08/05/2014
Bài tập học kỳ Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin - Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và các cơ quan nhà nước ở trung ương
MỞ ĐẦU

Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, ở nước ta, thiết chế Chủ tịch nước là cá nhân được xác lập trở lại để thay thế cho thiết chế Chủ tịch nước là tập thể. Đây là cải cách tất yếu và cần phải có để bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước phù hợp với điều kiện của đất nước và xu thế của thời đại. Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, đại diện cho nhà nước về mặt đối nội, đối ngoại. Chủ tịch nước có mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan nhà nước trung ương như Quốc hội, Chính phủ, Toàn án nhân dân tối cao, viện kiểm soát nhân dân tối cao, … Trong phạm vi bài viết của mình em xin trình bày “Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và các cơ quan nhà nước ở trung ương”.

NỘI DUNG

I. Khái quát chung

Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong hệ thống chính trị. Nhưng mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi (vua, hoàng đế, tổng thống, đoàn chủ tịch, hội đồng liên bang, Hội đồng nhà nước, Chủ tịch nước), vị trí, chức năng khác nhau tùy thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Nhưng có một điểm chung là đều là người đứng đầu Nhà nước, đại diện cho Nhà nước về mặt đối nội, đối ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước. Theo Điều 101, Hiến pháp năm 1992 thì Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa về mặt đối nội và đối ngoại.

Chủ tịch nước được trao nhiều quyền hạn rộng lớn trong cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, là người giữ quyền thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch hội đồng quốc phòng và an ninh. Tuy nhiên, Chủ tịch nước không phải là cơ quan thuộc hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước hoặc cơ quan quản lí nhà nước …

Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước của các quốc gia trên thế giới mặc dù có các tên gọi khác nhau là nghị viện hay Quốc hội nhưng đều đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước. Quốc hội Việt Nam là một cơ quan quan trọng trong hệ thống chính trị Việt Nam, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân Việt Nam và là cơ quan quyền lực Nhà nuớc cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Cơ quan này có ba chức năng chính: lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát tối cao hoạt động của Nhà nước. Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước có mối quan hệ mật thiết trong lĩnh vực lập pháp.

Ở các nước, Chính phủ là cơ quan được trao quyền hành pháp cùng với nguyên thủ quốc gia. Mặc dù có khá nhiều thuật ngữ khác nhau như Hội đồng bộ trưởng, Hội đồng nhà nước, nội các, hội đồng hành chính…, nhưng thuật ngữ “Chính phủ” có ý nghĩa bao quát nhất, hàm ý cơ quan thực hiện quyền hành pháp. Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Chính phủ thống nhất quản lí việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân (theo Điều 109, Hiến pháp năm 1992). Chủ tịch nước và Chính phủ có mối quan hệ chặt chẽ trong lĩnh vực hành pháp.

Với vị trí, chức năng rất quan trọng trong bộ máy Nhà nước ta, Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân có trách nhiệm phối hợp với nhau để giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, khách quan theo luật định nhằm bảo vệ chế độ Nhà nước, bảo vệ nhân dân và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự (theo Điều 134, hiến pháp năm 1992). Còn Viện kiểm sát Nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc Chính phủ, các cơ quan Chính quyền địa phương, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao có mối quan hệ quan trọng với Chủ tịch nước trong lĩnh vực tư pháp.

II. Các mối quan hệ của Chủ tịch nước đối với các cơ quan Nhà nước ở Trung ương

1. Quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội.

Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội, theo nhiệm kỳ của Quốc hội (Khoản 3, điều 102, Hiến pháp năm 1992). Tại kỳ họp đầu tiên sau bầu cử Quốc hội, đại biểu Quốc hội bầu ra Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Sau khi Uỷ ban thường vụ Quốc hội thành lập, chủ tịch Quốc hội thay mặt toàn Uỷ ban thường vụ Quốc hội đề cử chức danh chủ tịch nước. Nếu người đó giành được 2/3 số phiếu của tổng số đại biểu thì được giữ chức danh chủ tịch nước. Ví dụ như trong kì họp Quốc họp diễn ra vào tháng 7/2011. Ngày 25/7/2011, sau khi đắc cử Chủ tịch Quốc hội, ông Nguyễn Sinh Hùng đã đọc tờ trình giới thiệu ông Trương Tấn Sang vào chức danh Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đã được 100% đại biểu Quốc hội nhất trí. Kết quả bỏ phiếu tại Hội trường, đồng chí Trương Tấn Sang được 487/496, đạt tỷ lệ 97,4% so với tổng số đại biểu Quốc hội, trúng cử Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam.

Chủ tịch nước do Quốc hội miễn nhiệm và bãi nhiệm trong trường hợp không còn được tín nhiệm, mắc những sai phạm và có lỗi thiếu trách nhiệm, gây ảnh hưởng lớn đến quốc gia hoặc do lý do sức khoẻ.   

Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước. Chủ tịch nước có quyền công bố hiến pháp, luật và pháp lệnh. Đối với Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực hiện. Chủ tịch nước có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh, pháp lệnh của mình về các vấn đề quy định tại điểm 8 và điểm 9 điều 91 trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày pháp lệnh hoặc nghị quyết được thông qua. Nếu pháp lệnh hoặc nghị quyết đó vẫn được Ủy ban Thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước trình Quốc hội xem xét tại kì họp gần nhất (điểm 7 điều 103).

Chủ tịch nước có chức năng giới thiệu các chức danh đứng đầu các cơ quan trung ương của nhà nước trước Quốc hội để Quốc hội bầu và thông qua. 

Chủ tịch nước phải chịu sự giám sát của Quốc hội (Khoản 2, điều 84), Điều đó thể hiện rõ trong các kỳ họp Quốc hội, chủ tịch nước có trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội, phải trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội. Khi có sai phạm, chủ tịch nước phải tự chịu trách nhiệm trước Quốc hội về những hành vi mình gây ra.

Về ngoại giao, chủ tịch nước trình Quốc hội các điều ước quốc tế đã trực tiếp ký, ký kết các hiệp ước nhưng theo tiêu chí của Quốc hội họp và thông qua (Khoản 10, điều 103, hiến pháp 1992).

Ngoài ra mối quan hệ giữa chủ tịch nước và Quốc hội còn thể hiện ở những điểm sau, chủ tịch nước căn cứ vào quy định của Quốc hội công bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược, công bố lệnh ân xá và đại xá. Và trong trường hợp cần thiết chủ tịch nước có thể đề nghị triệu tập Quốc hội theo kỳ họp bất thường nhằm giải quyết kịp thời các vấn đề đặt ra.

2. Quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ

Quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia và Chính phủ luôn là mối quan hệ mật thiết trong cơ chế nhà nước tư sản. Tuỳ thuộc vào mức độ quan hệ mà phân biệt “Hành pháp lưỡng đầu” và “Hành pháp một đầu”. Trong cơ chế nhà nước ở nước ta, mối quan hệ giữa Chủ tịch nước và Chính phủ tuy không hoàn toàn giống như ở các nước tư bản song cũng có những nét tương tự. Mối quan hệ này được Hiến pháp năm 1992 (có sửa đổi, bổ sung vào năm 2001) và Luật tổ chức Chính phủ hiện hành quy định như sau:

Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ.

Chủ tịch nước căn cứ Nghị quyết của Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (Điểm 4 Điều 103 Hiến pháp năm 1992), quy định này được sửa lại tại Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, theo đó thì Chủ tịch nước chỉ phải căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội để thực hiện những vấn đề này vì thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong lĩnh vực này đã bị huỷ bỏ.

Trong thời gian Quốc hội không họp, Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng.

Chính phủ mời Chủ tịch nước tham dự phiên họp của Chính phủ, trình Chủ tịch nước quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền Chủ tịch nước.

Thủ tướng Chính phủ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện những quyết định của Chủ tịch nước. Các báo cáo công tác của Chính phủ truớc Chủ tịch nước phải được Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số.

Việc xác định mối quan hệ như vậy thể hiện sự tăng cường vai trò của Chủ tịch nước đối với bộ máy hành pháp và bảo đảm sự phối hợp gắn bó giữa Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ.

Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Quan hệ giữa Chủ tịch nước với Toà án nhân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao cũng là mối quan hệ quan trọng. Trước đây, mối quan hệ giữa Chủ tịch nước (Hội đồng bộ trưởng) với hai cơ quan này chưa được quy định rõ. Hiến pháp hiện hành thể hiện mối quan hệ này trên tinh thần bảo đảm cho Chủ tịch nước liên kết phối hợp với tất cả các cơ quan trong cơ chế nhà nước. 

Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước vớiToà án nhân dân tối cao

Theo hiến pháp năm 1992, chế độ bầu cử Thẩm phán đã được thay bằng chế độ Thẩm phán bổ nhiệm, chỉ trừ đối với các chức vụ Chánh án tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Các chức vụ khác từ Phó chánh án Tòa án Nhân dân tối cao đến thẩm phán tòa án nhân dân cấp huyện, từ Chánh án Tòa án quân sự Trung ương đến Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm.

Trong thời gian Quốc hội không họp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. 

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm.

3.2. Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Viện kiểm sát nhân dân tối cao

Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 8 tháng 10 năm 1992 đã có những quy định sau:

Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm viện trưởng viện kiểm sát tòa án nhân dân tối cao.

Chủ tịch nước bổ nhiêm, miễn nhiệm, cách chức Phó viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Trong thời gian Quốc hội không họp, Viện trưởng viện kiểm sát tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước  Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.

Báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải được Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Nếu viện trưởng không nhất trí với ý kiến đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì phải thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch nước.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm.

Qua quy định trên đây của HIến pháp và các Luật tổ chức Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể rút ra kết luận sau về tính chất, vị trí của Chủ tịch nước trong bộ máy nhà nước.

4. Nhận xét chung

Hiến pháp 1992 ra đời đã kế thừa được những ưu điểm của Hiến pháp 1946 và 1959 vừa kế thừa được những mặt tích cực mà hiến pháp 1980 có được, đó là sự gắn bó giữa Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội với chủ tịch nước trong thực hiện chức năng nguyên thủ Quốc gia. Hiến pháp 1992 còn là sự phát triển, thể hiện sự đổi mới mang tính tiến bộ. Cụ thể: Hiến pháp 1992 đã tách chủ tịch nước thành một thiết chế riêng chứ không phải là một cơ cấu nằm trong Quốc hội như hiến pháp 1980 hoặc gắn với hành pháp như như hiến pháp 1946, 1959 và một số nguyên thủ quốc gia của đa số các nước tư bản. 

Từ sự phân tích trên ta có thể nhận thấy chế định Chủ tịch nước ta hiện nay nghiêng về cơ quan lập pháp hơn hành pháp, điều này thể hiện ở chỗ: Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, có nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và chính thức hóa hoạt động của Quốc hội…

Theo dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 (năm 2013) được thông qua ngày 28/11/2013 chính thức có hiệu lực vào ngày 1/1/2014, Chủ tịch nước có xu hướng được tăng thẩm quyền. Cụ thể, nếu Hiến pháp 1992 thể hiện “Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Khi xét thấy cần thiết, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ” (Điều 105). Tuy nhiên để khẳng định mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan này, Dự thảo không chỉ quy định “Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội, của Chính phủ.” Mà còn khẳng định “Khi cần thiết, Chủ tịch nước yêu cầu Chính phủ họp bàn về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước” (Điều 95, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 năm 2013). Đồng thời dựt hảo quy định rõ hơn nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước trong việc thống nhất lực lượng vũ trang (Khoản 5, Điều 93), bổ sung và làm rõ hơn thẩm quyền của chủ tịch nước trong việc quyết định, đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh nhà nước, trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế, quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập các điều ước quốc tế theo thẩm quyền do Quốc hội quy định (Khoản 6, Điều 93, Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 năm 2013).

KẾT LUẬN

Như vậy, mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan Nhà nước ở trung ương là những mối quan hệ mật thiết, gắn bó hữu cơ không thể tách rời.  Nhà nước thì cần phải thiết chặt hơn nữa mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan Nhà nước ở trung ương và cần phải làm cho thể chế Chủ tịch nước ngày càng phát huy được vai trò, vị trí, chức năng quan trọng của mình trong bộ máy nhà nước và trong đời sống xã hội, giúp đất nước tiến xa, vươn cao trên trường quốc tế.

Cảm ơn bạn Phạm Hồng Thơ đã chia sẻ tài liệu này!

1 comment:

  1. Đất tại công trường phải đủ ổn định để mang tải từ các công trình qua các bước chân mà không trải qua các khu định cư không mong muốn trong quá trình xây dựng và trong thời gian phục vụ.

    Chức năng này của đất được kiểm tra thông qua quá trình điều tra địa điểm. Do đó, vị trí xây dựng được xử lý và nén chặt dựa trên báo cáo điều tra địa điểm. Lượng đầm nén cần thiết cho đất trong khu vực tương ứng khác nhau tùy theo từng địa điểm.

    Để xác định lượng đầm nén theo yêu cầu của đất và hàm lượng nước tối ưu tại độ nén, các thử nghiệm đầm nén được tiến hành trên đất từ ​​vị trí trong phòng thí nghiệm.

    >> Xem thêm tại: Mật độ khô tối đa và độ ẩm tối ưu của đất

    ReplyDelete