Hiện nay, trộm cắp tài sản là một trong những vấn đề gây bức xúc trong xã hội; tình hình phạm tội không những không suy giảm mà còn có chiều hướng gia tăng và ngày càng phức tạp như phạm tội có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp….. Đứng trước tình hình tội phạm nêu trên, vấn đề được đặt ra cho các cấp chính quyền, cơ quan, tổ chức và cá nhân là phải làm gì và làm như thế nào để loại trừ những hành vi phạm tội ra khỏi đời sống xã hội nhằm giữ gìn trật tự an ninh, kỉ cương. Qua bài tập nhóm Hình sự lần này, chúng em xin phân tích một tình huống cụ thể để làm rõ hơn về loại tội phạm nguy hiểm này.
I. Tình huống:
Khoảng 18 giờ ngày 25/11/2008, C (19 tuổi) đi xe máy của gia đình chở H (17 tuổi) đi chơi rồi rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Đến một quán bán đồ điện, C mua 01 chiếc tuốc nơ vít dài khoảng 30cm và 01 chiếc cà lê dài khoảng 17cm đưa cho H để phá khoá xe máy. C chở H đi lòng vòng một hồi thì thấy có hai chiếc xe máy dựng trước cửa nhà anh D. C dừng xe đợi ở ngoài, H vào dùng tuốc nơ vít phá khoá chiếc xe Jupiter. Thấy có người lại gần, C sợ bị phát hiện bắt giữ nên phóng xe đi trước. Sau khi lấy được xe, H tháo gương, thay bằng biển số giả rồi đem chiếc xe trên đến gửi tại phòng trọ của T. Lúc đó T không biết chiếc xe là do H đã trộm cắp được. Ngày 27/11/2008, sau khi biết chiếc xe do H trộm cắp của người khác, T đã đem chiếc xe trên nộp cho Công an. Chiếc xe trị giá 19.000.000 đồng.
II. Giải quyết tình huống:
1. Theo phân loại tội phạm tại Điều 8 BLHS, hãy xác định tội trộm cắp tài sản thuộc loại tội phạm gì?
* Cơ sở lí luận:
“Căn cứ vào lý luận và thực tiễn xét xử thì trộm cắp tài sản là hành vi lén lút lấy tài sản của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài mà không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực hoặc bất cứ một thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản. Thông thường người phạm tội lợi dụng sự mất cảnh giác của người quản lý tài sản để lấy tài sản mà người quản lý tài sản không hề biết”( )
Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi được quy định tại khoản 2 Điều 8 BLHS, tội phạm được phân thành tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Khoản 3 Điều 8 quy định cụ thể như sau:
- Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù;
- Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là bảy năm tù;
- Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù;
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Như vậy, về hình thức, căn cứ vào mức cao nhất của khung hình phạt được áp dụng đối với từng tội phạm cụ thể. Về tính chất, ta căn cứ vào mức độ gây nguy hiểm cho xã hội.Vì vậy, để phân loại tội phạm đối với tội trộm cắp tài sản, nhà làm luật dựa vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, còn người áp dụng luật dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt được áp dụng trong từng khoản mà nhà làm luật đã quy định. Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 BLHS gồm 5 khoản, trong đó các khoản 1,2,3,4 quy định về các loại tội phạm, cụ thể là:
-Tại khoản 1 Điều 138 BLHS, hành vi trộm cắp tại khoản này có tính nguy hại không lớn cho xã hội: “giá trị tài sản chiếm đoạt từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng; nếu giá trị tài sản dưới hai triệu đồng thì phải thỏa mãn một trong các yếu tố gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt, đã bị kết án về tội chiếm đoạt nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm,…”
Khoản 1 Điều 138 BLHS cũng quy định mức hình phạt trong trường hợp này là: “phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Như vậy, mức cao nhất của khung hình phạt là ba năm tù. Do đó tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 138 là tội phạm ít ngiêm trọng.
-Tội phạm được quy định tại khoản 2 Điều 138 có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn so với loại tội phạm quy định ở khoản 1. Tính chất của hành vi đã mang tính nguy hại lớn cho xã hội, đó là phạm tội thuộc một trong các trường hợp:
a, Có tổ chức;
b, Có tính chất chuyên nghiệp;
c, Tái phạm nguy hiểm;
d, Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
đ, Hành hung để tẩu thoát;
e, Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
g, Gây hậu quả nghiêm trọng;”
Trong khoản này cũng quy định khung hình phạt là phạt tù từ hai năm đến bảy năm, có nghĩa mức cao nhất của khung hình phạt là bảy năm tù. Vì vậy, tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 2 Điều 138 là tội phạm nghiêm trọng.
- Đối với tội phạm được quy định tại khoản 3 Điều138, hành vi tội phạm này gây nguy hại rất lớn cho xã hội: chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên, gây hậu quả rất nghiêm trọng. Với tính nguy hại đặc biệt cho xã hội, khung hình phạt được quy định trong khoản 3 là từ bảy năm tù đến mười lăm năm tù. Như vậy, mức cao nhất của khung hình phạt ở khoản này là 15 năm tù. Vậy nên tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 3 Điều 138 là tội phạm rất nghiêm trọng.
- Tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 4 Điều 138 là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Do mức độ và tính chất của hành vi gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội: chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Nhà làm luật quy định khung hình phạt ở khoản này là từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân vậy nên mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân.
*Áp dụng vào tình huống:
Theo khoản 3 Điều 20 BLHS thì, “phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Như vây, phạm tội có tổ chức là trường hợp nhiều người cố ý cùng bàn bạc, cấu kết chặt chẽ với nhau, vạch ra kế hoạch để thực hiện một tội phạm, dưới sự điều khiển thống nhất của người cầm đầu. Phạm tội có tổ chức là một hình thức đồng phạm có sự phân công, sắp đặt vai trò của những người tham gia; trong đó mỗi người thực hiện một hoặc một số hành và phải chịu sự điều khiển của người cầm đầu. Ở đây phạm tội có tổ chức muốn nhấn mạnh đến quy mô, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
Nhận thấy C và H mặc dù có sự thống nhất với nhau về mục đích, cách thức thực hiện,có hành vi chuẩn bị công cụ phạm tội nhưng chưa đến mức bị coi là phạm tội có tổ chức vì tính chất chuyên nghiệp chưa cao, không nhằm đích hoạt động lâu dài và cũng không lập sẵn kế hoạch từ trước mà nghiêng về tính chất bột phát nhiều hơn. Hành vi trộm cắp xe máy nảy sinh khi C và H rủ nhau đi chơi và sau đó C chở H đi lòng vòng một hồi đến khi thấy hai chiếc xe máy dựng trước cửa nhà anh D cả hai mới quyết định thực hiện hành vi phạm tội của mình.
Hành vi trộm cắp tài sản mà C và H đã thực hiện nhằm chiếm đoạt chiếc xe máy Jupiter trị giá 19 triệu đồng (giá trị tài sản dưới 50 triệu đồng). Bên cạnh đó, đề bài cũng không nhắc đến C và H đã từng bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hay đã bị kết án về tội chiếm đoạt nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
Như đã phân tích, C và H không rơi vào các trường hợp CTTP tăng nặng quy định tại khoản 2 điều 138 BLHS mà chỉ là trường hợp đồng phạm thông thường. Vì vậy, hành vi này thuộc điểm 1 khoản 3 điều 8 BLHS là loại tội phạm ít nghiêm trọng.
2. C và H có bị coi là đồng phạm tội trộm cắp tài sản không?
*Cơ sở lí luận:
Tội phạm có thể do một hoặc nhiều người thực hiện, khi tội phạm được thực hiện bởi nhiều người và hành động có sự liên hệ mật thiết, tác động lẫn nhau thì trường hợp đó được gọi là đồng phạm.
Đồng phạm là hình thức phạm tội “đặc biệt”, đòi hỏi những điều kiện riêng, khác với những trường hợp phạm tội riêng lẻ (về số lượng người tham gia phạm tội, mối liên hệ giữa các đối tượng trong cùng vụ án cũng như tội phạm mà cả nhóm hướng tới thực hiện)...
So với tội phạm do một người thực hiện, đồng phạm thường nguy hiểm hơn, vì khi một nhóm người cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội sẽ tăng lên đáng kể, nhất là khi có sự câu kết chặt chẽ về tổ chức và cách thức thực hiện, phát triển thành “phạm tội có tổ chức”, do đó việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm có một số điểm khác với những trường hợp phạm tội riêng lẻ. Việc xác định trách nhiệm hình sự đối với những người đồng phạm, một mặt phải căn cứ vào những nguyên tắc chung được áp dụng cho tất cả những trường hợp phạm tội, mặt khác phải tuân thủ những nguyên tắc có tính đặc thù.
- Thứ nhất, những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm mà chúng cùng thực hiện.
- Thứ hai, khi xác định trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm cần tuân thủ nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm độc lập về việc đã cùng thực hiện tội phạm. Những người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm về hành vi vượt quá của những người đồng phạm khác mà trước đó không có sự bàn bạc và thống nhất với nhau cũng như không có sự tiếp nhận mục đích của nhau. Những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, miễn trách nhiệm hình sự…được áp dụng riêng đối với từng người phạm tội.
Khoản 1 Điều 20 BLHS có quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Theo quy định này, để thoả mãn vấn đề đồng phạm cần có những điều kiện sau đây:
- Thứ nhất: phải từ hai người trở lên, những người này phải có đủ dấu hiệu về chủ thể của tội phạm. Đây là điều kiện về năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
- Thứ hai: cố ý cùng thực hiện một tội phạm, tức là mỗi người trong đồng phạm đều có hành vi tham gia vào thực hiện tội phạm, hành vi của mỗi người được thực hiện không biệt lập nhau mà trong sự liên kết với nhau, hành vi của người này hỗ trợ, bổ sung cho hành vi của người khác và ngược lại, hành vi phạm tội của mỗi người đều nằm trong hoạt động phạm tội của cả nhóm, với mục đích chung là đạt được kết quả thực hiện tội phạm.
Việc cùng thực hiện tội phạm có thể là trực tiếp thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm (người thực hành), thực hiện hành vi chủ mưu, chỉ huy, cầm đầu việc thực hiện tội phạm (người tổ chức), người thực hiện hành vi kích động, dụ dỗ, xúi giục người khác thực hiện tội phạm (người xúi giục); tạo điều kiện tinh thần hay vật chất cho người khác thực hiện tội phạm (người giúp sức). Nếu không có một trong những hành vi nêu trên thì không thể được coi là người cùng thực hiện và do vậy cũng không thể là người đồng phạm.
*Áp dụng vào tình huống:
Trong trường hợp này, C và H được coi là đồng phạm với nhau về tội trộm cắp tài sản.
Cả C và H đều có năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS.Vì theo như khoản 1điều 12 Bộ luật Hình sự quy định về Tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì:
“Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm”
C và H cùng đi chơi rồi rủ nhau đi trộm cắp tài sản, như vậy hành vi này đã có sự bàn bạc, nhất trí và thống nhất mục đích giữa 2 người. Hơn nữa C và H đã có hành vi chuẩn bị công cụ, phương tiện phạm tội đó là việc C mua 01 chiếc tuốc nơ vít dài khoảng 30 cm và 01 chiếc cà lê dài 17cm rồi sau đó C đã chở H đến chỗ có xe máy để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Ở đây, C là người giúp sức cho H về vật chất để thực hiện tội phạm
3. C có được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội không?
*Cơ sở lí luận:
Điều 19 BLHS có quy định: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự ý mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn TNHS về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành một tội khác, thì người đó phải chịu TNHS về tội này”
Theo đó, chỉ được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội khi thỏa mãn 2 dấu hiệu sau:
- Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn chưa đạt chưa hoàn thành
- Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải là tự nguyện và dứt khoát.
Để được coi là tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, trước hết đòi hỏi việc chủ thể dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm hoàn toàn do động lực bên trong chứ không phải do trở ngại khách quan chi phối. Khi dừng lại, người phạm tội vẫn tin rằng, hiện tại không có gì ngăn cản và vẫn có thể thực hiện tiếp được tội phạm.
Đối với người tổ chức, người xúi giục và người giúp sức, việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải được thực hiện trước khi người thực hành bắt tay vào việc thực hiện tội phạm và phải có những hành động tích cực làm mất tác dụng của những hành vi trước đó của mình, để ngăn chặn việc thực hiện tội phạm ( như thu hồi lại công cụ, phương tiện đã cho mượn).
* Áp dụng vào tình huống:
Đối chiếu với hành động của C ta thấy C không được coi là tự ý dừng nửa chừng chấm dứt việc phạm tội vì một số lí do sau đây:
- C chấm dứt hành vi của mình không phải vì tự nguyện mà do trở ngại khách quan là thấy có người lại gần, C sợ bị phát hiện bắt giữ nên phóng xe đi trước. Nếu như không có người lại gần, C sẽ vẫn cùng thực hiện hành vi phạm tội với H đến cùng.
- Hành vi của C là hành vi giúp sức không trực tiếp làm phát sinh hậu quả nhưng thông qua sự tác động lên hành vi của người thực hành là H để làm phát sinh hậu quả. C bỏ đi khi H đã bắt tay vào thực hiện hành vi phá khóa để trộm chiếc xe máy và không có dấu hiệu nào cho thấy C có hành vi tích cực nhằm ngăn chặn hành vi của H mà cứ thế bỏ mặc cho hậu quả xảy ra
4. Giả sử khi đến gửi xe tại phòng trọ của T, H có nói cho T biết đây là xe vừa trộm cắp được, T cho H gửi xe thì T có bị coi là đồng phạm về tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức không?
* Cơ sở lí luận:
Như ở phần trên đã phân tích, đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cùng cố ý thực hiện một tội phạm. Điều lưu ý về khái niệm đồng phạm là “cùng cố ý thực hiện tội phạm” có nghĩa là người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một trong 4 hành vi đó là thực hiện tội phạm (người thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP); hoặc tổ chức thực hiện tội phạm (tổ chức thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP) hoặc hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm (xúi dục người khác thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP) hoặc hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm (giúp sức người khác thực hiện hành vi được mô tả trong CTTP). Ngoài ra về mặt chủ quan còn đòi hỏi đồng phạm phải có lỗi do cố ý.
* Áp dụng vào tình huống:
Ở đây ta cần xác định: T là đồng phạm với H với vai trò là người giúp sức về tội trộm cắp tài sản hay hành vi của T đã được cấu thành tội phạm độc lập?
Trong tình huống đưa ra thấy rằng, sau khi H đã lấy được xe, tháo gương, thay bằng biển số giả rồi mới đem đến gửi tại phòng trọ của T rồi nói cho T biết chiếc xe máy là đồ trộm cắp. Rõ ràng T không biết hành vi trộm cắp của H cho đến khi hoàn thành và được H cho biết. Như vậy cho thấy T không cùng bàn bạc trước, không có hành vi tổ chức, xúi dục hay giúp sức để H thực hiện hành vi trộm cắp xe máy. Do đó không thể coi T là đồng phạm với H về tội trộm cắp tài sản với vai trò là người giúp sức được.
Hành vi của T có đầy đủ dấu hiệu của CTTP về tội che dấu tội phạm được quy định tại Điều 21 BLHS : “Người nào không hứa hẹn trước nhưng sau khi biết tội phạm được thực hiện, đã che dấu người phạm tội, các dấu vết, tang vật của tội phạm hoặc có hành vi cản trở việc phát hiện, điều tra, xử lý người phạm tội ….” khi T không hứa hẹn trước nhưng sau khi biết tội phạm của H được thực hiện đã che dấu vụ việc, tang vật là chiếc xe máy và tội không tố giác tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 22: “Người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác…” khi biết đó là đồ do H trộm cắp được đã không tố giác cho cơ quan chức năng mà lại cho H gửi xe tại phòng trọ của mình.
Như vậy T không phải là đồng phạm với H với vai trò là người giúp sức mà T có thể bị truy cứu TNHS về tội che dấu tội phạm quy định tại Điều 21 và tội không tố giác tội phạm quy định tại Điều 22 BLHS Việt Nam.
KẾT BÀI
Trộm cắp tài sản là hành vi vi phạm pháp luật cần phải ngăn chặn. Mặc dù đã được quy định cụ thể trong luật nhưng hành vi này vẫn ngày càng gia tăng với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn. Nhận thức được hậu quả mà hành vi này mang lại, qua bài tập lần này chúng em mong rằng mọi người sẽ hiểu rõ hơn về bản chất của loại tội này. Do khả năng hiểu biết và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài làm không tránh khỏi những sai sót. Rất mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để bài làm của chúng em được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 1- trường Đại học luật Hà Nội- NXB Công an nhân dân
2. Bộ luật Hình sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009 )
3. Bình luận bộ luật Hình sự phần các tội phạm – Thạc sĩ luật học Đinh Văn Quế - NXB TP Hồ Chí Minh
4. http://www.luatviet.org/Home/nghien-cuu-trao-doi/hinh-su-to-tung-hinh-su/2009/7955/Van-de-toi-pham-co-to-chuc-va-trach-nhiem-hinh-su.aspx
5. http://www.toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&item_id=11094425&article_details=1
Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!
Cảm ơn bạn Vũ Hoàng Long đã chia sẻ tài liệu này!
Cảm ơn bạn Vũ Hoàng Long đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment