26/01/2015
Cá nhân có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế nhất định nhưng không vì thế mà thực thể này trở thành chủ thể của Luật quốc tế
Bài tập học kỳ Công pháp quốc tế có đáp án.


Trong bất cứ quan hệ pháp luật nào thì chủ thể luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng và là một trong những dấu hiệu để xác định mối quan hệ nào đó thuộc sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật nào. Luật Quốc tế là hệ thống pháp luật được tập hợp từ nhiều văn bản từ nhiều nguồn khác nhau. Việc nghiên cứu về chủ thể là rất cần thiết vì giúp tìm ra đâu là nguồn của luật, quan hệ nào thuộc sự điều chỉnh của luật.


Thực tế trên thế giới hiện nay ngoài quan điểm truyền thống cho rằng quốc gia, các dân tộc đang đấu tranh, tổ chức liên chính phủ, chủ thể đặc biệt khác là chủ thể của luật thì còn có quan điểm (hiện đại) cho rằng cá nhân, các công ty xuyên quốc gia, tổ chức phi chính phủ cũng nên được xem là chủ thể của luật Quốc Tế. Đây là quan điểm mới và cũng được một số nước trên thế công nhận. Hiện tại ở Việt Nam mặc dù cũng có nhiều ý kiến về vấn đề mới này nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu sâu về quan hiện đại. Câu hỏi được đặt ra là: Chúng ta có suy nghĩ gì về vấn đề này? Có nên công nhận quan niệm này?

Đây là đề tài được xem là khá mới mẻ và còn nhiều vấn đề cần phải làm rõ nên chúng ta cần phải nghiên cứu sâu hơn để tìm ra lời giải đáp phù hợp với thực tiễn hiện nay. Với đề tài : Bình luận quan điểm “Trong thực tiễn, cá nhân có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế nhất định nhưng không vì thế mà thực thể này trở thành chủ thể của Luật quốc tế” em sẽ đưa ra cái nhìn của bản thân dựa trên nền tảng các kiến thức cơ bản, chính thống về Luật quốc tế.
1. Khái niệm về chủ thể của luật quốc tế

• Định nghĩa chủ thể luật quốc tế

Mỗi hệ thống pháp luật đều có những chủ thể nhất định của nó. Đối với Luật quốc tế, số lượng cũng như quyền năng của từng loại chủ thể bị chi phối bởi phạm vi các quan hệ được Luật quốc tế điều chỉnh và trong một chừng mực nhất định, phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi giai đoạn phát triển. Trong giai đoạn chiếm hữu nô lệ, quan hệ bang giao giữa các quốc gia còn hạn hẹp, chủ yếu là quan hệ giữa các quốc gia trong cùng khu vực, nên chủ thể của Luật Quốc tế trong giai đoạn này chỉ là các quốc gia chủ nô. Sang thời kỳ phong kiến, quan hệ giữa các quốc gia được mở rộng. Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng của tôn giáo (đặc biệt là thiên chúa giáo) đến các mặt của đời sống xã hội phong kiến khá rõ nét. Chính vì vậy, chủ thể Luật Quốc tế trong thời kì này bao gồm các quốc gia phong kiến, các nhà thờ thiên chúa giáo. Đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa, đặc điểm của quan hệ quốc tế trong thời kỳ này mang tính chất “cá lớn nuốt cá bé”, chỉ có các quốc gia văn minh – quốc gia tư bản chủ nghĩa – mới được coi là chủ thể của luật quốc tế, còn các quốc gia kém phát triển, các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc không có tư cách này. Cách mạng tháng Mười năm 1917, chiến tranh thế giới và sự phát triển của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã dến sự ra đời của một loạt các quốc gia xã hội chủ nghĩa, cùng với đó là sự xuất hiện các dân tộc đấu tranh giành quyền tự quyết và các tổ chức liên chính phủ. Trước tình hình đó, trong luật quốc tế đặt ra vấn đề tồn tại nhiều loại chủ thể khác nhau bên cạnh chủ thể truyền thống là các quốc gia.  

Dưới góc độ lý luận khoa học pháp lý, để xác định được đối tượng của Luật Quốc tế cần phải dựa vào các dấu hiệu cơ bản sau:

Có sự tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế do Luật Quốc tế điều chỉnh.

Có ý chí độc lập trong sinh hoạt quốc tế.

Có đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Quốc tế.

Có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà chủ thể gây ra.

Từ những cơ sở trên, chúng ta có thể định nghĩa tổng quát khái niệm chủ thể của Luật Quốc tế như sau: Chủ thể của Luật Quốc tế là những thực thể đang tham gia hoặc có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế một cách độc lập, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ quốc tế và khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế từ những hành vi mà chính chủ thể thực hiện.

• Đặc điểm của chủ thể luật quốc tế

Xét về vị trí, tính chất, vai trò chức năng và bản chất pháp lý… thì các chủ thể của Luật Quốc tế có sự khác nhau, tuy nhiên chúng bao giờ cũng có chung các đặc điểm cơ bản và đặc trưng sau: năng lực pháp luật, năng lực hành vi pháp luật và năng lực trách nhiệm pháp lý. Năng lực pháp luật là khả năng của chủ thể luật quốc tế có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định. Năng lực hành vi pháp luật thể hiện qua sự thực hiện có ý thức các quyền và nghĩa vụ của chủ thể luật quốc tế. Chủ thể của luật quốc tế có năng lực trách nhiệm pháp lý đối với những vi phạm pháp luật quốc tế của mình. Những tính chất trên được gọi là tính chủ thể pháp lý.

•  Phân loại chủ thể luật quốc tế theo quan niệm truyền thống

Hiện nay, trong quan hệ pháp Luật Quốc tế hiện đại thì chủ thể của Luật Quốc tế bao gồm:

Các quốc gia, đây là chủ thể cơ bản và chủ yếu của Luật Quốc tế.

Các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập, đây là chủ thể tiềm tàng của Luật Quốc tế.

Các tổ chức quốc tế liên chính phủ, đây là chủ thể phái sinh của Luật Quốc tế, được hình thành bởi sự hợp tác của các quốc gia trên nhiều lĩnh vực hướng đến lợi ích của các quốc gia và lợi ích chung của cộng đồng.

Các chủ thể đặc biệt khác.

2. Có nên xem cá nhân là chủ thể của Luật quốc tế?

2.1. Khái niệm “cá nhân”

• Định nghĩa “cá nhân”: Cá nhân là chủ thể mang tính tự nhiên, là một thực thể sinh học chiếm số lượng lớn nhất trong xã hội. Cá nhân là chủ thể thường xuyên và quan trọng nhất của nhiều ngành luật như: pháp luật dân sự, pháp luật hình sự, pháp luật đất đai… bởi đây là chủ thể đầu tiên và cơ bản trong tất cả các mối quan hệ xã hội. Tuy nhiên, hầu hết các quốc gia chưa công nhận cá nhân là chủ thể của Luật Quốc tế.

• Đặc điểm của cá nhân: Cá nhân có các đặc điểm riêng như sau:

+ Năng lực pháp luật của cá nhân: là khả năng có quyền và nghĩa vụ. Đây là những quyền do nhà nước quy định và không ai được tự hạn chế nghĩa vụ của mình cũng như quyền và nghĩa vụ của người khác. Mọi cá nhân sinh ra không phân biệt giới tính, thành phần dân tộc, giàu nghèo, tôn giáo… đều có năng lực pháp luật như nhau và được nhà nước đảm bảo thực hiện. Điều này được công nhận tại Điều 6 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền 1948 (Ở bất kì nơi nào, mỗi người đều có quyền được công nhận tư cách con người của mình trước pháp luật).

+ Năng lực hành vi của cá nhân: là khả năng cá nhân bằng hành vi của mình xác lập và thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí cũng như độc lập chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Khả năng này được xác định dựa theo độ tuổi và khả năng nhận thức của con người. Năng lực hành vi của cá nhân ở các quốc gia khác nhau và ở nhiều thời điểm khác nhau là khác nhau.

2.2. Những quan điểm khác nhau về tính chủ thể của cá nhân trong Luật quốc tế

2.2.1. Quan điểm truyền thống –Mang nhiều ưu điểm

Quan điểm truyền thống cho rằng: Cá nhân không thể là chủ thể của luật quốc tế. Đây được coi là quan điểm chính thống của các nước XHCN, chủ thể của Luật Quốc tế chỉ là Quốc gia, các Tổ chức Quốc tế Liên Chính Phủ, các Dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và các chủ thể đặc biệt khác. Theo học thuyết thực nghiệm – doctrine possitive (Anzilotti, Triple) thì cộng đồng thế giới chỉ gồm các quốc gia, cá nhân không phải là chủ thể của Luật quốc tế, luật này chi phối nhiều quốc gia. Cũng theo học phái này, luật quốc tế chỉ có hiệu lực đối với cá nhân thuộc 1 quốc gia khi nào những quy tắc quốc tế đổi thành luật quốc nội  .

Rất rõ ràng nhận ra ưu điểm vượt trội của quan điểm này, thể hiện ở các điều sau đây:

- Thứ nhất: Quan điểm truyền thống đã đưa ra được các tiêu chí để đánh giá đâu là chủ thể của Luật Quốc tế, phân định rõ ràng giữa các chủ thể, không mơ hồ hay gây nhầm lẫn. Chủ thể Luật Quốc Tế được định nghĩa và có những đặc điểm nhận biết riêng biệt tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc các chủ thể này kí kết điều ước quốc tế hoặc tham gia điều ước quốc tế. Điều này giúp ta có thể nhận biết đâu là chủ thể Luật Quốc tế khi dựa vào các định nghĩa và đặc điểm này.

- Thứ hai: Chủ thể luật quốc tế theo quan điểm truyền thống có tính ổn định. Quốc gia - chủ thể cơ bản của Luật Quốc tế có một số lượng xác định, sự thay đổi về số lượng các quốc gia không lớn, mặt khác Quốc gia “không di động” giúp dễ dàng kiểm soát trong việc Quốc gia tuân thủ các Điều ước quốc tế đa phương như Hiến chương Liên Hợp Quốc, Luật biển Quốc tế…Sự ổn định này của quốc gia dẫn đến sự ổn định của các tổ chức liên chính phủ, các dân tộc dành thuộc địa. Ngược lại, nếu công nhận cá nhân là chủ thể của Luật quốc tế thì với tính chất “luôn di động, không ổn định” và số lượng quá lớn (hiện nay dân số thế giới đã đạt ngưỡng 7 tỷ người theo số liệu ngày 30/10/2011) thì việc kiểm soát là không đơn giản.

- Thứ ba: Các chủ thể của Luật Quốc tế có một địa vị pháp lí ngang bằng nhau trong các Điều ước Quốc tế song phương hay đa phương mà họ kí kết hay tham gia. Do đó khi thực hiện các Điều ước này họ ý thức được nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Nếu xem cá nhân cũng là chủ thể của luật quốc tế, có nghĩa là cá nhân “ngang hàng” với Nhà nước thì sẽ tạo ra sự mâu thuẫn với sự quản lý của Nhà nước đối với cá nhân trong phạm vi quốc gia.

2.2.2. Quan điểm hiện đại – Còn nhiều hạn chế

Trái ngược với quan điểm nêu trên là học thuyết thực tế - doctrine réaliste (Duguit, Scelle Politis) cho rằng cá nhân là chủ thể duy nhất của luật quốc tế. Theo những tác giả đó, quốc gia là 1 phương tiện kỹ thuật, một phương thức tổ chức và quản trị những quyền lợi chung. Khi nói đến quốc gia, thì không thể không chú ý đến những cá nhân thành phần của quốc gia. Luật pháp – luật quốc nội hay luật quốc tế, thực ra, được đặt ra chỉ để phối hợp hoạt động của các cá nhân tức là các nhà cầm quyền và người dân. Bản thân quốc gia chỉ là một ý niệm trừu tượng không phải là một thể nhân, không thể có những quyền và nghĩa vụ. Cộng đồng thế giới không phải là một tập thể gồm những quốc gia thể nhân, ngược lại gồm có những cá nhân, và mối tương quan quốc tế là mối tương quan giữa cá nhân: vì có liên hệ gia đình, thương mại, văn hóa giữa những cá nhân thuộc những dân tộc khác nhau, nên có cộng đồng thế giới và luật quốc tế là phương tiện để cho việc giao dịch giữa các cá nhân được thuận lợi hơn. Một trong những học giả ủng hộ quan điểm này - Giáo sư người Nhật Sh.Oda cho rằng “Sau Đại chiến thế giới thứ nhất hình thành một quan điểm mới theo đó cá nhân là chủ thể các trách nhiệm về những vi phạm chống trật tự pháp luật thế giới và cá nhân phải bị truy tố và trừng phạt theo luật quốc tế”(Oda Sh.The Individual in International Law. London. 1978. p. 471). Tuy nhiên, chúng ta cần thấy rằng: Việc công nhận một chủ thể là chủ thể của Luật Quốc tế sẽ làm phát sinh rất nhiều quan hệ phức tạp cần giải quyết trên thực tế vì thế việc có công nhân cá nhân có phải là chủ thể Luật Quốc tế hay không phải dựa trên những tác động tích cực hay tiêu cực của từng chủ thể trên đến quan hệ quốc tế trên thực tiễn.

Nếu công nhận cá nhân là chủ thể Luật Quốc tế đồng nghĩa sẽ thể chế những quy định về quyền con người được ghi nhân trong Hiến chương Liên hợp quốc là tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Khi đó, cá nhân không những có quyền và nghĩa vụ pháp lý quốc tế được nảy sinh từ điều Luật Quốc tế mà còn có quyền và khả năng yêu cầu quốc gia thực hiện các quyền con người và trong trường hợp cần thiết thỉnh cầu lên các Toà án Quốc tế để đảm bảo cho các quyền đó. Và lẽ tất nhiên những viện dẫn vào nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ của nước khác để cản trở sự điều tiết của Luật Quốc tế đối với vấn đề quyền con người sẽ không còn tồn tại nhiều như hiện nay. Nhưng đứng ở góc độ quốc gia thì sẽ phát sinh hiện tượng dựa vào con bài nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền và sẽ lại vi phạm nguyên tắc chủ quyền quốc gia.

Mặt khác việc cá nhân ngày càng tích cực tham gia vào hoạt động trên trường quốc tế làm cho các hoạt động này phức tạp hơn, khó điều khiển hơn, như một số ý kiến cho rằng “thật là vô ích nếu như xếp cá nhân vào hàng ngũ những chủ thể của Luật Quốc tế, bởi vì làm như vậy là vô hình chung công nhận một số quyền của cá nhân mà trên thực tế không có, phủ nhận tính tất yếu của sự khác biệt giữa cá nhân và các chủ thể khác trong luật quốc tế” .

Một số quốc gia cho rằng cá nhân là chủ thể của Luật Quốc tế vì quốc gia đó đang hiểu khái niệm Luật Quốc tế theo nghĩa rộng hơn, tức là bao hàm cả Công và Tư pháp Quốc tế. Tư pháp Quốc tế điều chỉnh các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) có yếu tố nước ngoài. Quan hệ dân sự ở đây tùy thuộc vào quan điểm lập pháp của mỗi nước mà có thể chỉ là quan hệ nhân thân, quan hệ tài sản hoặc còn có thêm quan hệ hôn nhân gia đình, tố tụng dân sự, lao động, kinh doanh - thương mại... Yếu tố nước ngoài có thể là chủ thể tham gia quan hệ là cá nhân, pháp nhân  nước ngoài hoặc có khách thể là tài sản, công việc ở nước ngoài hoặc có sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi chấm dứt các quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài. Điểm đáng chú ý là chủ thể của Tư pháp Quốc tế có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc bao gồm cả Nhà nước nước ngoài. Trong Tư pháp Quốc tế, một cá nhân hoàn toàn có thể ngang hàng, bình đẳng về địa vị pháp lý với Nhà nước và Nhà nước hoàn toàn có thể đối mặt với một đơn kiện từ cá nhân. Do đó nếu một quốc gia xem Tư pháp Quốc tế là bộ phận của Luật Quốc tế thì cá nhân cũng là chủ thể của Luật Quốc tế. Trong phạm vi của đề tài đặt ra, em không đi sâu về vấn đề vị trí của Tư pháp Quốc tế nhưng em muốn nhấn mạnh rằng đây cũng là một trong các lý do chủ yếu dẫn đến sự khác biệt về quan điểm của các quốc gia trên thế giới về việc công nhận hay không công nhận cá nhân là chủ thể của Luật Quốc tế.

Tuy nhiên, thiết nghĩ ở đây nên có một cách nhìn đúng đắn và những việc làm cụ thể để quyền con người được thực hiện mà chủ quyền của quốc gia vẫn được toàn vẹn chứ không nên quá chú trọng vào vấn đề cá nhân có phải là chủ thể luật quốc tế hay không, bởi xét cho cùng đó thuộc về quan điểm của mỗi quốc gia. Và cũng cần nhấn mạnh rằng điều quan trọng không phải là tuyên bố một cách hình thức về tính chủ thể pháp lý cá nhân, về quyền con người mà nên tìm các biện pháp hữu hiệu để cho quyền con người được đảm bảo trong mối tương hỗ giữa nội Luật và Công pháp Quốc tế, trong sự hợp tác quốc tế giữa các tổ chức, quốc gia với nhau.

3. Bảo vệ quan điểm KHÔNG xem cá nhân là chủ thể của Luật quốc tế

3.1. Về đối tượng điều chỉnh

Đối tượng điều chỉnh của Luật quốc tế là các quan hệ quốc tế phát sinh giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên chủ yếu và quan trọng nhất vẫn là chính trị. Thật vậy, xu hướng tất yếu hiện nay đó là tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các quốc gia với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: từ kinh tế, văn hóa đến giáo dục, y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng... Nhưng ẩn sau hầu hết các quan hệ này đều ít nhiều có liên quan đến chính trị. Trong khi đó, các quan hệ mà cá nhân tham gia lại chủ yếu là các quan hệ dân sự (theo nghĩa rộng) - phi chính trị.

Vì thế có thể suy ra rằng các quan hệ xã hội mà cá nhân tham gia trên thực tế với các quan hệ mà Luật Quốc tế điều chỉnh là không thống nhất với nhau. Căn cứ vào điều này có thể thấy cá nhân không thể là chủ thể của Luật quốc tế.

3.2. Về các dấu hiệu cơ bản của chủ thể luật quốc tế

Một thực thể được xem là chủ thể của luật quốc tế nếu cùng lúc đáp ứng cả 4 dấu hiệu dưới đây. Vì vậy, để chứng minh cá nhân không phải là chủ thể của luật quốc tế, em sẽ phân tích để chỉ ra rằng cá nhân không đáp ứng đủ tất cả các điều kiện. Từ đó khẳng định quan điểm “Trong thực tiễn, cá nhân có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế nhưng không vì thế thực thể này trở thành chủ thể của luật quốc tế” là đúng.

Thứ nhất: Về sự tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế do Luật Quốc tế điều chỉnh.

Một chủ thể của luật quốc tế, trước tiên phải có sự tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế do luật quốc tế điều chỉnh. Tuy nhiên điều này cũng không đồng nghĩa với việc mọi thực thể có sự tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế thì được coi là chủ thể của luật quốc tế. Bởi để được công nhận là một chủ thể của luật quốc tế, thực thể còn phải đảm bảo các yếu tố khác được đề cập trong phần sau.

Sự tham gia của cá nhân vào các quan hệ pháp luật quốc tế được Luật quốc tế thừa nhận. Một số các tác giả đã viện dẫn các Điều ước Quốc tế về quyền con người (ví dụ như Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế 1948), về vị thế pháp lý của một số nhóm cá nhân trong Luật Quốc tế (Công ước Quốc tế về quyền của người tị nạn 1951), hay quyền của cá nhân được thỉnh cầu lên các Tòa án Quốc tế (Điều 190 Công ước Quốc tế về Luật Biển 1982 cá nhân có quyền được đưa đơn kiện nhà nước tham gia Công ước và đòi hỏi được xét xử tại Toà án Quốc tế về biển), khả năng gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế ( ví dụ như Điều lệ Tòa án binh quốc tế 1945, Công ước Quốc tế về ngăn ngừa và trừng phạt tội ác diệt chủng 1948...). Ngoài ra, theo quy định của pháp luật quốc tế, cá nhân có thể tham gia hạn chế trọng một số quan hệ pháp luật quốc tế đặc biệt, ví dụ, trong quan hệ tố tụng quốc tế, khi Tòa án quốc tế xét xử tội phạm chiến tranh.

Bên cạnh đó, không thể phủ nhận là luật pháp được đặt ra để chi phối hoạt động của cá nhân, và cá nhân là chủ thể thực sự của luật pháp. Ví dụ: khi quốc gia kí kết một hiệp ước về sự giao thông trên một sông lớn hay một kênh quốc tế, việc kí kết đó nhằm thiết lập một quy chế cho con sông hay kênh với mục đích là để cho các cá nhân có sự tự do hoạt động thương mại. Khi một hiệp ước ấn định một sự chuyển nhượng lãnh thổ từ một quốc gia cho một quốc gia khác, hiệp ước đó tất nhiên liên quan đến các cá nhân sông trên phần lãnh thổ được chuyển nhượng, các cá nhân này sẽ phải thay đổi quốc tịch. Nhiều hiệp ước quốc tế liên quan đến sự chuyển nhượng lãnh thổ có hậu quả đối với cá nhân, vì những hiệp ước này có thể cho phép cá nhân rời nước mình hoặc ở lại nhưng phải thay đổi quốc tịch, tuân theo chế độ chính trị mới. Những thí dụ trên cho thấy rõ cá nhân có sự tham gia vào quan hệ pháp luật quốc tế cho Luật quốc tế điều chỉnh.

Tuy nhiên, sự tham gia này của cá nhân không tất yếu dẫn đến khả năng tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế khác với tư cách là chủ thể của luật quốc tế. Thực tế đã cho thấy cá nhân không có quyền kí kết các điều ước quốc tế, không có quyền tài phán,… mặc dù cá nhân được tham gia một số quan hệ pháp luật đặc biệt.

Rõ ràng, không thể phủ nhận sự tham gia của cá nhân vào các quan hệ pháp luật quốc tế nhưng cá nhân chỉ có khả năng tham gia rất hạn chế vào một số các quan hệ quốc tế xác định hoặc tham gia các quan hệ này một cách gián tiếp thông qua Nhà nước. Điều này liên quan đến dấu hiệu thứ hai: Ý chí độc lập trong sinh hoạt quốc tế.

Thứ hai: Về ý chí độc lập trong sinh hoạt quốc tế.

Ý chí độc lập trong sinh hoạt quốc tế là một trong những dấu hiệu cơ bản, đặc thù của chủ thể luật quốc tế. Mọi thực thể muốn được công nhận là chủ thể của luật quốc tế đều phải có ý chí độc lập trong các quan hệ quốc tế, nói cách khác, không phụ thuộc vào bất cứ chủ thể quốc tế nào khác. Mỗi chủ thể luật quốc tế đều có tư cách bình đẳng với nhau và sự bình đẳng này thể hiện trong việc các chủ thể có quyền tự do, độc lập, tự quyết sự tham gia của mình vào các quan hệ quốc tế như có thể tự mình kí kết, gia nhập, tham gia các điều ước quốc tế…Một thực thể tham gia các quan hệ pháp luật quốc tế mà không có sự độc lập về ý chí thì không thể trở thành chủ thể của luật quốc tế.

Từ sự phân tích ở trên, ta có thể thấy cá nhân hoàn toàn có thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế do luật quốc tế điều chỉnh. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là: Khi tham gia các quan hệ pháp luật quốc tế đó cá nhân có sự độc lập về ý chí hay không? Câu trả lời là: không. Bởi lý do đơn giản là cá nhân luôn chịu sự chi phối của các chủ thể luật quốc tế khác khi tham gia các quan hệ quốc tế, đặc biệt là Quốc gia. B.M Shurshaloff V.M đã viết trong cuốn Quan hệ pháp lý quốc tế rằng  “Cá nhân do chịu sự cai trị của quốc gia không thể thay mặt mình hoạt động trên trường quốc tế như một chủ thể của luật quốc tế” .

Rõ ràng, cá nhân có thể có nhiều quyền mà luật quốc tế ấn định, như quyền xuất ngoại, du nhập vào nước khác, quyền thụ đắc tài sản, quyền hoạt động thương mại,… nhưng cá nhân luôn phải nhờ quốc gia mình can thiệp với nước ngoài, để nước ngoài công nhận những quyền đó của cá nhân. Như thế, rõ ràng là khi tham gia vào tất cả các quan hệ của đời sống xã hội thì cá nhân vẫn chịu một sự chi phối rất lớn từ ý chí, từ quyền lực chính trị của chủ thể đặc biệt - đó là Nhà nước. Một mặt, cá nhân không được làm trái, đi ngược lại các quy định của pháp luật quốc gia. Một mặt, cá nhân không thể tự mình tham gia vào một số các quan hệ quốc tế mà phải thông qua nhà nước.

Vậy sự chi phối của Nhà nước đối với cá nhân thể hiện như thế nào? Ví dụ: Những hiệp ước liên quan đến cá nhân như hiệp ước thương mại, hiệp ước lưu thông,… có thể đem lại cho cá nhân những quyền năng nhất định nhưng không thể đem lại cho cá nhân sự đảm bảo cần thiết đối với quyền năng đó. Một khi quốc gia không tham gia vào hiệp ước hoặc quốc gia có chiến tranh, có xung đột, các hiệp ước trên có thể vô hiệu và cá nhân sẽ đương nhiên mất khả năng tham gia vào các quan hệ mà hiệp ước quy định. Hiệu lực của hiệp ước, khả năng tham gia các quan hệ quốc tế của cá nhân tùy thuộc rất nhiều vào quy định của quốc gia. Bản thân cá nhân không thể dùng ý chí để quyết định được.

Ví dụ: Điều 6 Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm 1948 quy định: “Những kẻ phạm tội diệt chủng sẽ bị 1 Tòa án có thẩm quyền của quốc gia nơi hành vi phạm tội được thực hiện xét xử hoặc một tòa án hình sự quốc tế có thể phán quyết trên cơ sở các quốc gia thanh viên sẽ chấp nhận thẩm quyền của Tòa án quốc tế đó” Với quy định này có thể thấy, một cá nhân phạm tội diệt chủng, tùy thuộc vào ý chí của các quốc gia, có thể bị xét xử bởi 1 tòa án của quốc gia hoặc bị xét xử bởi 1 tòa án quốc tế do các quốc gia thỏa thuận thành lập. Cá nhân không có quyền lựa chọn, tức là không có ý chí trong một quan hệ pháp luật quốc tế mà mình tham gia.

Như vậy, cá nhân không  có ý chí độc lập khi tham gia các quan hệ quốc tế, và như vậy cá nhân không thể là một chủ thể của luật quốc tế.

Thứ ba: Về việc có đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Quốc tế.

Xuất phát từ việc các chủ thể luật quốc tế hoàn toàn có ý chí độc lập trong các quan hệ quốc tế, dẫn đến đặc trưng thứ ba của chúng: Có đầy đầy đủ quyền và nghĩa vụ riêng biệt đối với các chủ thể khác thuộc phạm vi điều chỉnh của luật quốc tế. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc mọi thực thể có các quyền và nghĩa vụ riêng biệt với các chủ thể luật quốc tế đều được coi là chủ thể của luật quốc tế.

Không thể phủ nhận rằng, trên thực tế, có một số trường hợp luật quốc tế trao các quyền và nghĩa vụ trực tiếp cho cá nhân. Đó là trường hợp mà luật quốc tế đặt ra để bảo vệ con người chống chế độ mãi nô (bản tuyên ngôn Bruxelles năm 1890, Hiệp ước Béc Lin năm 1885, Điều 11 Hiệp ước Sain Germanien Laye năm 1919 đã hủy bỏ chế độ nô lệ và sự mãi nô ở Châu Phi), chống sự diệt chủng (Hiệp ước ngăn ngừa và trừng phạt sự diệt chủng năm 1948), để bảo vệ những quyền của dân tộc thiểu số, dân tị nạn và vô quốc tịch (Hiệp định thơ Lahaye năm 1930 nhằm giảm thiểu số người vô quốc tịch và thực hiện sự nhập cảnh người tị nạn tại các quốc gia đã chấp nhận sự nhập cảnh đó; Hiệp ước Genive năm 1923 ấn định 1 quy chế cho dân tị nạn, những người này được trợ giúp, được cấp thể căn cước đặc biệt tại quốc gia cho phép tị nạn; Hiệp ước Giơnevơ năm 1951 xác định quy chế của dân tị nạn);…

Đặc biệt là sự ra đời của Bản tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/2948 đã công nhận mọi cá nhân, bất luận là người dân quốc gia độc lập hay bị trị đều được hưởng các quyền và tự do trong bản tuyên ngôn. Các quyền và tự do căn bản trong bản tuyên ngôn có thể được chia thành 4 loại: (1) Các quyền về tự do cá nhân (Từ điều 3 đến điều 13) như các quyền sống tự do và an toàn, quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được được bảo vệ chống lại mọi sự bắt bớ giam giữ trái phép, mọi sự tran tấn, trừng phạt dã man, quyền tự do đi lại, xuất ngoại, hồi hương; (2) Các quyền về tự do trong mối liên lạc với người khác (Điều 14 đến Điều 16) như quyền tị nạn, quyền có quốc tịch, quyền lập gia đình; (3) Các quyenf tự do tinh thần và tự do chính trị (từ Điều 17 đến Điều 21) như quyền tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, quyền tự do lập hội, tự do bầu cử, ứng cử, quyền tham gia các công việc công; (4) Các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội (Điều 22 đến Điều 27) như quyền có việc làm, quyền tự do chọn việc làm, tự do lập nghiệp đoàn, được hưởng các chế độ an ninh xã hội, tự do học tập, hưởng một nền giáo dục căn bản và miễn phí, tự do tư tưởng về khoa học,…

Một số nhà luật học đã dựa vào những căn cứ như trên đã đề cập, họ chứng minh rằng cá nhân vẫn được hưởng quyền và các nghĩa vụ như các chủ thể khác của luật quốc tế. Tuy nhiên, theo quan điểm của em thì dù các Điều ước Quốc tế trên là hướng tới con người, hướng tới cá nhân thì những quyền, nghĩa vụ cá nhân tồn tại trong Điều ước quốc tế đó chỉ với ý nghĩa là khách thể của các quan hệ pháp luật điều ước quốc tế về quyền con người, hình thành từ sự hợp tác giữa các quốc gia với nhau hay với tổ chức quốc tế. Cá nhân trong các mối quan hệ như vậy chỉ có thể là đối tượng của những thỏa thuận hay cam kết quốc tế mà không thể là chủ thể của những mối quan hệ đó được. Bình luận về vấn đề này, B.M Shurshaloff cho rằng các Điều ước Quốc tế được ký kết giữa các quốc gia với nhau, quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các Điều ước này là dành cho nhà nước và nhà nước có phải đảm bảo cho cá nhân có những quyền trên, vì bản thân những Điều ước đó không thể nào được thực thi nếu không được nhà nước cụ thể hóa trong Luật quốc gia. Vào đầu thế kỷ XX nhà luật học nổi tiếng Martence cũng có quan điểm như vậy. Ông cho rằng cá nhân không phải là chủ thể của luật quốc tế nhưng có những quyền nhất định trong quan hệ quốc tế. Những quyền đó được nảy sinh từ bản chất tự nhiên của con người, từ tình thế họ là công dân của một quốc gia  .

Như vậy, cần phải thấy rằng việc cá nhân tham gia vào một số quan hệ pháp luật quốc tế về quyền con người là do sự thỏa thuận của các chủ thể luật quốc tế. Cá nhân chỉ là chủ thể của quyền con người chứ không phải chủ thể của luật quốc tế về quyền con người. Có thể lấy ví dụ bản tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền để chứng minh cho điều này. Bản tuyên ngôn nhân quyền chỉ có hiệu lực ràng buộc về phương diện tinh thần, vì bản tuyên ngôn chỉ bao gồm những nguyên tắc, luân lý hoặc triết lý. Đoạn cuối bài tự của bản tuyên ngôn có viết: “Đại hội đồng liên hợp quốc Công bố bản Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền này như một tiêu chuẩn thực hiện chung cho tất cả các dân tộc và quốc gia, sao cho mỗi cá nhân và đoàn thể xã hội luôn nhớ tới bản Tuyên ngôn này, nỗ lực phát huy sự tôn trọng các quyền tự do này bằng học vấn và giáo dục, và bằng những biện pháp lũy tiến trên bình diện quốc gia và quốc tế, bảo đảm sự thừa nhận và thực thi trên toàn cầu các quyền tự do này cho các dân tộc thuộc các Quốc gia thành viên hay thuộc các lãnh thỗ bị giám hộ.” Bản tuyên ngôn không phải là một hiệp ước, vì lẽ ấy, bản tuyên ngôn không có hiệu lực pháp lý, không thể coi như đương nhiên có hiệu lực hủy bỏ Luật quốc nội trong trường hợp luật quốc nội trái với bản tuyên ngôn. Quốc gia hoàn toàn có quyền hủy bỏ quy tắc quốc nội trái với bản tuyên ngôn. Điều đó cũng có nghĩa là hiệp ước chỉ có hiệu lực với một cá nhân khi quốc gia mà cá nhân đó mang quốc tịch tham gia điều ước hoặc những quy tắc quốc tế đó được ban hành trong quốc gia, và như thế, đã trở thành luật quốc nội của quốc gia đó.

Trên đây mới bàn đến những quyền, nghĩa vụ của cá nhân có thể gây nhầm lẫn trong việc xác định tư cách chủ thể luật quốc tế của cá nhân. Một điều quan trọng nữa là, trên thực tế có rất nhiều quyền và nghĩa vụ cá nhân không hề có. Theo tập quán quốc tế, những cá nhân không có những quyền hạn do Luật quốc tế ấn định mà những quyền này được dành cho quốc gia. Chẳng hạn như cá nhân không thể thưa kiện trước tòa án quốc tế, không thể kí kết các hiệp ước quốc tế,…

Như vậy, có thể khẳng định cá nhân không các quyền, nghĩa vụ ngang bằng, riêng biệt với các chủ thể khác của luật quốc tế mà phải chịu sự tác động của quốc gia.

Thứ tư: Về khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi mà chủ thể gây ra.

Có thể thấy rằng không một chủ thể nào có quyền tài phán chủ thể của Luật Quốc tế, trên nó không tồn tại quyền lực chính trị nào chi phối hoạt động của nó và khi tham gia vào các quan hệ quốc tế thì các chủ thể có vị trí độc lập, bình đẳng với nhau. Khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi của mình gây ra có quan hệ mật thiết với khả năng có sự tự do ý chí tham gia các quan hệ quốc tế.

Do đó, một điều tất yếu từ việc cá nhân không có các quyền, nghĩa vụ riêng biệt theo quy định của luật quốc tế là cá nhân sẽ không có sự tự do ý chí tham gia các qan hệ quốc tế, đồng thời cá nhân cũng không có khả năng gánh vác những trách nhiệm pháp lý quốc tế do những hành vi của mình gây ra 1 cách độc lập. Một khi không có vị trí độc lập bình đẳng với các chủ thể khác, cá nhân sẽ không thể độc lập gánh chịu trách nhiệm pháp lý do những hành vi của mình gây ra.

Thực tiễn ta thấy rằng, trong mối tương quan về địa vị pháp lý trong Luật quốc gia thì nhà nước luôn có quyền tài phán đối với công dân nước mình, phần lớn các quan hệ phát sinh giữa cá nhân với nhà nước đều được điều chỉnh bởi phương pháp quyền uy, mệnh lệnh phục tùng. Mặt khác, chúng vẫn có thể bị tài phán bởi các cơ quan quốc tế khác (ví dụ như Tòa án binh Quốc tế) theo Luật Quốc tế. Vì vậy, khi tham gia vào các hoạt động, cá nhân luôn bị chi phối ảnh hưởng bởi quyền lực chính trị và khi tham gia vào quan hệ với các chủ thể khác của Luật Quốc tế thì chúng khó có thể có được vị trí độc lập và bình đẳng.

KẾT LUẬN

Hiện nay việc có nên đưa cá nhân vào là chủ thể của Công pháp quốc tế hay không cũng đang còn là vấn đề gây tranh cãi lớn. Dù không ủng hộ quan điểm này nhưng em vẫn mong muốn rằng trong tương lai cá nhâ có thể tham gia nhiều hơn nữa vào đời sống quốc tế. Luật Quốc tế cũng như Luật quốc gia đều có sự phát triển, thay đổi theo quá trình phát triển khách quan của xã hội. Vì vậy với sự phát triển và hội nhập toàn cầu như hiện nay thì mở rộng khái niệm “Luật Quốc tế” là điều cần thiết nhưng cần có sự nhìn nhận phù hợp với khoa học pháp lý của từng chế độ, từng hình thức chính trị của mỗi quốc gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.  Giáo trình Luật Quốc tế - Đại học luật Hà Nội, 2010

2. “Luật quốc tế”, Lưu Văn Bình, giảng viên luật Đh Luật Hà Nội, thư viện ĐH Luật Hà Nội

3. “Đôi điều đánh giá về quan điểm cho rằng: Chủ thể của Luật quốc tế còn có cá nhân, các công ty xuyên quốc gia, tổ chức phi chính phủ”, tiểu luận Luật quốc tế, xem: tailieu.vn.

4. “Cá nhân, chủ thể của Luật Quốc tế?”, Nguyễn Đức Lam.

5. Hiến chương Liên Hiệp quốc.


6. Tuyên ngôn Liên hợp quốc về nhân quyền.

No comments:

Post a Comment