hạn chế nguồn Thẩm phán và khuyến khích đội ngũ Thẩm phán vươn lên. Cơ chế tuyển chọn và bổ nhiệm còn mang tính “khép kín” nên chưa tạo được cơ hội cho người có phẩm chất, năng lực trong hệ thống chính trị trở thành Thẩm phán. Đồng thời nhiệm kỳ của Thẩm phán là 5 năm, rõ ràng là quá ngắn để làm an lòng người thẩm phán, Thẩm phán có thể hành xử theo hướng có lợi nhất cho việc tái bổ nhiệm của mình.

- Đối với hội thẩm nhân dân: Quyền năng pháp lý trao cho Hội thẩm nhân dân là khá lớn song chưa có cơ chế để cho các Hội thẩm nhân dân phát huy hết vai trò của mình. Trình độ và điều kiện giữa Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân còn có sự chênh lệch khá lớn thì việc thực hiện nguyên tắc này vẫn mang tính tượng trưng, hình thức. Tiêu chuẩn chung để được bầu làm Hội thẩm nhân dân là “có kiến thức pháp lý” vậy căn cứ vào đâu để đánh giá một người có kiến thức pháp lý. Vì vậy phần lớn số Hội thẩm nhân dân có bằng cấp đào tạo về pháp luật chiếm tỷ lệ rất thấp và vì vậy họ thường biểu quyết theo ý kiến của Thẩm phán.

3.2 Một số giải pháp nhằm bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Thứ nhất, các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, giữ gìn đạo đức, lương tâm nghề nghiệp. Các Thẩm phán phải được đào tạo chuẩn (có trình độ tốt nghiệp đại học và trên đại học chuyên ngành luật) và thường xuyên được cập nhật những kiến thức mới về tin học, ngoại ngữ, pháp luật quốc tế. Đồng thời, có tinh thần dũng cảm, dám đấu tranh cho sự công bằng, bảo vệ lẽ phải. Chỉ khi Thẩm phán có một trình độ chuyên môn cao với cái tâm trong sáng, tôn trọng sự công bằng, thì họ mới không bị chi phối bởi những suy nghĩ lệch lạc hoặc những tác động bên ngoài mang tính chất vụ lợi cá nhân. Khi đó, Thẩm phán sẽ có niềm tin nội tâm vững chắc để xét xử đúng pháp luật. Cùng với Thẩm phán, các Hội thẩm nhân dân cũng phải được bồi dưỡng tập huấn nâng cao kiến thức pháp luật, kỹ năng xét xử để đủ năng lực khi xét xử.

Đổi mới quy trình bổ nhiệm Thẩm phán theo hướng rút ngắn thủ tục, giảm sự can thiệp của các cơ quan chính quyền địa phương. Nhiệm kỳ năm năm đối với Thẩm phán các cấp hiện nay là quá ngắn. Vì vậy, để Thẩm phán yên tâm công tác, tận dụng được tối đa kinh nghiệm xét xử và dám thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp, cần kéo dài nhiệm kỳ của Thẩm phán. Mặt khác, để thực hiện bổ nhiệm Thẩm phán có chất lượng, phải thực hiện thường xuyên quy trình luân chuyển cán bộ, nguồn bổ nhiệm Thẩm phán cấp trên nên là Thẩm phán cấp dưới trong một thời hạn nhất định, nguồn bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án Tòa án cấp trên nên chú trọng lấy từ các Chánh án, Phó Chánh án Tòa án cấp dưới đã làm tốt công tác quản lý, xét xử.

Cần hoàn thiện các quy định để nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán như quy định về kỷ luật, quy định về bãi miễn khi Thẩm phán vi phạm phẩm chất đạo đức hoặc năng lực xét xử yếu kém. Bởi vì, pháp luật quy định người Thẩm phán độc lập trong xét xử thì họ cũng phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những phán quyết của mình

Thứ hai, xây dựng và củng cố các cơ quan, tổ chức, bổ trợ tư pháp vững mạnh. Thực tiễn xét xử cho thấy, hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp như luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch… tuy không trực tiếp quyết định các bản án, nhưng sự khách quan, kịp thời, chính xác của các hoạt động bổ trợ tư pháp sẽ góp phần bảo đảm chất lượng xét xử của Tòa án. Nếu hoạt động bổ trợ tư pháp kém hiệu quả, sẽ dẫn đến sự sai lệch trong kết quả điều tra, truy tố và khi xét xử, Thẩm phán rất dễ sai lầm, đưa ra phán quyết không đúng pháp luật. Vì vậy, trong tiến trình cải cách tư pháp, phải hoàn thiện pháp luật về luật sư, công chứng, giám định, hộ tịch theo hướng công khai, minh bạch, đơn giản và thuận tiện cho người dân.

Thứ ba, tăng cường vai trò giám sát của các Đoàn đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Đồng thời, nâng cao chất lượng hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động xét xử.

Thứ tư, tăng cường cơ sở vật chất, chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án. Nhà nước cần ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các Tòa án; cần có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án để họ yên tâm công tác và tăng khả năng tự vệ phòng, chống tiêu cực trong hoạt động xét xử. Mặt khác, Nhà nước cần quy định chế độ bảo đảm an ninh đối cơ quan Tòa án, Thẩm phán và gia đình họ trong trường hợp thi hành công vụ.

Thứ năm, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, không chồng chéo, mâu thuẫn với nhau; các văn bản hướng dẫn thi hành và giải thích luật phải kịp thời. Có như vậy mới tạo điều kiện cho Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân khi xét xử có cơ sở pháp lý vững chắc và chỉ tuân theo pháp luật.

Thứ sáu, đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân: Đổi mới tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, để tạo ra sự độc lập trong hoạt động xét xử, hạn chế sự lệ thuộc vốn đã tồn tại lâu năm giữa các cấp Tòa án vì với mô hình Tòa án như vậy, mối quan hệ giữa Tòa án cấp trên và Tòa án cấp dưới lúc này sẽ theo hướng chủ yếu là quan hệ tố tụng, tránh được các hiện tượng lâu nay vẫn tồn tại như báo cáo án, duyệt án làm cho Tòa án cấp dưới hay thẩm phán bị động, giảm tính độc lập của Thẩm phán và Hội thẩm nhan dân.

KẾT LUẬN

Tóm lại, hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước để tuyên một bản án kết tội hay không kết tội bị cáo. Phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, yêu cầu tối cao và cũng là cái mốc để đánh giá hiệu quả của công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Chính vì vậy, việc hiểu đúng và áp dụng chính xác là một đòi hỏi hết sức cần thiết

Trên đây là toàn bộ nội dung chính trong bài tập học kỳ của em với đề tài: “Nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này”. Vì khuôn khổ bài tập học kỳ có hạn nên có thể bài làm của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ các thầy, các cô để bài làm được hoàn thiện hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2011.
2. Học viện tư pháp, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007.
3. Trần Văn Kiểm – Chánh án tòa án nhân dân thành phố Nam Định, Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
4. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
5. Bộ luật Dân sự năm 2005.
6. Các bài viết trên trang web:
- http://www.luatvietnam.com.vn
- http://www.vietlaw.gov.vn
- http://www.thongtinphapluatdansu.wordpress.com
- http://www.vietnamlawjournal.com.vn

Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

Cảm ơn bạn Nguyễn Thu Hà - ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!

No comments:

Post a Comment