Trong suốt chặng đường hoạt động đã qua Đảng và Nhà nước ta luôn lấy tiêu chí “lấy dân làm gốc” và đã đề ra nhiều chủ trương chính sách nhằm bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.Đặc biệt trong hoạt động xây dựng pháp luật nhân dân đóng vai trò và ý nghĩa hết sức quan trọng.Điều đó được thể hiện thông qua nguyên tắc dân chủ.Và trên thực tế nguyên tắc này được thể hiện như thế nào?Có những mặt tích cực và còn tồn tại những hạn chế gì?Bài làm sau đây sẽ tập trung làm rõ vấn đề này.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.KHÁI QUÁT
1. Các khái niệm
1.1 Khái niệm xây dựng văn bản pháp luật
Hoạt động xây dựng văn bản pháp luật là hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền ban hành pháp luật.
Hoạt động xây dựng được tiến hành theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định. Pháp luật của các nhà nước đương đại đều quy định cụ thể, trình tự, thủ tục xây dựng và ban hành những văn bản quy phạm pháp luật quan trọng như Hiến pháp,nghị quyết, nghị định.
Kết quả của hoạt động xây dựng pháp luật là làm hình thành nên các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo mục đích của Nhà nước. Các quy phạm này được thể hiện trong các hình thức pháp luật mà chủ yếu là trong văn bản quy phạm pháp luật.
Như vậy, xây dựng pháp luật ở Việt Nam là quá trình hoạt động vô cùng quan trọng, phức hợp bao gồm nhiều các hoạt động kế tiếp nhau, liên hệ chặt chẽ với nhau.
1.2 Nguyên tắc xây dựng văn bản pháp luật
Nguyên tắc xây dựng pháp luật là những tư tưởng chỉ đạo phản ánh khái quát những sự việc khách quan liên quan đến quá trình “nâng” ý chí nhà nước lên thành pháp luật. Đây là những cơ sở quan trọng của toàn bộ quá trình xây dựng pháp luật, đòi hỏi tất cả các chủ thể tham gia vào quá trình ban hành, sửa đổi hay bãi bỏ các quy phạm pháp luật phải nghiêm chỉnh tuân theo. Các nguyên tắc đó xuất phát từ thực tế khách quan và từ đường lối chính trị của đất nước.Chúng đảm bảo việc thực hiện đầy đủ ý chí của nhà nước trong các quy định pháp luật.
Hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam được tiến hành trên những nguyên tắc cơ bản sau: nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam; nguyên tắc khách quan; nguyên tắc khoa học; nguyên tắc dân chủ; nguyên tắc pháp chế; nguyên tắc bảo đảm sự hài hòa về lợi ích giữa các lực lượng xã hội.
2. Nguyên tắc dân chủ
- Khái niệm
“Dân chủ” được hiểu theo nghĩa khái quát là “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Chỉ khi quyền lực thuộc về nhân dân thì mới bảo đảm việc thực hiện quyền dân chủ, phát huy năng lực sáng tạo của mọi thành viên, thúc đẩy xã hội phát triển. Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, đó là cơ sở chính trị quan trọng bảo đảm phát triển bền vững đất nước.
Nguyên tắc dân chủ là đảm bảo sự tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân vào hoạt đông xây dựng pháp luật nhằm làm cho pháp luật thể hiện được ý chí, nguyện vọng của các thành viên trong xã hội.Mặt khác, nó cho phép phát huy được trí tuệ của đông đảo các tầng lớp nhân dân trong xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật đồng thời cũng góp phần nâng cao hơn ý thức pháp luật của nhân dân.
- Phân tích
Sự tham gia của nhân dân vào hoạt động xây dựng pháp luật không thể phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà luật pháp mà thực chất đây là những đòi hỏi tất yếu khách quan của một nền lập pháp dân chủ.
Với tư cách là chủ thể của quyền lực chính trị, nhân dân có quyền giám sát, thể hiện ý chí của mình thông qua việc tham gia vào đường lối của Đảng. Mọi chủ trương đường lối của Đảng suy cho cùng cũng phải đều xuất phát từ nguyện vọng chính đáng của nhân dân, phải thể hiện một cách hợp lý, hài hòa, lợi ích của những tầng lớp nhân dân khác nhau.
Nhân dân tham gia vào hoạt động lập pháp với tư cách là người chủ của quyền lực nhà nước, pháp luật phải thể hiện ý chí của nhân dân, phản ánh trung thực ý chí của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Dân là nguồn trí tuệ của nhà nước, dân là kho sáng kiến”. Vậy nên việc huy động trí tuệ của nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật là cách thức tốt nhất để nhà nước có được công cụ quản lý tốt.
Trong một số quan hệ pháp luật cụ thể mặc dù người dân không chịu sự tác động trực tiếp của văn bản quy phạm pháp luật, song họ lại là những người có kiến thức lý luận và thực tiễn sâu rộng trong lĩnh vực mà văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh.Trong trường hợp này nhân dân là những chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn ở lĩnh vực chuyên sâu của họ.Ý kiến quan điểm của họ có vai trò quan trọng trong việc xây dựng quy phạm pháp luật.
II. Nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiệnnay.
1. Thực trạng
Điều 53 Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001), Nhà nước ta quy định: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận những vấn đề chung của cả nước, kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước trưng cầu dân ý”. Và một trong những nội dung “tham gia quản lý nhà nước” chính là việc nhân dân tham gia và hoàn thiện pháp luật.
Một nhà nước muốn là của dân, do dân và vì dân thì pháp luật đương nhiên phải xuất phát từ ý chí của nhân dân.Pháp luật xuất phát từ ý chí của nhân dân tức là nguyên tắc dân chủ phải được đặc biệt nhấn mạnh trong hoạt động xây dựng pháp luật.Điều này đòi hỏi quá trình xây dựng pháp luật phải có sự tham gia của người dân. Mỗi quy định pháp luật được ban hành phải là sản phẩm trí tuệ của toàn dân. Có như vậy thì luật mới đi vào được cuộc sống, phát huy được hiệu lực và đạt kết quả cao.
Nguyên tắc dân chủ trong hoạt động lập pháp đặt ra hai vấn đề:
+ Thứ nhất, việc xây dựng pháp luật phải thu nhận ý kiến của nhân dân.
+ Thứ hai, nhà nước cho phép khuyến khích và tạo điều kiện để mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào quá trình xây dựng thực hiện và giám sát mọi chính sách của nhà nước, thể hiện phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Dân biết luật để tự mình tổ chức công việc hằng ngày theo luật.
Hoạt động xây dựng pháp luật ngày càng dân chủ hơn.Trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã có nhiều quy định nhằm bảo đảm phát huy tính dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật. Chẳng hạn Điều 4 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định về việc tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật như sau: “Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức khác, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân và các cá nhân có quyền tham gia vào các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật”, trong giai đoạn soạn thảo cơ quan tổ chức chủ trì, soạn thảo có nhiệm vụ: “Tổ chức lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức có liên quan về dự án, dự thảo, tổng hợp và nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến đó (Khoản 4 Điều 33 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008). Trong giai đoạn thẩm tra văn bản “Cơ quan chủ trì thẩm tra có thể mời đại diện cơ quan tổ chức có liên quan, các chuyên gia, nhà khoa học và đại diện các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản tham dự cuộc hội họp do mình tổ chức để phát biểu ý kiến về những vấn đề liên quan đến nội sung dự án, dự thảo”.
Sự tham gia của nhân dân trong hoạt động xây dựng pháp luật được thể hiện trong các giai đoạn, như: giai đoạn kiến nghị đưa ra sáng kiến pháp luật và lập chương trình xây dựng luật. Ý tưởng lập pháp của nhân dân có thể được trình ra trước Quốc hội để xem xét đưa vào chương trình xây dựng luật. Có thể xem các đề nghị này là một trong số các nguồn sáng kiến pháp luật. Tham gia vào giai đoạn soạn thảo, nhân dân sẽ có nhiều cơ hội đóng góp cho việc hoàn thiện cuộc sống, do đó có thể góp phần tạo dựng được sự ủng hộ của nhân dân đối với những thay đổi mà dự thảo luật đã đưa ra. Nhân dân có thể bày tỏ quan điểm ý kiến của mình về bất kỳ vấn đề nào trong quá trình dự thảo luật mà họ quan tâm.Tham gia vào giai đoạn thẩm định thẩm tra và đóng góp ý kiến trong quá trình xem xét thông qua văn bản.Có thể thấy trong các giai đoạn của quá trình xây dựng hệ thống pháp luật nhân dân đều có điều liện và cơ hội tham gia.
Việc nhân dân tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật có thể theo hình thức gián tiếp hoặc trực tiếp.
- Gián tiếp là tham gia hoạt động xây dựng hệ thống pháp luật thôngqua “người đại diện của mình”.
- Trực tiếp là tham gia bằng việc đề xuất các ý kiến của mình trong quá trình xây dựng pháp luật của nhà nước.
Trong quá trình trực tiếp tham gia vào xây dựng pháp luật, nhân dân đưa ra các sáng kiến để các cơ quan nhà nước xem xét ban hành hoặc sửa đổi bổ sung, thậm chí đình chỉ bãi bỏ các văn bản quy phạm pháp luật. Ngoài ra, mỗi người dân đều góp phần đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống. Nhân dân còn trực tiếp tham gia vào hoạt động bảo vệ pháp luật, bằng việc khiếu nại tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện và tố giác tội phạm với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp đấu tranh các hiện tượng vi phạm pháp luật trong xã hội.
Trong nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, pháp luật là công cụ chủ yếu của nhà nước nhưng đồng thời cũng là: “tài sản tinh thần của nhân dân”.
Xây dựng pháp luật là công việc chuyên nghiệp của các cơ quan chức năng của nhà nước, nhưng sự tham gia của nhân dân vào hoạt động này cũng có ý nghĩa hết sức sâu sắc. Trên tinh thần chung của Điều 53 Hiến pháp 1992, Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 1996 (sửa đổi bổ sung năm 2002) đã quy định việc tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật với một số nội dung đáng chú ý sau đây:
+ Tại Điều 3 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 khẳng định: “…cá nhân có quyền tham gia góp ý kiến xây dựng văn bản quy phạm pháp luật”. Ở mức độ cụ thể hơn, tại điều 8 của luật này tiếp tục quy định: “…công dân có quyền đè nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét việc sửa đổi bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành văn bản quy phạm pháp luật”
Các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta bao gồm nhiều loại quy định việc lấy ý kiến của nhân dân.Luật ban hành quy phạm pháp luật năm 1996 (sửa đổi)còn quy định thủ tục tổ chức lấy ý kiến các cá nhân mời các chuyên gia tahm gia xây dựng dự án luật và dự án pháp lệnh( Điều 26,28). Có thể nói đây là sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào hoạt động xây dựng pháp luật mang tính chuyên sâu và có ý nghĩa quan trọng. Ngoài ra, theo quy định hiện nay việc lấy ý kiến của dân còn đặt ra đối với các dự thảo văn bản dưới luật như nghị quyết nghị định…của chính phủ.Hình thức tham gia của nhân dân cũng phong phú và đa dạng hơn.
Vấn đề nhân dân tham gia hoạt động xây dựng luật ở địa phương cũng được quy định trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật ở Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Trong những năm qua, hoạt động xây dựng pháp luật của nhà nước đã thu hút sự tham gia ngày càng tích cực của các tầng lớp nhân dân.
Ví dụ: Trước đây, trong đợt sinh hoạt chính trị lấy ý kiến nhân dân đóng góp cho dự thảo hiến pháp 1992, cả nước có trên 9 triệu lượt người tham gia và đóng góp được nhiều ý kiến có giá trị.
Bên cạnh đó Quốc hội còn nhiều lần tiến hành lấy ý kiến nhân dân về các dự án luật quan trọng như dự án Bộ luật Lao động 1995, Bộ luật hôn nhân và gia đình năm 2000, dự án Luật Đất đai 2003, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân…
Việc tổ chức lấy ý kiến của nhân dân đã được thực hiện như một công đoạn bắt buộc của quy trình làm luật với phương thức tổ chức khá phổ biến là lấy ý kiến theo cách tổ chức thảo luận tập thể.
3. Ưu điểm và hạn chế
- Ưu điểm
Sự gia của nhân dân vào quản lý nhà nước là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ dân chủ của một chế độ chính trị - xã hội.
Việc thực hiện nguyên tắc dân chủ đã phản ánh được quan điểm, chủ trương của nhà nước trong việc thực hiệ dân chủ nói chung và đảm bảo sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước nói riêng. Các quy định của pháp luật cũng đáp ứng được đầy đủ hơn nhu cầu dân chủ hóa đời sống xã hội và mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong bầu không khí dân chủ mới nhân dân vừa là người “hỗ trợ” và đồng thời cũng đóng vai trò “phản biện”, đánh giá đối với các chính sách,pháp luật của nhà nước. Đây chính là lực lượng phản biện xã hội hùng hậu góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn cho thấy nhờ có sự tham gia của nhân dân vào hoạt động xây dựng pháp luật mà thời gian vừa qua các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật thiếu tính khoa học, thiếu hợp lý, khả thi thâm chí vi phạm Hiến pháp đã kịp thời được sửa đổi hoặc bãi bỏ, tránh những hậu quả xấu cho xã hội.
Mặt khác không chỉ dừng lại ở việc đóng góp ý kiến một cách thụ động mà nhân dân còn chủ động đưa ra các sáng kiến có giá trị góp phần vào quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước ta.
Trên phương diện thi hành pháp luật, việc nhân dân tham gia xây dựng pháp luật sẽ là tăng tính thực tế khả thi của các văn bản pháp luật tong cuộc sống.
Sự tham gia của nhân dân và hoạt động xây dựng pháp luật còn góp phần nâng cao ý thức pháp luật, giúp nhân dân hiểu biết về pháp luật, từ đó hình thành nên thói quen sống và làm việc theo pháp luật.
- Hạn chế
Tuy nhiên sự tham gia của nhân dân vào hoạt động xây dựng pháp luật mới chỉ dừng lại ở việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân và phương thức tổ chức vẫn mang tính hình thức.Vai trò của nhân dân còn phụ thuộc rất nhiều vào ý chí của cơ quan nhà nước, ít có sự cởi mở về thông tin cũng như đối thoại trong quá trình soạn thảo văn bản.
Tình trạng “luật khung” còn phổ biến. Về mặt lý luận, chúng ta nhàm mở rộng hơn nữa sự tham gia của các tầng lớp nhân vào quá trình xây dựng pháp luật,tuy nhiên các quy định này chỉ đi vào thực tiễn một cách hình thức không đảm bảo chất lượng. Chẳng hạn không ít trường hợp do những khó khăn nhất định về thời gian, nhân lực, kinh phí nên việc tổ chức khảo sát thực tiễn, lấy số thực liệu cụ thể và điều tra dư luận xã hội bị xem nhẹ.
Việc tổ chức lấy ý kiến của người dân chưa thường xuyên, liên tục, nhiều khi còn mang tính phong trào và mang nặng mục đích tuyên truyền nhiều hơn là huy động trí tuệ của quần chúng nhân dân.
Pháp luật chưa tạo ra các cơ chế khuyến khích và bảo vệ người dân khi họ tham gia vào hoạt động xây dựng pháp luật cũng như quản lý nhà nước. Chẳng hạn như chưa có các quy định khuyến khích về vật chất và tinh thần cho người dân khi họ đưa ra được những sáng kiến có giá trị.
Về phía nhân dân, việc đóng góp ý kiến, đề xuất lên các cơ quan nhà nước trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật cũng còn nhiều hạn chế, số lượng ý kiến từ phía nhân dân còn ít. Tâm lý chung của người dân còn mang tính ỷ lại, trông chờ, phó mặc.
Còn các cơ quan nhà nước vẫ chưa thực hiện tốt công việc của mình, khi người dân gửi ý kiến đi nhưng thường không biết ý kiến đó có được xem xét và tiếp thu hay không.
III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật ở nước ta hiện nay
- Cần hoàn thiện các quy định pháp luật về quá trình xây dựng tạo điều kiện, cơ chế thuận lợi cho nhân dân, các nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn tham gia có hiệu quả hơn.
- Các vấn đề đưa ra lấy ý kiến nhân dân, huy động trí tuệ nhân dân phải được thuyết minh và giải thích rõ ràng về mục đích, quan điểm, nội dung,tác động của chính sách, dự thảo luật.
- Nhà nước tăng cơ hội tiếp cận thông tin cho nhân dân, đồng thời khuyến khích công dân chủ động tìm kiếm thông tin.
- Tạo ra cơ chế nghe và phản hồi thông tin một cách thường xuyên và có trách nhiệm, tạo diễn đàn đối thoại trực tiếp.
- Việc đảm bảo nguyên tắc dân chủ cũng như chương trình xây dựng pháp luật phải cơ sở yêu cầu của thực tiễn,đảm bảo tính khả thi về tài chính,thời gian cần thiết của việc lấy ý kiến nhân dân.
- Cần có một đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia vào thực hiện nguyên tác dân chủ cũng như xây dựng pháp luật đủ về số lượng, năng lực, trình đọ.
- Đạo tào cử nhân luật, trang bị cho sinh viên những kiến thúc cơ bản, có hệ thống tương đối hoàn thiện về pháp luật có định hướng chuyen sâu về pháp luật và năng lực thực tiễn xây dựng pháp luật.
- Kết hợp đồng bộ nguyên tắc dân chủ với các nguyên tắc khác trong hoạt động xây dựng pháp luật nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác xây dựng pháp luật.
- Cần nghiên sự tương thích giữa nguyên tắc dân chủ trong hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam với các nguyên tắc trong pháp luật quốc tế. Từ đó, đưa ra các giải pháp tiếp nhận,hài hòa pháp luật quốc tế phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam,để nó được hoàn thiện hơn.
- Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp đã đề ra.
Thực hiện tốt nguyên tắc dân chủ là góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật, đạt 4 tiêu chuẩn: toàn diện, đồng bộ, khoa học, thực tiễn có khả năng điều chỉnh hiệu quả các mối quan hệ xã hội cơ bản, phát triển nhanh, liên tục ổn định, vững chắc. Bởi sự phát triển pháp luật luôn gắn với sự phát triển bền vững của xã hội.
KẾT LUẬN
Cùng với sự hoàn thiện của đất nước, hệ thống pháp luật cũng ngày càng hoàn thiện và trở thành công cụ quan trọng trong tổ chức quản lý xã hội.Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống pháp luật nước ta cũng như quá trình xây dựng nó còn tồn tại nhiều hạn chế, chất lượng tính khả thi còn thấp. Do đó cần phát triển hơn nữa quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để xây dựng nhà nước Việt Nam vững mạnh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoạt động xây dựng pháp luật nhằm đảm bảo phát triển bền vững ở Việt Nam- một số vấn đề lý luận và thực tiễn. Khóa luận tốt nghiệp-Trần Thị Trang.
2. Nâng cao vai trò của pháp luật trong việc bảo đảm sự tham gia trưc tiếp của nhân dân vào quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay. Luận văn thạc sĩ luật học-Nguyễn Khắc Thắng.
3. Một số vấn đề lý luận về sự tham gia của nhân dân vào hoạt động xây dựng luật ở Việt Nam hiện nay. Luận văn thạc sĩ luật học-Lê Thị Thiều Hoa.
4. Nội dung cơ bản của môn lí luận nhà nước và pháp luật. PGS-TS Nguyễn Thị Hồi, TS Lê Vương Long (đồng chủ biên). Nxb Giao Thông Vận Tải
Ths Đoàn Bạch Liên
Ths Nguyễn Văn Năm
Ths Bùi Xuân Phái
5. Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay. Sách chuyên khảo. PGS-TS Nguyễn Văn Động, nxb Tư Pháp.
6. Giáo trình lí luận nhà nước và pháp luật. Đại học luật Hà Nội, Nxb Công An Nhân Dân, Hà Nội – 2013.
Cảm ơn bạn Ngô Ngọc đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment