Bài tập nhóm Luật Hôn nhân gia đình có đáp án.
Vấn đề nuôi con nuôi nói chung là một vấn đề mang tính xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc mà mục đích cơ bản là nhằm tạo cho những đứa trẻ thiệt thòi thiếu vắng tình thương yêu của cha mẹ và những người thân một mái ấm gia đình thay thế. Hiện nay, việc nuôi con nuôi ngày càng trở nên phổ biến. Chính vì vậy, việc đi sâu tìm hiểu về các điều kiên nuôi con nuôi là hết sức cần thiết. Cần thẳng thắn một điều là, luật nuôi con nuôi nói chung và điều kiện nuôi con nuôi nói riêng còn nhiều tồn tại cần sửa đổi, hoàn thiện. Đó là lý do chính thúc đẩy nhóm chúng em nghiên cứu đề tài: “Phân tích các điều kiện của việc nuôi con nuôi và những điểm bất cập còn tồn tại cần sửa đổi, hoàn thiện về điều kiện nuôi con nuôi”.
NỘI DUNG CHÍNH
I. Cơ sở lý luận.
Nuôi con nuôi – một hiện tượng xã hội, một chế định pháp lý đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử pháp luật Việt Nam. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi…; dựa trên ý chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi.
Chế định nuôi con nuôi được quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình của Nhà nước ta từ năm 1959 đến nay xuất phát trước tiên vì lợi ích của người con nuôi; đồng thời cũng bảo đảm lợi ích của người nhận con nuôi (Điều 24 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959; Điều 34 Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986; Điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Việc nuôi con nuôi được quy định trong luật Hôn nhân và gia đình có ý nghĩa góp phần bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em; đồng thời góp phần giải quyết một phần hậu quả của cuộc chiến tranh xâm lược do đến quốc Mỹ gây ra trước đây. Vì vậy, mục đích của việc nuôi con nuôi theo điều 67 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:
“1. Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội.
Một người có thể nhận một hoặc nhiều người làm con nuôi.
Giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi có các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con theo quy định của Luật này.
2. Nhà nước và xã hội khuyến khích việc nhận trẻ mồ côi, trẻ bị bỏ rơi, trẻ bị tàn tật làm con nuôi.
3. Nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác.”
Bên cạnh đó, Điều 2 Luật Nuôi con nuôi 2010 cũng quy định rõ mục đích của việc nuôi con nuôi như sau: ” Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình.”
Như vậy, việc nuôi con nuôi phải xuất phát từ lợi ích của người con nuôi, đồng thời cũng bảo đảm quyền lợi của người nuôi (cha, mẹ nuôi). Để việc nhận nuôi con nuôi có hiệu lực, phát sinh nghĩa vụ và quyền giữa cha mẹ nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã quy định cụ thể các điều kiện để việc nhận nuôi con nuôi hợp pháp, cũng như về hậu quả pháp lý và thủ tục chấm dứt việc nuôi con nuôi.
II. Các điều kiện nhận nuôi con nuôi và những bất cập cần sửa đổi
1. Những điều kiện của việc nhận nuôi con nuôi.
1.1 Đối với người được nhận làm con nuôi:
Việc nuôi con nuôi hướng tới đối tượng trước tiên là trẻ em nên pháp luật quy định độ tuổi tối đa của người được nhận làm con nuôi. Khoản 1 Điều 68 Luật HN&GĐ quy định “ Người được nhận làm con nuôi phải là người từ mười lăm tuổi trở xuống”. Những người ở độ tuổi này chưa có sự trưởng thành đầy đủ về vật chất và tinh thần, đang trong quá trình định hình và phát triển nhân cách, rất cần sự qua tâm nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục của người lớn. Khi tuổi còn nhỏ, sự giáo dục, dạy dỗ của người lớn ảnh hưởng sâu sắc tới sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ trong tương lai. Mặt khác, quy định độ tuổi của người con nuôi như vậy cũng tương ứng với quy định của các ngành luật khác như luật lao động, luật dân sự. Như vậy quy định về độ tuổi của người được nhận nuôi là tương đối phù hợp về mặt lý luận và thực tiễn.
Pháp luật còn quy định một số trường hợp ngoại lệ, người được nhận làm con nuôi có thể trên 15 tuổi “ nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn” (khoản 1 Điều 68 Luật HN&GĐ). Quy định này nhằm tạo điều kiện cho những người ở hoàn cảnh trên được chăm sóc, nuôi dưỡng, có một chỗ nương tựa thường xuyên trong cuộc sống.
Ngoài quy định về độ tuổi, Luật HN&GĐ không quy định điều kiện gì khác đối với người được nhận làm con nuôi.Tuy nhiên, điều kiện của trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi người nước ngoài được quy định cụ thể hơn trong nghị định 68/CP và nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định 68/CP. So với việc nuôi con nuôi trong nước, diện trẻ em làm con nuôi người nước ngoài được quy định hẹp và chặt hơn.
1.2 Đối với người nhận nuôi con nuôi:
Điều kiện của người nhận nuôi con nuôi được quy định tại Điều 69 Luật HN&GĐ:
Trước hết người nhận nuôi con nuôi phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ(khoản 1 Điều 69 luật HN&GĐ). Quy định này nhằm đảm bảo sự thể hiện ý chí tự nguyện của người nhận nuôi, khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi của cha, mẹ nuôi.
Thứ hai,người nhận nuôi con nuôi phải hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên(khoản 2 Điều 69 Luật HN&GĐ). Đây là khoảng cách tối thiểu giữa người nhận nuôi và con nuôi. Khoảng cách tuổi tối thiểu giữa cha mẹ nuôi và con nuôi như vậy là phù hợp với độ tuổi kết hôn và tuổi sinh con về mặt sinh học.
Thứ ba, người nhận nuôi phải có tư cách đạo đức tốt(khoản 3 Điều 69 Luật HN&GĐ). Đây là điều kiện có ý nghĩa quan trọng trong việc nuôi con nuôi.Tư cách đạo đức của cha mẹ nuôi có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, đặc biệt khi trẻ còn nhỏ tuổi, chưa có khả năng nhận thức độc lập. Để xác định tư cách đạo đức của người nhận nuôi cần xem xét các mối quan hệ khác nhau như quan điểm giáo dục trẻ em,tình trạng hôn nhân, lý lịch tư pháp…
Thứ tư, người nhận nuôi con nuôi phải có điều kiện thực tế đảm bảo việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, dục con nuôi(khoản 4 Điều 69 luật HN&GĐ). Các điều kiện thực tế luật không quy định rõ, nhưng có thể suy đoán đó là các điều kiện cần thiết liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền làm cha mẹ của người nhận nuôi. Đó là các điều kiện về sức khỏe,kinh tế,thời gian…
Thứ năm, theo quy định tại khoản 5 Điều 69 luật HN&GĐ, người nhận nuôi con nuôi bị coi không đủ điều kiện khi họ là người ở một trong hai tình tạng là: Đang bị hạn chế một số quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc đang bị kết án mà chưa được xóa án tích về những tội gì thì khó xác định rõ ràng, vì cách diễn đạt của điều luật.
Các điều kiện đối với người nhận nuôi trên đây được áp dụng đối với tất cả các trường hợp nhận nuôi con nuôi không phân biệt người nhận nuôi là người đọc thân hay là người đang có vợ hoặc có chồng (Điều 70 luật HN&GĐ).
Người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện của người nhận nuôi con nuôi theo quy định tại Điều 69 luật HN&GĐ và pháp luật của nước mà người đó là công dân ( Khoản 1 Điều 105 luật HN&GĐ). Ngoài các điều kiện trên,người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải là người đang thường trú tại nước, mà người đó và Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc tế hai bên hoặc điều ước quốc tế nhiều bên về hợp tác nuôi con nuôi ( Khoản 8 Điều 1 nghị định 69/CP).
1.3 Sự thể hiện ý chí của các chủ thể có liên quan
Bản chất của việc nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên, tạo lập một gia đình mới không dựa trên cơ sở huyết thống. Do đó sự thể hiện ý chí của các chủ thể có liên quan trong việc cho-nhận con nuôi có ý nghĩa quan trọng.
Sự đồng ý cho con làm con nuôi của cha mẹ đẻ:
Cha mẹ đẻ có quyền quyết định cho con làm con nuôi trên cơ sở tự nguyện và phải được thể hiện khác quan bằng văn bản (Điều 17 luật HN&GĐ). Sự đồng ý của cha mẹ đẻ về việc cho con làm con nuôi cần phân biệt một số trường hợp cụ thể: Khi cha mẹ đẻ đều còn sống và có đủ năng lực hành vi dân sự thì phải có sự đồng ý của cả cha và mẹ đẻ của trẻ em đó, kể cả trong trường hợp cha mẹ đã ly hôn.
Sự đồng ý của người giám hộ:
Theo quy định tại điều 71 luật HN&GĐ có thể hiểu, người giám hộ ( bao gồm cả người giàm hộ đương nhiên hoặc giám hộ cử) có quyền thể hiện ý chí cho người mà mình giám hộ làm con nuôi, khi cha mẹ đẻ của người đó đều đã chết, đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc đều không xác định được, mà không cần sự đồng ý của bất cứ người nào trong những người họ hàng thân thích của người đó. Người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng chỉ có quyền đồng ý cho trẻ em đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng làm con nuôi, nếu đó là trẻ em bị bỏ rơi không xác định được cha mẹ hoặc cha mẹ đẻ của trẻ em đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc khi trẻ em đó được đưa vào cơ sở nuôi dưỡng đã có sự đòng ý của cha mẹ đẻ cho làm con nuôi.
Sự thể hiện ý chí của bản thân người con nuôi:
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 71 luật HN&GĐ năm 2000: “ việc nhận trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự đồng ý của trẻ em đó”. Đứa trẻ từ đủ 9 tuổi trở lên có thể nhận thức được những gì liên quan trực tiếp đến bản thân mình, có thể nhận biết và bày tỏ thái độ của mình muốn hay không muốn làm con nuôi. Quyền bày tỏ ý chí đồng ý làm con nuôi của trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên là một điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý.
Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi:
Ý chí của người nhận nuôi thể hiện qua đơn xin nhận nuôi con nuôi. Người nhận nuôi có thể bày tỏ mong muốn nhận một đứa trẻ làm con nuôi với những đặc điểm cụ thể về giới tính, tuổi, tình trạng gia đình, sức khỏe…Mong muốn có một đứa trẻ phù hợp để làm con nuôi của mình là xu hướng tình cảm chung, là nguyện vọng chính đáng của người nhận nuôi con nuôi. Pháp luật không quy định cụ thể về sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi. Thực tế cho thấy có hai trường hợp: Thứ nhất, người nhận nuôi là người độc thân. Trong trường hợp này, người nhận nuôi có quyền độc lập thể hiện ý chí tự nguyện của mình về việc nhận nuôi con nuôi. Thứ hai, người nhận nuôi con nuôi là người đã có vợ, có chồng. Nếu cả hai vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi thì mong muốn nhận nuôi con nuôi phải là ý chí chung của cả hai vợ chồng. Hai vợ chồng cùng thống nhất về việc nhận nuôi con nuôi. Nếu chỉ có một bên vợ hoặc chồng nhận nuôi con nuôi thì, trước đây Điều 36 Nghị định 83/1998/NĐ-CP quy định: “ nếu người nhận nuôi con nuôi đã có vợ hoặc chồng, thì đơn phải có chữ ký của cả vợ và chồng”. Tuy nhiên điều này không được quy định một cách rỏ ràng.
1.4 Sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
Việc nuôi con có giá trị pháp lý khi nó được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận theo trình tự thủ tục pháp luật quy định. Sự công nhận của nhà nước đối với việc nuôi con được thể hiện qua việc đăng kí nuôi con nuôi ( Điều 72 Luật HN&GĐ). Các điều kiện của vệc nuôi con nuôi được xem xét một cách đầy đủ và toàn diện khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện đăng kí nuôi con nuôi. Nếu các bên không có đủ các điều kiện mà pháp luật quy định thì cơ quan đăng kí có quyền từ chối (Điều 73 Luật HN&GĐ). Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa những người nhận nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ. Vì vậy, công nhận việc nuôi con nuôi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn là cơ sở để phân biệt quan hệ nuôi con nuôi với các hình thức nuôi dưỡng khác không nhằm mục đích xác lập quan hệ cha mẹ và con như nuôi dưỡng vì lòng nhân đạo, nuôi trong gia đình thay thế…Như vậy sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là một điều kiên bắt buộc để nuôi con nuôi có giá trị pháp lý.
Tuy nhiên thực tiễn cho thấy,còn có nhiều trường hợp nuôi con nuôi chưa đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều đó có thể do nhiều lý do. Trước hết, đó là sự thiếu hiểu biết pháp luật của người dân. Bên cạnh đó, do quy định của pháp luật về nuôi con nuôi trong một thời gian dài, trước khi có luật HN&GĐ năm 1986 chưa đầy đủ. Điều đó dẫn đến tình trạng là nhiều trường hợp nhận con nuôi không đăng kí, nhưng giữa hai bên đã thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con cái đối với nhau, thực tế đã coi nhau như cha mẹ và con. Việc giải quyết một cách hợp lý quyền, lợi ích của các bên trong những trường hợp này là vấn đề cần sớm có giải pháp.
Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của cha mẹ nuôi và con nuôi trong trường hợp trên, Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 20/1/1988 của HĐTPTANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của luật HN&GĐ 1986 (nghị quyết số 01/NQ-HĐTP) đã công nhận những việc nuôi con nuôi xảy ra trước ngày 3/1/1987 mà chưa đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền vẫn có giá trị pháp lý khi đáp ứng được những điều kiện nhất định. Trong trường hợp được công nhận có giá trị pháp lý đó là nuôi con nuôi thực tế. Đối với những việc nuôi con nuôi phát sinh sau ngày 3/1/1987 mà không đăng kí và ghi vào sổ hộ tịch thì về nguyên tắc không có giá trị pháp lý.
Khi luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, đối với những trường hợp nuôi con nuôi được thực hiện theo phong tục tập quán giữa đồng bào các dân tộc thiểu số với nhau thì có thể được xem xét công nhận là nuôi con nuôi thực tế, nếu được xác lập trước ngày 1/1/2001(Điều 17 nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của chính phủ quy định việc áp dụng luật HN&GĐ đối với cá dân tộc thiểu số, viết tắt là Nghị định 32/CP). Đồng thời, quy định tại điều 16 nghị định 32/CP, việc nuôi con nuôi giữa đồng bào các dân tộc thiểu số cũng cần phải đăng kí nếu được xác lập sau ngày 1/1/2001. Như vậy, có thể nói mọi trường hợp nuôi con nuôi phát sinh sau khi luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực mà không đăng kí sẽ không có giá trị pháp lý.
2. Những điểm bất cập còn tồn tại cần sửa đổi, hoàn thiện về điều kiện nhận nuôi con nuôi.
Hiện nay, pháp luật về nuôi con nuôi vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, mâu thuẫn, nhiều quy định chưa đầy đủ, thiếu cụ thể và rõ ràng. Ví dụ: các quy định về điều kiện nuôi con nuôi có phần sơ sài ,lỏng lẻo, thiếu thuyết phục, chưa phù hợp với bản chất của quan hệ nuôi con nuôi. Chưa có quy định về các hình thức nuôi con nuôi, về quyền và nghĩa vụ của các bên có liên quan như cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi trong mối quan hệ với con nuôi. Việc áp dụng pháp luật giải quyết yêu cầu chấm dứt nuôi con nuôi, tranh chấp quyền cha mẹ đối với con, tranh chấp về quyền thừa kế của con nuôi…còn gặp nhiều khó khăn, vì các căn cứ pháp lí có liên quan chưa được quy định rõ, có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Do đó việc giải quyết yêu cầu của đương sự ở các cấp tòa án không thống nhất. Các biện pháp chế tài đối với những vi phạm trong lĩnh vực nuôi con nuôi hầu như chưa được quy định, mà chỉ áp dụng chế tài của các ngành luật khác nên hiệu quả không cao, không kịp thời. Trong khi đó thực tế vẫn còn tồn tại hiện tượng lợi dụng danh nghĩa nuôi con nuôi nhằm thực hiện những mục đích trái pháp luật khác như: Trục lợi về vật chất, môi giới trẻ em làm con nuôi người nước ngoài hoặc lợi dụng việc cho nhận con nuôi để hưởng chế độ đãi ngộ của Nhà nước, …
Pháp luật về nuôi con nuôi của nước ta còn nhiều điểm bất cập, chưa rõ ràng, chưa đầy đủ, chưa phù hợp và tương đồng với pháp luật các nước. Nhiều vấn đề quan trọng như hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, hình thức nuôi con nuôi đầy đủ…chưa được quy định và chưa tương thích với pháp luật quốc tế. Pháp luật còn thiếu nhiều quy phạm xung đột điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Còn tồn tại nhiều mâu thuẫn giữa quy định hồ sơ cho nhận con nuôi với pháp luật thực định…Bên cạnh đó việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài phải thực hiện theo cơ chế kí kết hiệp định hợp tác song phương về nuôi con nuôi với các nước, gây không ít tốn kém về thời gian, tiền bạc, nhưng cũng chỉ giải quyết được nhu cầu cho nhận con nuôi giữa hai nước có liên quan. Thực tế đó đã cản trở khả năng tìm cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn một gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng.
Pháp luật về nuôi con nuôi của nước ta được điều chỉnh tản mạn trong nhiều văn bản pháp luật khac nhau, dẫn đến sự thiếu đồng bộ và thống nhất, tính hiệu lực không cao, gây không ít khó khăn trong việc tiếp cận và áp dụng pháp luật. Với xu hướng ngày càng phát triển quan hệ nuôi con nuôi nước ngoài đòi hỏi pháp luật về nuôi con nuôi phải mang tính pháp điển hóa cao,phải minh bạch,rõ ràng và chặt chẽ, để kịp thời điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
Sau đây là một số những điểm bất cập còn tồn tại cần sửa đổi, hoàn thiện về điều kiện nuôi con nuôi:
Thứ nhất: Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi
Khoản 1 điều 68 luật HN&GĐ năm 2000 quy định một số trường hợp ngoại lệ, người được nhận làm con nuôi có thể trên 15 tuổi. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho những hoàn cảnh trên được chăm sóc, nuôi dưỡng, có một chỗ nương tựa thường xuyên trong cuộc sống. Tuy nhiên, trong thực tiễn những trường hợp này ít xảy ra, mặc dù ý tưởng của quy định này là rất tốt đẹp phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc. Điều cần xem xét là tính khả thi của quy định này.
Nghị định 69/CP nêu rõ diện trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có thể được nhận làm con nuôi nước ngoài. Đồng thời cũng mở ra hướng cho phép người nước ngoài được nhận trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo đang chữa bệnh tại nước đó làm con nuôi ( Khoản 4 Điều 36 nghị định 68/CP được sửa đổi bởi khoản 9 điều 1 Nghị định 69/CP). Với quy định này nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn sẽ không thể có điều kiện được nhận làm con nuôi người nước ngoài nếu không được nhận vào các cơ sở nuôi dưỡng hoặc không có quan hệ họ hàng thân thích với người nhận nuôi, do đó hạn chế quyền của trẻ được sống trong gia đình.
Mặt khác, với quy định tại điều 68 luật HN&GĐ sẽ dẫn tới nhận thức là mọi trẻ em từ 15 tuổi trở xuống đều có thể được làm con nuôi, từ đó có thể tạo cơ hội lợi dụng việc nuôi con nuôi vào những muc đích vụ lợi khác. Trong thời gian vừa qua đã có trường hợp lợi dụng việc cho con làm con nuôi của người thương binh, bệnh binh, người có công với cách mạng để hưởng chế độ, chính sách ưu đãi của Nhà nước giành cho đối tượng này. Mặc dù những trường hợp cho nhận con nuôi này được đắng kí tại UBND cơ sở nhưng con nuôi vẫn sống với cha mẹ đẻ, quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi không tồn tại trên thực tế. Có thể thấy xảy ra hiện tượng trên một phần là do quy định của pháp luật về người được nhận làm con nuôi còn quá lỏng lẻo không phù hợp với tâm lý của cha mẹ đẻ. Do đó, cần quy định các điều kiện cụ thể hơn đối với người được nhận làm con nuôi tránh hiện tượng lợi dụng việc nuôi con nuôi vào những mục đích khác làm cho việc nuôi con nuôi bị biến dạng, không đúng với bản chất và mục đích nhân đạo của nó nữa.
Thứ hai Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi:
Có thể thấy các điều kiện của người nhận nuôi đã được quy định một cách tương đối toàn diện. Tuy nhiên vẫn còn một số khía cạnh chưa có quy định cụ thể thiếu rõ ràng nên việc xác định tư cách của người nhận nuôi còn gặp khó khăn. Cụ thể là:
Khoản 2 điều 69 luật HN&GĐ năm 2000 quy định người nhận nuôi con nuôi phải hơn con nuôi từ hai mươi tuổi trở lên.Tuy nhiên trong quan hệ nuôi con nuôi, quy định như vậy có phần chưa cụ thể, thiếu chặt chẽ và không phù hợp với thực tế.
Khoản 4 điều 69 luật HN&GĐ năm 2000 quy định người nhận nuôi con nuôi phải có điều kiện thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Các điều kiện thực tế là gì luật không quy định rõ.
Điều 69 luật HN&GĐ năm 2000 quy định người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải có đủ các điều kiện của người nhận nuôi con nuôi và pháp luật của nước mà người đó là công dân tại Khoản 1 Điều 105 luật HN&GĐ. Theo đó, pháp luật áp dụng để xác định điều kiện của người nhận nuôi là quốc tịch. Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 1 Điều 37 Nghị định 68/CP thì người nước ngoài phải đáp ứng được các điều kiện của người nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật nước nơi người nhận nuôi thường trú . Như vậy, pháp luật quy định không thống nhất về luật áp dụng để xác định các điều kiện của người nhận nuôi.
Thứ ba là Sự thể hiện ý chí của chủ thể có liên quan:
Sự đồng ý của người giám hộ: Theo quy định tại Điều 71 luật HN&GĐ năm 2000 có thể hiểu người giám hộ có quyền thể hiện ý chí cho người mà mình giám hộ làm con nuôi, khi cả cha và mẹ đẻ của người đó đều đã chết, đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc đều không xác định được mà không cần có sự đồng ý của bất cứ người nào trong những người họ hàng thân thích của người đó. Theo chúng tôi quy định này chưa chặt chẽ, có thể tạo điều kiện cho người giám hộ làm con nuôi không vì lợi ích của người được giám hộ mà chỉ vì lợi ích của người giám hộ.
Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi: Trong trường hợp này pháp luật không quy định cụ thể về sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi. Trường hợp người nhận nuôi con nuôi là người đã có vợ, có chồng tại Điều 36 Nghị định 83/1998/NĐ-CP quy định : “ nếu người nhận nuôi đã có vợ hoặc có chồng, thì đơn phải có chữ kí của cả vợ và chồng”. Tuy nhiên quy định này rất tối nghĩa và không rõ ràng. Ngoài ra pháp luật hiện hành không có quy định nào về sự thể hiện ý chí của vợ hoặc chồng trong việc một bên nhận nuôi con nuôi. Do đó,pháp luật cần có quy định cụ thể về vấn đề này.
Thứ tư là Sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền:
Tại điều 72 luật HN&GĐ năm 2000 quy định sự công nhận của nhà nước đối với việc nuôi con nuôi được thể hiện qua việc đăng kí nuôi con nuôi. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy còn có nhiều trường hợp nuôi con nuôi chưa đăng kí tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều đó có thể do nhiều lí do:Trước hết, đó là sự thiếu hiểu biết pháp luật của người dân. Bên cạnh đó do sự quy định của pháp luật về việc nuôi con nuôi trong một thời gian dài trước khi có luật HN&GĐ năm 1986 chưa đấy đủ. Điều đó dẫn đến tình trạng là nhiều trường hợp nhận nuôi con nuôi không đăng kí, nhưng giữa hai bên đã thực hiện đầy đủ mọi quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con đối với nhau, thực tế đã coi nhau như cha mẹ và con. Việc giải quyết một cách hợp lí quyền, lợi ích của các bên trong những trường hợp này là vấn đề cần sớm có giải pháp.
KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên đây, nhóm chúng em hi vọng sẽ đưa lại cho những ai quan tâm đến vấn đề nuôi con nuôi một số hiểu biết nhất định. Đồng thời hi vọng các nhà làm luật sẽ tích cực thúc đẩy việc hoàn thiện luật nuôi con nuôi để việc áp dụng luật trở nên dễ dàng và hiệu quả hơn.
Trên đây là toàn bộ bài làm của nhóm của chúng em. Vì đây là một đề tài khá rộng, có thể tiếp xúc từ nhiều khía cạnh mà khuôn khổ bài tập nhóm có hạn nên có thể bài làm của chúng em không tránh khỏi những thiếu sót. Nhóm 7 lớp N03 chúng em rất mong nhận được sự góp ý từ các thầy, các cô để bài làm được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội 2009
2. Trung tâm đào tạo từ xa, Đại học Huế, Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam, NXB CAND, Hà Nội 2003
3. Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam 2000
4. Luật Nuôi con nuôi 2010
Cảm ơn bạn Nguyễn Thu Hà - K34 ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment