26/09/2013
Phân tích nội dung hợp tác kinh tế – thương mại của ASEAN trong giai đoạn hiện nay và sự tham gia của Việt Nam
Trong bối cảnh hiện nay khi hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hợp tác quốc tế là xu thế chung của các quốc gia trên thế giới. Trong quá trình hợp tác quốc tế đã hình thành nên các tổ chức quốc tế khu vực cũng như toàn cầu quan trọng như ASEAN, Liên hợp Quốc, EU… Trong khu vực Đông Nam Á, ASEAN là tổ chức đại diện cho tinh thần hữu nghị hợp tác của các quốc gia trong khu vực. Và Việt Nam cũng là một trong số các thành viên của tổ chức. Từ lâu hợp tác kinh tế – thuơng mại đã được các quốc gia thành viên của tổ chức chú trọng, quan tâm và coi là lĩnh vực hợp tác then chốt của tổ chức. Với tầm quan trọng như vậy, trong giới hạn bài tập này, nhóm 02 chúng em xin đi vào tìm hiểu đề tài “Phân tích nội dung hợp tác kinh tế – thương mại của ASEAN trong giai đoạn hiện nay và sự tham gia của Việt Nam”. Do hiểu biết và tầm nhìn còn nhiều hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong các thầy cô giáo góp ý để kiến thức của chúng em thêm hoàn thiện. Chúng em xin chân thành cảm ơn!

NỘI DUNG

I. Khái quát về sự hình thành ASEAN.

1. Quá trình hình thành:   

Từ sau năm 1945, nhiều quốc gia đã ra đời dưới những hình thức khác nhau ở Đông Nam Á (1). Sau khi giành được độc lập, nhiều nước Đông Nam Á đã có dự định thành lập một tổ chức khu vực nhằm tạo nên sự hợp tác phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật và văn hóa; đồng thời hạn chế ảnh hưởng của các nước lớn đang tìm cách biến Đông Nam á thành “sân sau” của họ. Trong quá trình tìm kiếm sự hợp tác giữa các nước Đông Nam Á, nhiều tổ chức khu vực đã xuất hiện và một số hiệp ước giữa các nước trong khu vực được ký kết như: Hiệp ước Hữu nghị và Kinh tế Đông Nam Á (SEAFET), Hiệp hội Đông Nam Á (ASA) tổ chức MAPHILINDO (2). Tuy nhiên, những tổ chức và Hiệp ước đó đều không tồn tại được lâu do những bất đồng giữa các nước về vấn đề lãnh thổ và chủ quyền. ASA, MAPHILINDO không thành công, nhưng nhu cầu về một tổ chức hợp tác khu vực rộng lớn hơn ở Đông Nam Á ngày càng lớn. Trong khi đó, sau Chiến tranh Thế giới thứ II, các trào lưu hình thành “chủ nghĩa khu vực” trên thế giới đã xuất hiện và cùng với nó là sự ra đời của Cộng đồng Kinh tế Châu Âu (EEC); Khu vực Thương mại Tự do Mỹ Latin (LAFTA); Thị trường chung Trung Mỹ (CACM)….Việc thành lập các tổ chức khu vực này đã tác động đến việc hình thành ASEAN(3). Sau nhiều cuộc thảo luận, ngày 8/8/1967, Bộ trưởng Ngoại giao các nước Indonesia, Thái Lan, Philippines, Singapore và Phó Thủ tướng Malaysia ký tại Bangkok bản Tuyên bố thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association of Southeast Asian Nations -  ASEAN). Từ 5 nước thành viên ban đầu, đến nay ASEAN đã có 10 quốc gia thành viên (4). Thực tiễn đã chứng minh rằng, một Đông Nam Á thống nhất đã thúc đẩy cho hợp tác và vị thế ASEAN ngày càng lớn mạnh, là tiền đề quan trọng để ASEAN trở thành một cộng đồng.

2. Mục tiêu hoạt động của ASEAN:

Mục tiêu phát triển của ASEAN được nêu trong Hiến chương ASEAN gồm: Thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục và sự tiến bộ xã hội của các nước thành viên; Xây  dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa bình, ổn định có nền kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển; Giải quyết những nội bộ liên quan đến mối quan hệ giữa ASEAN với các nước, các khối nước và các tổ chức quốc tế khác; Đoàn kết hợp tác vì một ASEAN hòa bình, ổn định, cùng phát triển. Sự ra đời của ASEAN đánh một dấu mốc quan trọng trong lịch sử khu vực và thế giới, là cầu nối của các quốc gia trong khu vực. Trải qua bốn thập kỷ hoạt động và phát triển, từ một tổ chức non trẻ, sự hợp tác trong khu vực còn lỏng lẻo, chưa có vị thế trên trường quốc tế, ASEAN đã lớn mạnh thành một trở thành một thực thể chính trị – kinh tế gắn kết, có vai trò quan trọng đóng góp cho hòa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực và là đối tác không thể thiếu của các nước và các tổ chức lớn trên thế giới.

II. Nội dung hợp tác kinh tế – thương mại của ASEAN trong giai đoạn hiện nay.

Với tổng thể nền kinh tế có quy mô lớn và dân số hơn nửa tỷ người, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á – ASEAN được nhận định có nhiều tiềm năng trở thành một trung tâm kinh tế sánh ngang với Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil và Nga. Hiện nay, ASEAN đang tăng cường hội nhập để tối ưu hóa khả năng hiệp lực trong khu vực và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, cam kết thúc đẩy nhanh kế hoạch thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015 bất chấp những thách thức từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cụ thể hợp tác kinh tế – thương mại của ASEAN trong giai đoạn hiện nay bao gồm những nội dung sau đây:

1. Hợp tác nội khối: 

Nội dung hợp tác chủ yếu và đặc biệt quan trọng của ASEAN là thúc đẩy tự do hóa kinh tế – thương mại và hợp tác kinh tế nội khối. ASEAN nhận thức rằng không thể hợp tác kinh tế có hiệu quả nếu không thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên trong khu vực. Vì vậy, ASEAN đã thực sự bắt tay vào việc tiến hành các chương trình hợp tác nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, điều này thể hiện rõ trong sáng kiến hội nhập ASEAN và thể hiện ở một số chương trình chiến lược hợp tác kinh tế – thương mại nội khối nổi bật sau:

Về Tự do hóa thương mại hàng hóa

Nội dung của tự do thương mại hàng hóa chính là hoàn thành khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). ASEAN sẽ tự do hóa thương mại dựa trên việc thúc đẩy hoàn thành cơ chế đã có – AFTA. Các biện pháp mà bản kế hoạch tổng thể AEC đã đề ra và đang được thực hiện là: xóa bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan; thực hiện các quy định về xuất xứ; thuận lợi hóa thương mại liên kết trong lĩnh vực hải quan; cơ chế hải quan một cửa; áp dụng các tiêu chuẩn và hàng rào kỹ thuật với thương mại… Theo lộ trình cam kết của các nước thành viên ASEAN, thuế quan sẽ được  xóa bỏ hoàn toàn với các sản phẩm vào năm 2010 với ASEAN-6 và 2015 với các nước ASEAN-4, hàng rào phi thuế quan được xóa bỏ vào năm 2015. ASEAN sẽ đẩy nhanh tiến trình xóa bỏ các rào cản phi thuế và nâng cao các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại bằng việc: Xem xét lại các sản phẩm chưa được đưa vào danh mục ưu đãi của AFTA để nhưng sản phẩm này phù hợp với những quy định của CEPT, Thực hiện các quá trình kiểm tra và thông báo chéo, Cập nhật các biện pháp phi thuế quan cho các nước ASEAN… Cuối cùng sẽ tiến tới loại bỏ tất cả các biện pháp phi thuế quan. Ngoài ra, các nguyên tắc xuất xứ (ROO) và các quy định về công nhận lẫn nhau (OCP) sẽ tiếp tục cải thiện, đồng thời với việc thực hiện các chương trình thuận lợi hóa thương mại như hài hòa hóa thuế quan, sáng kiến cửa sổ ASEAN duy nhất… Năm 2009, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 14 tại Thái Lan đã thông qua hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) để thay thế CEPT và đã có hiệu lực từ ngày 17/05/2010. Đây là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương mại hàng hóa trong nội khối, được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết trong CEPT và các hiệp định, nghị định thư có liên quan. Mục tiêu của hiệp định này là đạt được sự lưu chuyển tự do của hàng hóa trong ASEAN như một trong những công cụ chính để xây dựng thị trường và cơ sở sản xuất chung hướng tới hội nhập kinh tế sâu sắc hơn trong khu vực và hướng tới thực hiện cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) vào năm 2015.

Tự do hóa thương mại dịch vụ và tự do di chuyển lao động lành nghề: 

 Tự do lưu chuyển thương mại dịch vụ là một trong những yếu tố quan trọng để thực hiện hóa AEC. Mục tiêu mà AEC hướng tới là căn bản sẽ không có sự hạn chế nào với những nhà cung cấp dịch vụ ASEAN trong việc cung cấp dịch vụ và trong việc thành lập những công ty xuyên quốc gia trong khu vực. Nội dung của tự do dịch vụ theo AFAS được tiến hành thông qua những vòng đàm phán chủ yếu của Ủy ban phối hợp về dịch vụ. Đàm phán trong những khu vực dịch vụ đặc biệt như dịch vụ tài chính, hàng không được tiến hành bởi hội đồng bộ trưởng tương ứng của khu vực. Ngoài ra AFAS cũng bao gồm một nội dung khác là các thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRAs) nhằm tạo thuận lợi cho tự do hóa dịch vụ. Để hỗ trợ cho việc thực hiện AFAS, một nội dung quan trọng đã được bổ sung là tự do di chuyển lao động có tay nghề. Nội dung này được thực hiện thông qua việc tạo thuận lợi hơn trong cấp visa, giấy phép hành nghề, tăng cường hợp tác trong khuông khổ mạng lưới các trường đại học ASEAN, xây dựng các kỹ năng, tiêu chuẩn nghề nghiệp cơ bản; tăng cường năng lực nghiên cứu của các nước, xây dựng mạng lưới thông tin về thị trường lao động khu vực.

Tự do hóa đầu tư và tự do di chuyển vốn hơn.  

Tự do hóa đầu tư sẽ được thực hiện bằng nỗ lực hoàn thành khu vực đầu tư ASEAN, thông qua việc thực hiện hiệp định khung về khu vực đầu từ ASEAN (AIA). Tuy nhiên, tại hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 14, ASEAN đã ký hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) để thay thế cho hiệp định AOA và hiệp định khuyến khich và bảo hộ đầu tư (IGA). So với AIA và IGA, ACIA có các quy định rõ ràng hơn và cam kết cao hơn ở một số nội dung như: cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước và nhà đầu tư; chuyển vốn, lợi nhuận, cổ tức minh bạch trong tịch biên tài sản và bồi thường. Khu vực đầu tư ASEAN gồm ba nội dung chính là: Chương trình hợp tác và tạo thuận lợi cho đầu tư; Chương trình xúc tiến và quảng bá đầu tư; Chương trình tự do hóa đầu tư.

Xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)(5)

Năm 2009, để hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), các nước thành viên ASEAN đã tập trung thực hiện 3 biện pháp chính sau: Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế pháp lý cho AEC; Thứ hai, tăng cường cơ chế giám sát, thực thi các thỏa thuận kinh tế đã đạt được thông qua Biểu đánh giá AEC (AEC Scorcard); Thứ ba, nâng cao nhận thức của cộng đồng về AEC thông qua chương trình truyền thông ASEAN. Biện pháp thứ nhất đã được hoàn thiện bằng việc ký kết 3 thỏa thuận quan trọng, bao gồm: Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA) (6); Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) và Gói cam kết thứ 7 về dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định khung về dịch vụ ASEAN (AFAS). Biện pháp thứ hai về cơ bản đã phát huy hiệu quả thực chất, có 87/124 văn kiện pháp lý được ký kết liên quan tới AEC đã có hiệu lực (chiếm hơn 70%). Biện pháp thứ ba cũng đã được một số thành viên ASEAN áp dụng sáng tạo và có hiệu quả, cụ thể như phổ biến thông tin, kiến thức cập nhật về AEC, thiết lập thêm kênh trao đổi thường xuyên giữa các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp của ASEAN. ASEAN cũng nhất trí xác định 12 lĩnh vực ưu tiên đẩy nhanh liên kết với lộ trình hoàn thành đến năm 2010, đó là: Hàng nông sản; Ô tô; Điện tử; Nghề cá; Các sản phẩm từ cao su; Dệt may; Các sản phẩm từ gỗ; Vận tải hàng không; Thương mại điện tử ASEAN; Chăm sóc sức khoẻ; Du lịch; và Logistics. Để đẩy mạnh các nỗ lực hình thành Cộng đồng Kinh tế (AEC), ASEAN đã thông qua Kế hoạch tổng thể xây dựng trụ cột này, là một bộ phận trong Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN được thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN-14 (tháng 2/2009), với các quy định chi tiết về định nghĩa, quy mô, cơ chế và lộ trình thực hiện AEC.

Hiện nay, Hợp tác nội khối ASEAN hiện đang đứng trước không ít khó khăn. Mặc dù thương mại nội khối ASEAN đã duy trì ở mức ổn định 25% tổng khối lượng thương mại toàn khu vực, song nếu so với trao đổi thương mại nội khối của EU (hơn 70%), thì rõ ràng mức hội nhập và liên kết nội khối của ASEAN chưa cao. Điều quan trọng nữa là mức chênh lệch phát triển giữa các quốc gia phát triển ASEAN 6 (Brunei, Indonexia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore) với ASEAN 4 khá cao – được coi là yếu tố cản trở chính của sự liên kết kinh tế.  Chênh lệch phát triển trong ASEAN chủ yếu tập trung ở 4 lĩnh vực chủ yếu (4I), gồm kết cấu hạ tầng (Infrastructure); thu nhập (Income); liên kết (Integration) và thể chế (Institutional).

2. Hợp tác ngoại khối:  

 Bên cạnh việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế nội khối, ASEAN có khuynh hướng “mở” với các đối tác ngoài khối thông qua các hình thức hợp tác kinh tế, thương mại. Hợp tác kinh tế của ASEAN với các đối tác bên ngoài được triển khai từ giữa những năm 90 của thế kỷ XX chủ yếu là với các đối tác lớn như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Ấn Độ, Liên minh châu Âu (EU)… Hai nền kinh tế “đầu tàu” của khu vực – Nhật Bản và Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng – là những yếu tố thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế ASEAN. Hai chiến lược kinh tế cơ bản của AEC chính là hội nhập kinh tế khu vực và tăng cường hợp tác kinh tế bên ngoài, để đạt được mục tiêu trở thành một “khu vực hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế toàn cầu”, phù hợp với tính chất là một Cộng đồng kinh tế mở. Do vậy, tăng cường hợp tác kinh tế với các đối tác bên ngoài khu vực chính là một nội dung trọng tâm trong tiến trình xây dựng AEC, mà tập trung vào ba khía cạnh sau: Thứ nhất, tham gia tích cực vào hệ thống thương mại đa phương toàn cầu trong khuôn khổ tổ chức thương mại thế giới WTO (Các cam kết tự do hóa trong khuông khổ WTO chính là mục tiêu để tham chiếu cho hội nhập kinh tế khu vực. Hiện nay, cả 9 nước ASEAN đều là thành viên của WTO, chỉ còn Lào là đang trong quá trình đàm phán gia nhập. Tuy nhiên, cả Việt Nam và Campuchia là những thành viên mới gia nhập nên vẫn trong quá trình hoàn tất thực thi các cam kết với WTO); Thứ hai, tham gia tích cực vào hợp tác kinh tế Đông Á và diễn đàn Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) (Cơ chế hợp tác Đông Á của ASEAN là các cơ chế ASEAN +1, ASEAN +3 và hội nghị thượng đỉnh Đông Á. Năm 2002, nhóm nghiên cứu Đông Á đã đưa ra 26 biện pháp để thúc đẩy hợp tác kinh tế Đông Á và tiến tới 1 khu vực thương mại toàn Đông Á cũng như sớm hình thành một cộng đồng kinh tế trong tương lai); Thứ ba, tham gia tích cực hợp tác với các bên đối thoại thông qua các AFTA. Hiện nay, ASEAN đã và đang tiếp tục đàm phàn khu vực mậu dịch tự do/hiệp định đối tác kinh tế toàn diện (FTA/CEP) với các đối tác khu vực là ASEAN đã ký kết các hiệp định FTA với một số đối tác lớn như Trung Quốc (đã có hiệu lực từ ngày 1-1- 2010), Nhật Bản (có hiệu lực từ năm 2008), Hàn Quốc (có hiệu lực từ tháng 6-2007), Ấn Độ (từ tháng 8-2009), Ô-xtrây-li-a và Niu Di-lân (từ ngày 27-2-2009 và có hiệu lực sau năm 2010). Năm 2010, thương mại giữa ASEAN và 3 nước Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản tăng 28,9%, đạt 533,3 tỷ USD, chiếm 26,1% tổng giá trị thương mại của ASEAN trong cùng kỳ.. ASEAN đã hoàn tất hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Úc – Niu Di-lân (AANZFTA) vào tháng 2/2009 tại hội nghị cấp cao ASEAN – 14 và hiệp định đầu tư ASEAN – Hàn Quốc tại Hội nghị cấp cao kỷ niệm ASEAN – Hàn Quốc ngày 1-2/6/2009. ASEAN cũng đã kết thúc đàm phán và ký kết hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN – Ấn Độ (AITIG) vào tháng 08/2009. Các hiệp định này cùng với các hiệp định đã ký trước của ASEAN với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản vẫn duy trì mức độ liên kết kinh tế thấp hơn các hiệp định trong nội bộ ASEAN. Ngoài ra, ASEAN cũng đẩy mạnh quan hệ kinh tế ở các cấp độ khác nhau với Hoa Kỳ, Canada, Nga, Pakistan…và đang tiến tới mục tiêu sớm hoàn thành các FTA với Hoa Kỳ và EU.

Nội dung Hợp tác kinh tế- thương mại giữa ASEAN và EU.

EU –bước đầu tạo cơ sở cho việc đàm phán một thoả thuận thương mại ưu đãi khu vực trong tương lai với ASEAN bằng việc đưa ra Sáng kiến Thương mại Liên khu vực ASEAN – EU (TREATI) như là một sáng kiến về hợp tác kinh tế trên cơ sở khu vực với khu vực gồm đối thoại và những hoạt động chung trong những lĩnh vực kinh tế đôi bên cùng có lợi (7). Việc EU đưa ra Sáng kiến Thương mại Liên khu vực ASEAN – EU  cho thấy EU nhìn nhận ASEAN là một khu vực kinh tế quan trọng, một thị trường tiềm năng, một đối tác chiến lược cần tăng cường hợp tác. Ước tính tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu từ ASEAN sang EU đạt 6,7% mỗi năm. Đáng chú ý là vị trí của EU luôn được giữ vững với tỷ trọng trong tổng xuất khẩu của ASEAN trong khoảng 14%-16%. Tính trung bình cả giai đoạn 1993-2003, thị trường EU chiếm tới 14,7% tổng xuất khẩu của ASEAN, giữ vững vị trí thứ hai sau Hoa Kỳ (18,5%) và đứng trên Nhật Bản (12,7%). Không chỉ trong lĩnh vực thương mại mà xét về đầu tư cũng có thể thấy được mối hợp tác chặt chẽ giữa EU và ASEAN(8).. Năm 2005, EU và ASEAN đã thành lập Nhóm Tầm nhìn về quan hệ đối tác kinh tế ASEAN-EU để nghiên cứu khả thi việc đàm phán và thiết lập Khu vực thương mại tự do ASEAN-EU nhằm tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác và liên kết kinh tế giữa hai bên. Dựa trên báo cáo và khuyến nghị của Nhóm Tầm nhìn, tháng 5 năm 2007, các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và Cao ủy Thương mại EC đã quyết định khởi động đàm phán Khu vực Thương mại Tự do giữa EU với cả khối ASEAN (cách tiếp cận khu vực-khu vực). Tuy nhiên, do một số nguyên nhân, quá trình đàm phán đã không đạt được tiến triển như mong đợi. Vì vậy, các bên đã quyết định tạm dừng các cuộc đàm phán khu vực-khu vực giữa EU và ASEAN. Tuy nhiên hiện nay, một số nước ASEAN như Ma-lai-xi-a, Singapore đang tiến hành đàm phán các Hiệp định Thương mại tự do song phương (FTA) với EU.

Nội dung Hợp tác kinh tế- thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc.

Kể từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX, kim ngạch buôn bán hàng năm Trung Quốc và ASEAN tăng bình quân 20%, riêng năm 2004, kim ngạch buôn bán hai chiều Trung Quốc  – ASEAN đạt 105,8 tỷ USD. ASEAN hiện nay là đối tác buôn bán lớn thứ 4 của Trung Quốc và Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 5 của ASEAN. Nhiều doanh nghiệp, công ty của ASEAN đã có đầu tư khá lớn vào Trung Quốc và ngược lại những năm gần đây dòng vốn đầu tư nước ngoài của Trung Quốc vào ASEAN cũng tăng lên. Sự hợp tác kinh tế thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN phát triển từ giai đoạn thấp đến giai đoạn phân công ở trình độ cao, từ trao đổi thương mại hàng hóa đến hợp tác đầu tư, hợp tác lao động, thực hiện quyền sở hữu trí tuệ…. Trước đây mối liên hệ thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN chủ yếu thông qua đường biển, nay Trung Quốc và ASEAN mở thêm đường bộ, đường sắt nối thông với nhau làm cho tốc độ và phạm vi trao đổi hàng hóa tăng lên, thúc đẩy các địa phương ở Tây Nam Trung Quốc tăng cường hợp tác với ASEAN. Hai bên sẽ hình thành hành lang kinh tế xuyên quốc gia từ Côn Minh đi Singapore, hoặc từ Côn Minh đi thành phố Hồ Chí Minh. Hành lang kinh tế này sẽ có tác dụng thúc đẩy kinh tế của các địa phương nằm dọc theo hành lang, tiềm năng hợp tác kinh tế giữa hai bên sẽ được phát triển. Trao đổi thương mại giữa hai bên và trao đổi tiền tệ quốc tế đang thúc đẩy các bên hình thành một khung phân công hợp tác cao hơn với nhiều tầng lớp khác nhau. Sự phân công này từ trao đổi hàng hóa, cung cấp nguyên vật liệu đến hợp tác chuyên môn hóa về thành phẩm, sản xuất các sản phẩm mới có khả năng cạnh tranh cao, do có ưu thế về chi phí thấp nhất là nguồn lao động dồi dào, trình độ công nghệ từng bước hiện đại. Điều này tạo khả năng biến khu vực hợp tác kinh tế Trung Quốc – ASEAN và toàn bộ khu vực Đông Á sẽ trở thành cơ sở sản xuất lớn của thế giới, từ đó có thể hình thành các tập đoàn công ty xuyên quốc gia. Hiện nay do trình độ phát triển kinh tế của các nước ASEAN khác nhau, nên sự hợp tác kinh tế thương mại giữa các nước ASEAN và Trung Quốc cũng ở mức độ khác nhau, chia làm 2 nhóm. Trước hết là nhóm các nước có trình độ công nghệ còn lạc hậu, nền kinh tế quy mô nhỏ, có kim ngạch buôn bán với Trung Quốc còn ở mức thấp như Việt Nam, Mianma, Lào, Campuchia. Đối với những nước này, Trung Quốc thường xuất siêu trong quan hệ thương mại và phân công trong sản xuất, trao đổi các mặt hàng ở mức cấp thấp. Trung Quốc có nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu và xuất khẩu hàng thành phẩm sang các nước này. Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu hơn 30% dầu thô sang Trung Quốc, ngoài ra có tới hơn 20% các mặt hàng khác như trái cây, cao su….. Mianma chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc mặt hàng gỗ. Trung Quốc xuất khẩu nhiều hàng nhiên liệu, hàng cơ điện và dệt may, phân hóa học… sang Việt Nam và nhiều nước. Nhóm nước thứ hai gồm 5 nước có kim ngạch buôn bán lớn với Trung Quốc, bao gồm Singapore, Thái Lan, Malaysia, Indonexia, Philippines. Tới nay Trung Quốc vẫn xuất siêu sang các nước này. Tuy nhiên sự phân công hợp tác của hai bên là sản xuất và trao đổi những mặt hàng cao cấp vì trình độ phát triển công nghiệp của nước này cũng cao hơn so với nhóm các nước trên. Trung Quốc có thể nhập các mặt hàng như dầu thô, hóa chất hoặc sản phẩm luyện kim…. Về hàng gia công, hiện nay 2 mặt hàng lớn nhất mà Trung Quốc có ưu thế là hàng dệt may và cơ điện. Trung Quốc là nước cung cấp chủ yếu hàng dệt may cho 5 nước này, hàng năm bình quân chiếm tới 10% hàng xuất khẩu của Trung Quốc. Đồng thời Trung Quốc cũng là nước xuất khẩu hàng cơ điện lớn cho thị trường các nước này. Khu vực tự do thương mại (FTA) giữa Trung Quốc và ASEAN (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thailand)  đã chính thức đi vào hoạt động ngày 1/1/2010, với khoảng 9.000 nhóm hàng hóa và dịch vụ được miễn giảm thuế. Theo đó, thúc đẩy thương mại toàn khu vực, song sự cạnh tranh ở một số ngành sẽ trở nên gay gắt hơn. Khu vực thương mại tự do Trung Quốc – Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) gồm 1,9 tỷ dân, với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) chung lên tới gần 6.000 tỷ USD. Theo các chuyên gia, với FTA này, các ngành được hưởng lợi nhiều nhất gồm ngành dịch vụ, xây dựng, cơ sở hạ tầng và sản xuất. Đây là khu vực thương mại lớn nhất thế giới về mặt dân số và lớn thứ 3 thế giới về khối lượng giao dịch, sau Liên minh châu Âu (EU) và khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Với việc thành lập khu vực thương mại này sau 8 năm đàm phán, thuế quan đối với khoảng 9.000 nhóm hàng hóa và dịch vụ, tương đương 90% tổng trao đổi thương mại song phương, sẽ được cắt giảm hoặc bãi bỏ. Zhang Kening, Tổng giám đốc Ban thương mại quốc tế và các vấn đề kinh tế Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết, mức thuế trung bình mà Trung Quốc áp lên các hàng hoá của ASEAN sẽ giảm xuống còn 0,1% kể từ mức 9,8%. Thuế trung bình mà các nước ASEAN đánh vào hàng hoá Trung Quốc sẽ giảm từ 12,8% xuống còn 0,6%. Theo thoả thuận, Trung Quốc và 6 nước sáng lập ASEAN là Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thailand sẽ bỏ các rào cản đầu tư và thuế với 90% hàng hoá. Các nước thành viên ASEAN khác gồm Việt Nam và Campuchia sẽ có những bước đi tương tự vào 2015. Đặc biệt trong 4 năm qua, hoạt động thương mại đã tăng gấp đôi với việc ký kết các thỏa thuận về trao đổi hàng hóa, dịch dụ và một hiệp ước về khuyến khích đầu tư liên khu vực. Trung Quốc cũng đã chiếm chỗ của Mỹ để trở thành đối tác thương mại lớn thứ 3 của ASEAN và tiến tới sẽ vượt Nhật và EU để trở thành đối tác số 1 của khu vực này trong vòng vài năm đầu của FTA. ASEAN và Trung Quốc hy vọng FTA song phương sẽ mở rộng tầm với thương mại của châu Á trong khi tăng cường giao dịch trong khu vực, giúp hai bên bớt phụ thuộc vào thị trường bên ngoài (7). Tuy nhiên còn nhiều điều phải lo ngại. Bên cạnh Trung Quốc, Hàn Quốc cũng là một đối tác lớn của Việt Nam trong hợp tác kinh tế- thương mại (10).

III. Thực tế sự tham gia của Việt Nam đối với nội dung hợp tác kinh tế – thương mại của ASEAN trong giai đoạn hiện nay.

ASEAN là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của nước ta và là một trong những động lực quan trọng giúp nền kinh tế nước ta duy trì tốc độ tăng trưởng và xuất khẩu trong nhiều năm qua. Với lợi thế là một khu vực phát triển năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN có mức tăng trưởng cao. ASEAN hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, trên cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Hoa Kỳ (11). Điều đó cho thấy sự tích cực của Việt Nam trong việc tham gia các hoạt động hợp tác kinh tế – thương mại của ASEAN, trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác thương mại giữa Việt Nam và các nước trong khu vực ASEAN không ngừng được đẩy mạnh, (điển hình như Malaysia (12)), bên cạnh đó Việt Nam còn tham gia vào một số nội dung hợp tác kinh tế – thương mại của ASEAN, đã góp phần quan trọng vào việc tăng cường hợp tác nội khối ASEAN:

*Hội nhập khu vực mậu dịch tự do của ASEAN: Về việc cắt giảm thuế quan: Năm 2003 là năm rất quan trọng trong tiến trình hội nhập AFTA, CEPT của Việt Nam. Việt Nam đã hoàn thành việc hiện đại hóa cơ cấu thuế quan và thực thi hầu hết các cam kết giảm thuế quan trọng trong khuôn khổ song phương phương và khu vực. Từ ngày 01/07/2003, Việt Nam thực hiện cắt giảm thuế quan đối với 750/14000 dòng thuế nhập khẩu từ các nước ASEAN xuống còn tối đa 20%. Từ năm 2003, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành việc chuyển các loại hàng hóa thuộc Danh mục TEL sang danh mục IL cho tới thời điểm tháng 08/2006, Việt Nam đã hoàn thành việc chuyển toàn bộ các mặt hàng từ danh mục TLE và danh mục SL vào thực hiện CEPT. Mức thuế AFTA trung mình của Việt Nam vào năm 2003 là 9,3%, vào năm 2006 đã giảm xuống còn 2,48%. Việt Nam đã cam kết giảm thuế xuống 0 – 5% cho 6130 mặt hàng tới năm 2006, xuống 0% cho hầu hết các mặt hàng tới năm 2015. Theo danh mục hàng hóa và mức thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt để thực hiện CEPT/AFTA giai đoạn 2006 – 2013, có 10342 mặt hàng đã được đưa vào danh mục cắt giảm thuế, trong đó có 5478 mặt hàng có thuế xuất 0%; 10283 mặt hàng có thuế xuất 0 – 5%. -Về việc thực hiện chương trình thống nhất hoạt động hải quan ASEAN: Từ ngày 1/7/2003, Việt Nam áp dụng danh mục thuế quan hài hòa chung ASEAN (AHTN) thay cho Danh mục biểu thuế quan hiện hành để tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu. Theo đó, danh mục hàng hóa xuất, nhập khẩu được nâng lên 10.689 dòng thuế thay vì 6495 dòng thuế hiện hành. Trong số đó, danh mục cắt giảm thuế ngay sẽ nâng từ 5.559 lên 8.807, danh mục loại trừ tạm thời từ 755 lên 1376, danh mục nông sản nhạy cảm từ 52 lên 91 và danh mục loại trừ hoàn toàn từ 139 lên 415. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã đáp ứng yêu cầu về điều hòa thống nhất hệ thống xác định giá trị hải quan làm căn cứ để tính thuế. Theo Điều 9 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005, giá tính thuế được quy định như sau:+ Giá tính thuế đối với hàng hóa xuất khẩu là giá bán tại cửa khẩu theo hợp đồng;+ Giá tính thuế đối với hàng hóa nhập khẩu là giá thực tế phải trả  tính đến cửa nhập khẩu đầu tiên theo hợp đồng, phù hợp với các cam kết quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã ban hành Luật hải quan 2001, sửa đổi năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Cơ bản, các văn bản này đã phù hợp với đòi hỏi của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. – Về hiệp định khung về Thương mại Dịch vụ trong ASEAN: Việt Nam đã đưa ra cam kết của mình trên cả 7 lĩnh vực dịch vụ ưu tiên. So với cam kết “đầy tham vọng” của các thành viên ASEAN khác, cam kết AFTA của Việt Nam đứng ở mức đảm bảo yêu cầu chung của ASEAN.

- Hiệp định khung v Khu vực Đầu tư ASEAN – AIA: Trong giai đoạn đầu thực hiện AIA, Việt Nam đã hoàn thành xây dựng danh mục nhạy cảm SL và danh mục loại trừ TEL đối với 5 ngành sản xuất là chế tạo, nông nghiệp khai thác mỏ, lâm ngư nghiệp và các ngành dịch vụ có liên quan đến 5 ngành này. Từ 1/1/2003, Việt Nam thực hiện AIA theo 2 hướng. Chuyển một số ngành SL sang TEL; Giảm bớt số ngành trong TEL bằng cách mở cửa ngành đó cho nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể Việt Nam cam kết thực hiện xóa hết danh mục TEL đối với ngành chế tạo từ 1/1/2010 và 1/1/2013 đối vơi các nhà cam kết còn lại; mở cửa tất cả các ngành nói trên cho các nhà đầu tư ASEAN từ ngày 1/1/2015.

*Hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) của Việt Nam: Về thương mại hàng hóa: trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia xây dựng AEC với thái độ chủ động và tích cực. Đến năm 2010, nước ta đã giảm thuế nhập khẩu cho 10.054 dòng thuế xuống mức 0 – 5% theo CEPT/AFTA, chiếm 97,8%  số dòng thuế trong biểu thuế, trong đó có 5.488 dòng thuế ở mức thuế suất 0%. Nước ta cũng tham gia hợp tác một cách toàn diện cùng các nước ASEAN khác từ các lĩnh vực truyền thống như thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, giao thông vận tải, viễn thông đến các lĩnh vực mới như bảo hộ sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng. Dù trình độ phát triển chưa bằng một số nước trong khu vực, nhưng Việt Nam là một trong 4 thành viên ASEAN có tỷ lệ hoàn thành tốt nhất các cam kết trong lộ trình tổng thể thực hiện AEC. – Về tự do hóa thương mại dịch vụ: Việt Nam đã đưa ra cam kết của mình trên cả 7 ngành dịch vụ ưu tiên, tích cực tham gia vào các vòng đàm phán thương mại dịch vụ để kí kết các gói cam kết dịch vụ theo AFAS. – Về tự do hóa đầu tư: Việt Nam đã triển khai nhiều Chương trình thuận lợi hóa và xúc tiến đầu tư, hiện nay đang tiếp tục rà soát các danh mục loại trừ trong đầu tư, tăng cường hợp tác thu thập thông tin, thống kê đầu tư nhằm cải tiến hơn nữa môi trường đầu tư trong khu vực dịch vụ. Theo số liệu thống kê cho thấy, đến hết năm 2009, Việt Nam đã thu hút được hơn 40 tỉ USD (1.517 dự án) từ các nhà đầu tư ASEAN, bằng khoảng 13,8% về số dự án và trên 26% về số vốn so với tổng vốn FDI mà Việt Nam đã thu hút được. Trong khi đó, con số của Bộ ngoại giao cho biết, Việt Nam đã đầu tư trên 4,77 tỉ USD (269 dự án) vào các nước trong khu vực ASEAN. – Về thu hẹp khoảng cách phát triển: Việt Nam là một trong những nước tích cực nhất trong việc đề xuất và thực hiện các chương trình nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN. Việt Nam đã đưa ra chủ đề này thành chương trình nghị sự nổi bật tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 6 và dấu ấn để lại là sự ra đời của Chương trình hành động Hà Nội và tiếp sau đó là Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển. Đồng thời, Việt Nam đã tham gia tích cực vào các chương trình như: Chương trình hợp tác tiểu vùng sông MêKông mở rộng, Chương trình hành lang kinh tế Đông Tây,… - Về thực hiện hội nhập 12 lĩnh vực đầu tiên: Việt Nam tuy ở vị trí thế yếu khi phải cạnh tranh với các nước ASEAN – 6 song vẫn thực hiện hội nhập hợp lý và tránh đối đầu cạnh tranh trực tiếp mà tận dụng cơ hội hợp tác kinh doanh như liên kết với Thái Lan trong nhóm ngành nông – lâm – ngư sản hay ô tô, liên kết với Singapore trong ngành dịch vụ hàng không, y tế hay giao dịch điện tử,…

* Đẩy mạnh hợp tác ngoại khối ASEAN: Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành các khuôn khổ hợp tác giữa ASEAN và các nước đối thoại như ASEAN+3 (với 3 nước Đông Bắc Á), ASEAN+1 (giữa ASEAN với Trung Quốc; với Nhật; Hàn Quốc; Ấn Độ,; Ôxtrâylia; Niu Dilân). Bên cạnh việc đẩy mạnh hợp tác kinh tế trong khối, ASEAN còn đẩy mạnh hợp tác kinh tế thương mại ra các nước ngoài khối ASEAN, Việt Nam là một trong số những nước ASEAN tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác kinh tế thương mại với các nước ngoài khối ASEAN cụ thể như việc Việt Nam đẩy mạnh hợp tác song phương với Hàn Quốc (13), hai bên hoan nghênh việc thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược ASEAN-Hàn Quốc năm 2010 và nhất trí tăng cường hợp tác xây dựng Cộng đồng chung ASEAN và thực hiện một cách hiệu quả Kế hoạch Tổng thể ASEAN về Kết nối. Ngoài ra, một trong những đối tác quan trọng của Việt Nam ở khu vực Châu Á là Nhật Bản (14). Về quan hệ hợp tác ASEAN với EU hiện nay, việc tạm thời dừng đàm phán FTA khu vực-khu vực không đồng nghĩa với việc dừng các sáng kiến có thể nâng tầm hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại giữa EU với ASEAN cũng như giữa EU với từng nước ASEAN. Là nước điều phối quan hệ hợp tác kinh tế ASEAN – EU, Việt Nam đang nỗ lực hết sức để tăng cường hợp tác thương mại, đầu tư giữa hai bên. Tại Hội nghị tham vấn các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và Cao ủy Thương mại EC vào tháng 8 năm 2010, hai bên đã nhất trí triển khai “Sáng kiến về thương mại và đầu tư” nhằm thắt chặt quan hệ đối tác kinh tế, tăng cường trao đổi thông tin và đối thoại chính sách trong những lĩnh vực liên quan. Trên cơ sở sáng kiến này, Việt Nam đã phối hợp với các nước ASEAN và EU xây dựng “Chương trình làm việc về thương mại và đầu tư ASEAN-EU”. Chương trình làm việc này đã được các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN và Cao ủy Thương mại EC thông qua tại Hội nghị Tham vấn AEM-Cao ủy Thương mại EC lần thứ 10 vào tháng 5 vừa qua (15). Mặt khác, tiềm năng về hợp tác song phương Việt Nam và EU rất lớn (16), nhất là trong bối cảnh Việt Nam và các nước ASEAN đang hướng đến sự hội nhập đầy đủ trong Cộng đồng kinh tế ASEAN cũng như vai trò đang ngày càng được khẳng định của EU tại khu vực Đông Nam Á. Việt Nam và EU cũng đang xem xét khả năng đàm phán Hiệp định FTA song phương trong thời gian tới. Hiệp định này không những góp phần khai thác tiềm năng hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và EU mà còn góp phần thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế giữa ASEAN và EU nói chung. Ngoài ra Việt Nam còn tham gia tích cực vào hệ thống thương mại đa phương toàn cầu trong khuôn khổ tổ chức thương mại thế giới WTO (cụ thể sau 4 năm hội nhập WTO, Việt Nam là những thành viên mới gia nhập nên vẫn trong quá trình hoàn tất thực thi các cam kết với WTO); tham gia tích cực vào APEC (kể từ khi trở thành thành viên chính thức của APEC (tháng 11-1998), Việt Nam luôn tham gia một cách tích cực, chủ động và có trách nhiệm với những đóng góp quan trọng cho Diễn đàn.).. (17).

Dù trình độ phát triển chưa bằng một số nước khác trong khu vực nhưng Việt Nam được đánh giá là một trong bốn thành viên ASEAN có tỷ lệ hoàn thành tốt nhất các cam kết trong lộ trình tổng thể thực hiện AEC. Một số khuyến nghị phát huy vai trò của Việt Nam trong việc tham gia của Việt Nam đối với nội dung hợp tác kinh tế – thương mại của ASEAN trong giai đoạn hiện nay – Hướng tới mục tiêu hoàn thành AEC năm 2015, Việt Nam cần tập trung vào các ưu tiên sau: Hoàn thành đúng hạn các cam kết Việt Nam đã ký kết để xây dựng AEC, Thúc đẩy đoàn kết và hợp tác ASEAN, đẩy mạnh liên kết khu vực nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN, hoàn tất việc đưa hiến chương ASEAN vào cuộc sống; Mở rộng và tăng cường hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện giữa ASEAN với các bên đối tác; củng cố và duy trì vai trò quan trọng của ASEAN tại các khuông khổ hợp tác khu vưc, đóng góp cho hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương; Thông qua các hành động cụ thể đẩy nhanh tiến độ triển khai hiệu quả các chương trình, kế hoạch xây dựng 3 trụ cột cộng đồng ASEAN và kế hoạch công tác giai đoạn II về thu hẹp khoảng cách phát triển trong lộ trình xây dựng cộng đồng ASEAN, đảm bảo việc thực hiện mục tiêu hình thành cộng đồng ASEAN đúng lộ trình vào năm 2015; Tiếp tục triển khai hiến chương, hoàn thiện bộ máy tổ chức mới, cải thiện phương thức hoạt động của ASEAN, hoàn tất soạn thảo các văn kiện pháp lý bổ sung cho hiến chương, tạo khuôn khổ pháp lý cho ASEAN; Bên cạnh đó, Việt Nam sẽ cùng các nước thành viên thúc đẩy vai trò và vị thế quốc tế của ASEAN thông qua củng cố và duy trì vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực; mở rộng hơn vai trò của ASEAN tại các thể chế, diễn đàn khu vực và quốc tế như APEC, ASEM, LHQ, G20…

KẾT LUẬN
Các chương trình hợp tác về kinh tế – thương mại của ASEAN cho thấy những nỗ lực của các quốc gia thành viên trong việc thúc đẩy hợp tác chặt chẽ nhằm mục tiêu tăng cường năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của ASEAN, thúc đẩy hiệu quả kinh tế trong một thị trường và cơ sở sản xuất đơn nhất. Đối với Việt Nam tuy chúng ta tiến hành hội nhập nền kinh tế khu vực muộn hơn so với khá nhiều nước nhưng bằng sự quyết tâm, những bước đi hợp lý và chủ động, trong những năm qua, Việt Nam đã cho các nước ASEAN thấy được sự năng động, nhiệt tình và cỏi mở trong quá trình hội nhập tự do hóa thương mại nội khối của mình. Những thành công của tự do hóa thương mại nội khối trong những năm qua phần nào ghi nhận những dấu ấn chủ chốt đầy ngưỡng mộ của Việt Nam. Trong những năm tiếp theo, chúng ta cần tiếp tục hơn nữa sự phát huy nhiệt tình và cởi mở đó, thúc đẩy thương mại phát triển, thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, nâng cao vai trò của Việt Nam.

No comments:

Post a Comment