Trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phát triển kinh tế là một trong những yếu tố quan trọng để đi đên thành công.Xuất phát từ yêu cầu thực tế khách quan, năm 1986 tại đại hội Đảng lần thứ VI, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp , chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là bước ngoặt lớn trong nền kinh tế, là những thành tựu lớn của đảng , nhà nước ta , nhân dân ta.Bước đầu đó đạt được những thắng lợi quyết định và quan trọng. Tuy nhiên ngoài những thành tựu đó thì chung ta còn gặp không ít những khó khăn thách thức.Đó là những vấn đề đòi hỏi chúng ta cần giải quyết nhằm đưa đất nước ta trở thành một đất nước phát triển xã hội công bằng văn minh .Chính như vậy , Đảng và Nhà nước ta đã quyết định xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .Để có thể hiểu thêm về quan điểm của Đảng về xây dựng kttt định hướng xhcn,em xin chọn đề bài:...
THÂN BÀI.
I.Hoàn cảnh ra đời quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường,định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau đại thắng Mùa xuân năm 1975,miền Nam đã hoàn toàn được giải phóng,đất nước ta được thống nhất và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.Từ năm 1976 đến năm 1985,nước ta đã thực hiện 2 kế hoạch Nhà nc 5 năm và đã đạt được một số thành tưu đáng kể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội,song cũng gặp ko ít khó khăn.Nguyên nhân chủ yếu là do cơ chế quản lí kinh tế đất nước thời kỳ này bộc lộ rõ những yếu kém hạn chế.Nhà nước chủ yếu quản lí nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới.Các cơ quan hành chính lại can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất,kinh doanh của doanh nghiệp.Các doanh nghiệp ko có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh,cũng ko bị ràng buộc trách nhiệm đối với kết quả sản xuất.Quan hệ hàng hóa-tiền tệ bị coi nhẹ,nhà nc quản lí nền kinh tế thông qua chế độ cấp phát-giao nộp,vì vậy rất nhiều hàng hóa quan trọng như sức lao động,phát minh sáng chế,tư liệu sản xuất quan trọng ko đc coi là hàng hóa về mặt pháp lí.Bộ máy quản lí cồng kềnh,nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa sinh ra đội ngũ quản lí kém năng lực,phong cách cửa quyền,quan liêu phổ biến.
Trước đổi mới,do chưa thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường,chúng ta đã xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa,phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch.Ko thừa nhận trên thực tế sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá dộ. Do vậy nền kinh tế nc ta đã lâm vào tình trạng trì trệ,khủng hoảng trầm trọng.
Trên thế giới lúc bấy giở,những thay đổi trong quan hệ giữa các nước do tác động của cuộc cách mạng khoa học kì thuật đã trở thành một xu thế thế giới,cuộc khủng hoảng toàn diện ở Liên xô và các nc xã hội chủ nghĩa khác đã có ảnh hưởng ko nhỏ tới nc ta.Dưới áp lực của tình thế khách quan,nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội,chúng ta đã có những bc cải tiến nền kinh tế theo hướng thị trường,tuy nhiên còn chưa toàn diện và triệt để.Đề cập đến sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế,Đại hội VI khẳng định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lí kinh tế.Cơ chế quản lí tập trung quan liêu,bao cấp từ nhiều năm nay ko tạo đc động lực phát triển,làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa,hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác,kìm hãm sản xuất,làm giảm năng suất,chất lượng hiệu quả,gây rối loạn trong phân phối lưu thông,và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”.Chính vì vậy,việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với nước ta trog giai đoạn hiện tại.
II.Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường,định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.Tư duy về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII.
So với thời kỳ trước đổi mới,nhận thức về kinh tế thị trường trog giai đoạn này có sự thay đổi căn bản và sâu sắc.
Một là,kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản mà là thành tưu phát triển chung của nhân loại.Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy sản xuất và trao đổi hàng hóa là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị trường.Kinh tế thị trường có mầm mống từ trong xã hội nô lệ,hình thành trong xã hội phong kiến và phát triển cao trong xã hội tư bản chủ nghĩa.Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài,nhưng cho đến nay nó mởi biểu hiện rõ rệt nhất trong chủ nghĩa tư bản,đạt đến trình độ cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc sống của con người trong xã hội đó.Điều đó khiến ko ít người nghĩ rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.Tuy nhiên,chủ nghĩa tư bản ko sinh ra kinh tế hàng hóa,do đó,kinh tế thị trường với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao ko phải là sản phâm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tưu phát triển chung của nhân loại.
Hai là,kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Đại hội VII của Đảng (tháng 6/19991) trong khi khẳng định chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác,bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất,đã đưa ra kết luận quan trọng rằng sản xuất hàng hóa ko đối lập với chủ nghĩa xã hội,nó tồn tại khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội.Đại hội cũng xác định cơ chế vận hành của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là “cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước” bằng pháp luật,kế hoạch,chính sách và các công cụ khác.Tiếp tục đường lối trên,Đại hội VIII của Đảng (tháng 6/1996) đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ,tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là,có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Ở bất kỳ xã hội nào,khi lấy kinh tế thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế,thì kinh tế thị trường cũng có những đặc điểm chủ yếu sau: các chủ thể kinh tế có tính độc lập,nghĩa là có quyền tự chủ trong sản xuất,kinh doanh,lỗ,lãi tự chịu; giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết,hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hoàn hảo; nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị,quy luật cung cầu,quy luật cạnh tranh; có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Như vậy,với những đặc điểm trên,kinh tế thị trường có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
2. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội X.
Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường,có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Đại hội IX xác định kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kính tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.Trong nền kinh tế đó,các thế mạnh của “thị trường” được sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất,phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,nâng cao đời sống nhân dân”,còn tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu,tổ chức quản lý và phân phối,nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu,nước mạnh, tiến lên hiện đại trogn một xã hội do nhân dân làm chủ,nhân ái,có văn hóa,có kỷ cương,xóa bỏ áp bức bất công,tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no,tự do,hạnh phúc”.
Kế thừa tư duy của Đại hội IX,Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội udng cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta,thẻ hiện ở bốn tiêu chí:
Thứ nhất,về mục đích phát triển: Mục tiêu của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu,nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ,văn minh”, giaie phón mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng,giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Mục tiêu này thể hiện sự khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản,bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.
Thứ hai,về phương hướng phát triển: Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu,nhiều thành phần kinh tế nhằm giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế,trong mỗi cá nhân và mọi vùng miền,.., phát huy tối đa nội lực đề phát triển nhanh nền kinh tế.Trong nền kinh tế nhiều thành phần,kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế,định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu dân giàu,nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ, văn minh. Để giữ vai trò chủ đạo,kinh tế nhà nước phải nắm được các vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa học,công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải là dựa vào bao cấp,cơ chế xin-cho độc quyền kinh doanh.Mặt khác,tiến lên chủ nghĩa xã hội phải được dựa trên nền tảng của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Thứ ba,về định hướng xã hội và phân phối: Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hôi ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng cường kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội,văn hóa,giáo dục và đào tạo,giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.Hạn chế tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
Trong lĩnh vực phân phối,định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qau chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động,hiệu quả kinh tế,phúc lợi xã hội. Đồng thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển chúng ta còn thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
Thứ tư, về quản lý: Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý,điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí này thể hiện sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy mặt tích cực,hạn chế mặt tiêu cực của kinh tế thị trường, bảo đảm quyền lợi chính đáng của mọi người.
Hoàn thiện nhận thức và chủ trương về nền kinh tế nhiều thành phần, Đại hội X khẳng định: “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân,tập thể,tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân ( cá thể, tiểu chủ,tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hơp tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế,tạo môi trường vè điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nên tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”.
3.Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
3.1: Mục tiêu hoàn thiện.
Thể chế kinh tế thị trường là một tổng thể bao gồm các bộ phận quy tắc,luật lệ và hệ thống các thực thể,tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt động giao dịch,trao đổi trên thị trường. Thể chế kinh tế thị trường bao gồm: Các quy tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường – các bên tham gia thị trường với tư cáh là các chủ thể thị trường ; cách thức thực hiện các quy tắc nhằm đtạ được mục tiều hay kết quả mà các bên tham gia thị trường mong muốn; các thị trường – nơi hnagf hóa được giao dịch,trao đổi trên cơ sở các yêu cầu,quy định của luật lệ (các thị trường quan trọng như hàng háo và dịch vụ,vốn,lao động,...).
Mục tiêu cơ bản đến năm 2020 của hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là làm cho các thể chế phù hợp với những nguyên tắc cơ bản cùa kinh tế thị trường,thúc đẩy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển nhanh, hiệu quả,bền vững, hội nhập kinh tế quốc tế thành công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa,xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.Mục tiêu này yêu cầu phải hoàn thành cơ bản vào năm 2020.
Để hoàn thành được những mục tiêu lâu dài,trước mắt Đảng và Nhà nước ta phải đạt được những mục tiêu sau:
Một là,từng bước xây dựng đồng bộ hệ thống pháp luật,bảo đảm cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển thuận lợi.Phát huy vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp.Hình thành một số tập đoàn kinh tế ,các tổng công ty đa dạng,áp dụng mô hình quản trị hiện đại,có năng lực cạnh tranh quốc tế.
Hai là, đổi cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công.
Ba là,phát triển đồng bộ,đa dạng các loại thị trường cơ bản thống nhất trong cả nước,từng bước liên thông với thị trường khu vực và thế giới.
Bốn là, giải quyết tốt hơn các mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa xã hội, bảo đảm tiến bộ,công bằng xã hội,bảo vệ môi trường.
Năm là, nâng cao hiệu lực,hiệu quả quản lý của Nhà nước và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc,các đoàn thể chính trị xã hội và nhân dân trong quản lý,phát triển kinh tế xã hội.
3.2: Quan điểm về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nhận thức đầy đủ,tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường,thông lệ quốc tế,phù hợp với điều kiện của Việt Nam,bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Bảo đảm tính đồng bộ giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế,giữa các yếu tố thị trường và các loại thị trường; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị,xã hội; giữa Nhà nước,thị trường và xã hội. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường.
- Kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta,chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia,giữ vững an ninh chính trị,trật tự an toàn xã hội.
- Chủ động, tích cực giải quyết vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng, bức xúc, đồng thời phải có bước đi vững chắc,vừa làm vừa tổng kết rút kinh nghiệm.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu qủa quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.3: Một số chủ trường tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Thống nhất nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần thiết sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội; kinh tế thị trường làm cơ sở cho sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Hoàn thiện thể chế về sở hữu và các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường như hoàn thiện về thể chế giá,cạnh tranh và kiểm soát đọc quyền trong kinh doanh; hoàn thiện hệ thồng pháp luật,cơ chế, chính sách cho hoạt động và phát triển của nền kinh tế,...
- Hoàn thiện thể chế gắn với tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo vệ môi trường.
- Hoàn thiện thể chế về vai trò lãnh đạo của Đảng,quản lý của Nhà nước và sự tham gia của các tổ chức quần chúng vào phát triển kinh tế xã hội.
III. Kết quả,ý nghĩa, hạn chế và nguyên nhân.
1.Kết quả và ý nghĩa.
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội, kể từ Ðại hội VI (năm 1986), Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn, hết sức quan trọng. Về phát triển kinh tế,đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh, Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định. Về phát triển các mặt xã hội,thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải thiện rõ rệt,
Tóm lại, sau gần 30 năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện. Cùng với tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, các mặt: chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh được bảo đảm và ổn định. Trong đó có những thành tựu rất đáng khích lệ về thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội gắn bó chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế, phát triển nguồn lao động và chất lượng lao động, khoa học và công nghệ. Thành tựu đó ngày càng khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của đổi mới, khích lệ, động viên nhân dân tiếp tục hưởng ứng, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tiếp tục thúc đẩy sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước với những bước tiến cao hơn. Thành tựu này được các nước trong khu vực cũng như các đối tác có quan hệ với Việt Nam thừa nhận và xem đây là một thuận lợi trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
2.Hạn chế và nguyên nhân.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn còn một số điểm hạn chế. Quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xhcn còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế; hệ thống pháp luật, cơ chế,chính sách chưa đầy đủ,chưa đồng bộ và thống nhất; vấn đề sở hữu,quản lí và phân phối trong doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa được giải quyết tốt,gấy khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản của nhà nước; cơ cấu tổ chức,cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập,hiệu quả hiệu lực quản lý còn thấp; cải cách hành chính chậm,chưa đạt được mục tiêu đề ra; tệ tham nhũng quan liêu vẫn nghiêm trọng.; cơ chế chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa,xã hội đổi mới chậm,chất lượng dịch vụ y tế,giáo dục,đào tạo còn thấp, khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và vùng miền ngày càng lớn; hệ thống an sinh xã hội còn sơ sài,...
Những yếu kém hạn chế trên xuất phát từ các nguyên nhân như nhận thức về kttt định hướng xhcn còn nhiều hạn chế do công tác lý luận chưa kịp đòi hỏi của thực tiễn; năng lực thể chế hóa và quản lý,tổ chức thực hiện của Nhà nước còn chậm, nhất là trogn việc giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc; vai trò thma gia hoạch định chính sách,thực hiện và giám sát của các cơ quan dân cử , Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội,nghề ngiệp còn yếu,..
Từ những thực trạng và nguyên nhân trên đòi hỏi Đảng ta
Trong điều kiện toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt, để đất nước có thể tăng tốc phát triển, rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực bắt buộc xây dựng thể chế kinh tế thị trường hiện đại. có sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và sự chung sức đồng lòng của nhân dân sự nghiệp này chắc chắn thành công.
- Hạn chế:
• Quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.
• Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ chưa đồng bộ và thống nhất.
• Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong doanh nghiệp nhà nước chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước nhất là khi cổ phần hóa.
• Thị trường tài chính, bất động sản, khoa học và công nghệ phát triển chậm, quản lý nhà nước đối với các loại thi trường còn nhiều bất cập.
• Phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý.
• Cơ chế “xin – cho” chưa được xóa bỏ triệt để. Chính sách tiền lương còn mang tính bình quân.
• Cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy nhà nước còn nhiều bất cập, hiệu quả, hiệu lực quản lý còn thấp. Cải cách hành chính chậm, chưa đạt yêu cầu mục tiêu đề ra. Tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu vẫn nghiêm trọng.
• Cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội đổi mới chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo còn thấp. Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và các vùng ngày càng lớn. Hệ thống an sinh xã hội còn sơ khai. Nhiều vấn đề bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi trường chưa được giải quyết tốt.
Kết quả và ý nghĩa:
- Một là, sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu – bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Hai là, chế độ sở hữu với nhiều hình thức và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được hình thành.
- Ba là, các loại thị trường cơ bản đã ra đời và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn với thị trường khu vực và thế giới.
- Bốn là, việc gắn phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều kết quả tích cực.
No comments:
Post a Comment