26/09/2013
Bài tập lớn học kỳ Kinh tế học đại cương - Chính sách tiền tệ (8 điểm)
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, qua bao thăng trầm và biến đổi, đường lối đổi mới của Việt Nam đã thực sự đi vào thực thi. Có thể nói, chính sách đổi mới về kinh tế đã thành công trong việc giúp nền kinh tế nước ta vượt qua thời kỳ lạm phát không kiềm chế được và khôi phục cân bằng kinh tế vĩ mô. Kể từ đó, Chính phủ đã chuyển dịch những ưu tiên hàng đầu của mình vào điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế. Đặc biệt, xây dựng và thực hiện có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia, tăng cường quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, góp phần phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta. Cách quản lý kinh tế và hoạt động Ngân hàng bằng cơ chế kế hoạch hoá tập trung sẽ được thay thế dần bằng sự vận hành một chính sách tiền tệ linh hoạt dựa trên nền tảng một thị trường tài chính phát triển.

Nhận thức được tầm quan trọng của chính sách tiền tệ đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng, trên cơ sở những kiến thức đã được học từ thầy cô và tài liệu tham khảo, với bài tập học kỳ môn Kinh tế học đại cương, em xin chọn đề tài “Chính sách tiền tệ và việc vận dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay” với mong muốn được hiểu cũng như làm rõ hơn về vấn đề này. Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bài làm của em gồm 3 phần chính:

I.    Lý luận chung về chính sách tiền tệ
II.  Vận dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay
III. Định  hướng chính sách tiền tệ của Việt Nam năm 2010

NỘI DUNG CHÍNH

I. Lý luận chung về chính sách tiền tệ

1. Định nghĩa và mục tiêu của chính sách tiền tệ

Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô được đề ra và thực hiện bởi ngân hàng trung ương nhằm mục tiêu ổn định giá cả, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo công ăn việc làm trong xã hội. Thực chất chính sách tiền tệ là sự cụ thể hoá những biện pháp nhằm tác động vào mức cung tiền trong nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng đến mức lãi suất trên thị trường. Thông qua vai trò của lãi suất, chính sách tiền tệ tác động vào tổng cung cầu và sản lượng của nền kinh tế, thúc đẩy các hoạt động trong nền kinh tế nhằm giải thích các mục tiêu kinh tế vĩ mô đã đề ra gắn với từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.

2. Các công cụ của chính sách tiền tệ

Gồm có có 6 công cụ sau:
  • Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
  • Công cụ tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện cần vô hiệu hóa trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toan (cho vay) của các Ngân hàng thương mại.
  • Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
  • Công cụ lãi suất tín dụng: đây được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm kích thích hay kìm hãm sản xuất. Nó là 1 công cụ rất lợi hại. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
  • Công cụ hạn mức tín dụng: là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi cấp tín dụng cho nền kinh tế.
  • Tỷ giá hối đoái:Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.

II. Vận dụng chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay

1. Nội dung chính sách tiền tệ ở Việt Nam

Chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước là chính sách mà ngân hàng nhà nước thực hiện cung ứng tiền cho nền kinh tế ở mức kiểm soát được lạm phát, thực hiện một chính sách lãi suất thực dương do ngân hàng nhà nước qui định, giữ một tỷ giá ổn định nhằm kiểm soát được tỷ giá. Trên thực tế thì tỷ giá danh nghĩa ( tỷ giá đồng Việt Nam so với đồng USD) bắt đầu ổn định. Từ  năm 1993 trở đi, khi ngân hàng nhà nước mở cửa trung tâm giao dịch tại 2 thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, phản ánh sự vận động của luồng ngoại tệ vào gây nên áp lực tăng giá cho đồng Việt Nam

2. Chính sách tiền tệ và những dấu mốc đáng nhớ trong những năm gần đây.

Giai đoạn từ 1998 đến 2007, để đạt mục tiêu tăng trưởng - mục tiêu được xếp hàng đầu trong nhiều năm liền, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng liên tục theo hướng: lãi suất ổn định (từ 01/12/2005 - 01/02/2008, lãi suất cơ bản luôn giữ ở mức 8,25%/năm), tỷ giá cũng ổn định nhưng tín dụng thì mở rộng. Trong thời gian 10 năm, từ năm 1998 đến hết năm 2007, bình quân tốc độ tăng trưởng tín dụng hàng năm khoảng 25%, riêng năm 2007, con số này đạt kỷ lục (cao nhất trong 10 năm) là 37,8%. Bên cạnh họat động tín dụng, tiền còn được đưa vào lưu thông qua đường chi tiêu ngân sách, thu mua ngoại tệ… Vì vậy, đã đẩy tổng phương tiện thanh toán mỗi năm tăng thêm hơn ¼ số tiền của năm trước (từ 1996 đến hết năm 2007 tổng phương tiện thanh toán tăng thêm bình quân năm là 26,2%, riêng năm 2007 con số này là 37%) trong khi bình quân mỗi năm GDP chỉ tăng lên khoảng 7,2% (GDP từ 1997 đến hết năm 2007 tăng bình quân năm là: 7,2%). Suốt khoảng thời gian dài, khoảng cách giữa tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và tốc độ tăng GDP luôn ở mức trên dưới 20%, mà trong đó, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán luôn ở biên độ cao hơn so với GDP. Qua đó cho thấy, cũng trong suốt thời gian ấy, rất nhiều tiền đã được đưa vào lưu thông nhưng đã không tạo ra một lượng GDP tương ứng. Mà có lẽ thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán trong những năm qua đã trở thành kênh dẫn cho lượng tiền đó và vì thế, cho đến khi hai thị trường này bị thắt lại, lượng tiền thừa thực sự phát huy tác dụng - nếu không lạm phát mới là hiện tượng lạ (thị trường bất động sản bắt đầu phát triển từ những năm 1997, 1998 và mạnh mẽ nhất vào năm 2007. Còn thị trường chứng khoán mới có sức hút tiền trong khoảng 3 năm gần đây).

Trong khoảng thời gian 2 năm rưỡi (tính từ đầu năm 2005 cho đến hết tháng 6/2007), GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền lên đến 110%. Trong cùng một khoảng thời gian, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch này ở Thái Lan hầu như không đáng kể.

Hai quý đầu của năm 2008, cùng với những bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, tình hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá cả tăng cao, cộng với sự dồn tích khá lâu về lượng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hoá Việt Nam có hiện tượng “bốc hoả” về giá.. So với tháng 12 năm 2007, giá tiêu dùng tăng 17,18%, mức cao nhất so với nhiều năm trở lại đây. Trong đó đáng quan tâm nhất là hai nhóm hàng lương thực và thực phẩm: lương thực tăng 59,44%, thực phẩm tăng 21,83%, đã góp phần đẩy chỉ số lạm phát bình quân 6 tháng đầu năm lên mức 2,86%/tháng. Đến cuối tháng 6, chỉ số lạm phát tuy có tăng chậm lại nhưng vẫn ở mức cao nhất so với tháng 6 của nhiều năm trước (2,14%).

Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, ba công cụ: lãi suất, dự trữ bắt buộc và thị trường mở được sử dụng đồng thời cùng với những quy định siết chặt thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản… đã tác động mạnh đến thị trường. Và phản ứng của thị trường cũng thật mạnh mẽ: các hoạt động cho vay gần như co cụm lại, lãi suất tăng vọt, luồng tiền gửi trở lên bất ổn, thị trường bất động sản đang ở trong cơn sốt bỗng đóng băng và trở lên lạnh giá, thị trường vàng như con ngựa bất kham, giá cả hàng hoá thì tăng vọt… Chính sách tiền tệ bộc lộ thật rõ sức mạnh của nó.

Những dấu mốc đáng ghi nhớ trong việc sử dụng các công cụ để điều hành chính sách tiền tệ vào những tháng đầu năm 2008:

- Ngày 16/01/2008, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 1%. (Quyết định 187/QĐ-NHNN).
- Ngày 30/01/2008, điều chỉnh tăng các loại lãi suất: Lãi suất cơ bản tăng 0,5%, tái cấp vốn tăng 1,0%, lãi suất chiết khấu tăng 1,5% (Quyết định 305/QĐ-NHNN).
- Ngày 13/2/2008, thông báo về việc phát hành tín phiếu bắt buộc, thực hiện vào ngày 17/3, với tổng giá trị tín phiếu phát hành là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,8%/năm (Quyết định 346/QĐ-NHNN).

Cả 3 giải pháp trên đều hướng tới mục tiêu rút bớt tiền trong lưu thông về. Các giải pháp sau đó cũng không kém phần quyết liệt. Theo Quyết định 305/QĐ-NHNN ngày 30/01/2008, lãi suất cơ bản sau 25 tháng giữ ổn định ở mức 8,25%/năm tăng lên 0,5%/năm, chuyển sang mức 8,75%/năm. Sau hơn 3 tháng thực hiện, đến 19/5/2008, lãi suất cơ bản vọt lên 12%/năm và chưa đầy 1 tháng sau, ngày 11/6/2008, Quyết định 1317/QĐ-NHNN của NHNN đã nâng thêm 2% đưa lãi suất cơ bản lên mức 14%/năm...

Sự bình ổn trở lại được bắt đầu vào quý III năm 2008. Những ngày đầu quý III, nền kinh tế trong nước phải đối mặt với nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế giảm dần, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản vẫn đang trong tình trạng “ngủ đông”, thị trường tiền tệ thì diễn biến phức tạp, sản xuất kinh doanh thì chật vật bởi lãi suất cao, chi phí nguyên liệu cũng cao… Tuy nhiên, chỉ số lạm phát tháng 7 được công bố ở mức 1,13% - mức thấp nhất so với các tháng trước - đã làm cho tình hình dịu đi. Và hy vọng về sự sáng sủa của bức tranh kinh tế đã bắt đầu le lói khi chỉ số lạm phát ngày càng có xu hướng giảm dần, tháng 8 là 1,56%; đến tháng 9 chỉ còn 0,18%; tháng 10 giá cả bắt đầu có xu hướng giảm (âm 0,19%); sang tháng 11, chỉ số giá cả giảm với mức độ sâu hơn (âm 0,76%) và tháng 12/2008 - tháng cuối cùng năm 2008, chỉ số giá cả vẫn tiếp tục giảm... Cuộc chạy đua lãi suất cũng bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một loạt các quyết định của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ.

3. Đánh giá chính sách tiền tệ ở Việt Nam.

3.1 Những thành tựu đạt được.

Với những nỗ lực phi thường của mình, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhớ trong thời kỳ đầu của quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Sự chuyển biến đó cụ thể được thể hiện ở những mặt sau:

Thứ nhất, Ngân hàng Nhà nước đã hạn chế cung ứng tiền để kiềm chế lạm phát.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện một chính sách lãi suất thực dương, quy định trần lãi suất và tạo nền tảng để tiến tới “tự do hoá lãi suất”.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện chính sách ổn định tỷ giá thực tế.
Thứ tư, theo quyết định của Chính phủ về việc chấm dứt phát hành cho bù đắp bội chi ngân sách, Ngân hàng Nhà nước đã giảm dần đáng kể cung ứng tiền cho bội chi ngân sách

3.2. Những tồn tại cần khắc phục

Thứ nhất, chưa xác định rõ ràng mối liên hệ giữa mục tiêu trung gian  và lãi suất
Thứ hai, những khó khăn về tín dụng do chính sách lãi suất còn nhiều bất cập.
Thứ ba, sự thiếu hiệu quả của công cụ chính sách tiền tệ
Thứ tư, thị trường tiền tệ còn sơ khai nghèo nàn về công cụ
Thứ năm, nguy cơ nguồn vốn ngoại tệ vào.
Thứ sáu, ngân sách Nhà nước chưa sẵn sang đối phó với các cơn lốc kinh tế

4. Những giải pháp đề xuất đối với chính sách tiền tệ của Việt Nam.

Trên cơ sở những tồn tại của chính sách tiền tệ của Việt Nam, ta cần có những giải pháp phù hợp để khắc phục những khó khăn đó.

Thứ nhất, chính sách tiền tệ phải được xây dựng trên cơ sở tính độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước
Thứ hai, chính sách tiền tệ phải được xây dựng trên quan điểm cân đối giữa ổn định kinh tế vĩ mô và đầu tư phát triển kinh tế
Thứ ba, chính sách tiền tệ trên cơ sở xâydựng hoàn thiện chương trình tài chính
Thứ tư, chính sách tiền tệ phải trên cơ sở phát triển của thị trương tài chính.
Thứ năm, chính sách tiền tệ phải xây dựng trên cơ sở định hướng tới việc xây dựng và sử dụng các chính sách tiền tệ gián tiếp.
Thứ sáu, chính sách tiền tệ khôn nên tồn tại một cách độc lập mà phải có mối liên hệ cặt chẽ với chính sách tài chính
Thứ bảy, chính sách tiền tệ phải được xây dựng trên cơ sở hội nhập với thị trương tài chính quốc tế
 Thứ tám, thị trường tiền tệ phải trên cơ sở chuẩn bị đối phó với các biến động cơn sốc kinh tế tác động đến nền kinh tế trong nước

III. Định hướng chính sách tiền tệ của Viêt Nam năm 2010

Năm 2010 đang đến với rất nhiều tín hiệu tích cực. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể thấy một số định hướng của CSTT cho năm 2010 như sau:

- Hướng tới tăng trưởng tín dụng hợp lý. Gần đây, NHNN đã phát đi tín hiệu về  khống chế tăng trưởng tín dụng 25% trong 2010 chỉ cao hơn một chút so với 2008, năm thắt chặt chính sách tiền tệ để chống lạm phát. Theo đó, năm 2010, tăng trưởng tín dụng sẽ bị kiểm soát chặt chẽ, tốc độ tăng trưởng sẽ bị siết chặt và chỉ bằng khoảng 2/3 so với năm 2009. Cụ thể, NHNN sẽ khống chế tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế chỉ tăng khoảng 25% trong 2010, thấp hơn nhiều so với mức 37,73% năm 2009. Định hướng này chắc chắn sẽ đảm bảo lãi suất không quá căng cho năm 2010.

- Tỷ giá linh hoạt, đảm bảo cân bằng: Với dự báo là năm 2010, diễn biến tiền tệ thế giới vẫn phức tạp (nhất là các đối tác thương mại chủ chốt của VN), dự báo về cán cân thanh toán của VN (nhất là cán cân thương mại vẫn thâm hụt đáng kể) thì Chính phủ sẽ chắc chắn thực hiện điều hành tỷ giá linh hoạt hơn, đảm bảo thị trường không bị đình đốn trong khi vẫn  khuyến khích xuất khẩu và không làm tăng quá mức gánh nặng nợ lên các DN vay vốn ngoại tệ.

- Cung ứng tiền hợp lý: NHNN đã phát đi thông điệp và nhấn mạnh rằng năm tới sẽ tập trung điều hành cung ứng tiền mặt một cách chặt chẽ cùng với việc kiểm soát chặt tăng trưởng tín dụng đó là định hướng CSTT phù hợp trong điều kiện chỉ số CPI đang có chiều hướng đi lên.

- Hướng  dòng vốn cho khu vực sản suất thực, giảm bớt đầu cơ quá mức. Khi  dòng vốn ngân hàng đảm bảo tập trung vốn cho sản xuất sẽ có sự chuyển dịch vốn theo ngành, lĩnh vực, địa bàn, kỳ hạn và khách hàng cho vay; hạn chế cho vay các nhu cầu phi sản xuất. Đặc biệt khi dòng vốn được định hướng đúng đắn,  tình trạng bong bóng (chứng khoán, nhà đất,... vàng) sẽ giảm và qua đó sẽ không gây áp lực lên khu vực ngân hàng, lãi suất sẽ ổn định. Chính phủ cần giảm bớt (hoặc kiểm soát chặt) tình trạng đầu cơ thái quá trong nền kinh tế (như sử dụng các công cụ đòn bẩy tài chính quá mức trên TTCK, tiền tệ; các loại kinh doanh quá mạo hiểm không cần thiết cho khu vực sản xuất vật chất,...)..

- Tiếp tục nâng cao quản trị rủi ro tại các NHTM so với vốn ngày càng tăng. Theo định hướng  của NHNN, đến năm 2010, các NHTMCP VN phải đạt 3.000 tỷ VND. Cùng với mở rộng mạng lưới hoạt động, đưa thêm công cụ mới vào hoạt động trong thời gian qua, các NHTM đang lớn lên nhưng vấn đề quản lý lại chưa theo kịp (nhất là quản lý tài sản nợ, tài sản có và trong đó có quản  lý rủi ro lãi suất). Trên phương diện quản lý (cả vĩ mô và vi mô), định hướng cho năm 2010, các NHTM này cần chứng tỏ rằng NHTM vốn càng lớn, quy mô càng lớn thì vấn đề quản trị, quản lý cũng được nâng cao và mạnh tương ứng. Khi các vấn đề về quản lý ở các NHTM (khu vực vi mô) này tốt, chắc chắn chính sách tiền tệ của NHNN (vĩ mô) sẽ hiệu quả hơn nhiều.

- Cải cách luật phù hợp với tình hình mới về tiền tệ và ngân hàng. Các luật ngân hàng (Luật NHNN, Luật các TCTD) rõ ràng cũng đang cần được cải cách phù hợp với tình hình mới khi thị trường tài chính VN đã phát triển, hội nhập sâu rộng hơn cuối những năm 1990 rất nhiều. Trong đó, có vấn đề đáng quan tâm như: có hay  không có “lãi suất cơ bản”; NHTM được kinh doanh/ cho vay chứng khoán, kinh doanh /cho vay bất động sản hay vàng... đang được xã hội mong đợi một định hướng rõ ràng. Khi định hướng luật  rõ rằng, dễ dự đoán, thị trường tiền tệ sẽ ổn định.

KẾT LUẬN

Tóm lại, chính sách tiền tệ với những đổi mới, hoàn thiện các công cụ của nó đã tác động tích cực tới quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam trong những năm qua. Chính sách tiền tệ đã duy trì sự ổn định và tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, vượt qua sự ảnh hưởng tiêu cực của những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ khu vực, tạo cơ sở vững chắc cho Việt Nam mở cửa và hội nhập vào cộng đồng kinh tế khu vực và thế giới an toàn và hiệu quả. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, chính sách tiền tệ của Việt Nam trong những năm qua cũng gặp không ít những khó khăn và thách thức. Đó là do lối suy nghĩ và hoạt động theo cơ chế quan liêu cũ, công cụ chính sách tiền tệ còn mang nặng tính hành chính, các công cụ gián tiếp còn chưa được sử dụng một cách hiệu quả. Do đó, vấn đề đặt ra là phát huy nội lực, phát triển sản xuất, tăng khả năng hấp thụ và luân chuyển vốn trong nền kinh tế. Hơn thế nữa, các nhà chính sách Việt Nam cần tạo ra môi trường pháp lý thuật lợi và những điều kiện chủ quan để trong tương lai, Việt Nam có một thị trường tài chính phát triển. Đây chính là tiền đề làm nền tảng để xây dựng và phát triển một chính sách tiền tệ hoàn hảo có tác dụng điều chỉnh và đem lại hiệu quả cho hoạt động Ngân hàng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung.

No comments:

Post a Comment