29/01/2015
Một số vấn đề về giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới - Bài tập học kỳ Luật Bình đẳng giới
Luật Bình đẳng giới được thông qua ngày 29/11/2006 tại kỳ họp thứ 10 của Quốc hội khoá XI và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007. Là một bộ phận của hệ thống pháp luật nước ta, Luật bình đẳng giới và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng chịu sự giám sát của các cơ quan quyền lực nhà nước, đặc biệt là Quốc hội. Điều 83 của Hiến  pháp năm 1992 và Điều 1 của Luật tổ chức Quốc hội quy định: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”. Ở địa phương, chức năng giám sát này được trao cho Hội đồng nhân dân các cấp.

Để tìm hiểu cụ thể công tác giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới, em đã lựa chọn đề tài “Một số vấn đề về giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới” cho bài tập lớn bộ môn Luật bình đẳng giới. Bài viết trình bày những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất về lí luận, thực trạng của hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới, cũng như đưa ra những phương hướng để khắc phục, hoàn thiện hơn hoạt động này.
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ GIÁM SÁT VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

1. Khái niệm “giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới”

1.1. Khái niệm “giám sát”

Giám sát là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước. Trong bất kỳ một chế độ Nhà nước nào, từ chế độ Nhà nước chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa cho đến xã hội chũ nghĩa, giai cấp thống trị đều đặt ra pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với ý chí của mình. Song, có một thực tế không ai có thể phủ nhận được là không phải lúc nào pháp luật cũng được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Điều này có rất nhiều lý do khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan. Do vậy, để đảm bảo pháp luật luôn luôn được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, giai cấp thống trị bắt buộc phải thường xuyên tiến hành hoạt động giám sát.

Vậy, “giám sát” nghĩa là gì? Theo Từ điển tiếng Việt, “giám sát” được hiểu là “theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định không” . Dưới góc độ Luật học, “giám sát” có thể được hiểu là “việc đánh giá hiệu quả và năng lực hoạt động của các cá nhân, cơ quan, tổ chức.” 

Từ khái niệm trên, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của “giám sát” như sau:

Thứ nhất: Hoạt động giám sát của Nhà nước đều là hoạt động mang tính quyền lực chính trị (thực hiện quyền lực nhà nước). Lực lượng nắm giữ quyền lực chính trị sử dụng giám sát như một biện pháp để đảm bảo cho pháp luật của mình được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. 

Thứ hai: Hoạt động giám sát được tiến hành trên một phạm vi vô cùng rộng lớn, nó chạm đến hầu như tất cả các vấn đề của đời sống xã hội. 

Thứ ba: Giám sát là hành vi độc lập, là hoạt động kiểm tra từ bên ngoài, do đó mục đích của giám sát là chỉ ra những khiếm khuyết và trách nhiệm trong thi hành pháp luật chứ không tiến hành khắc phục bằng các giải pháp cụ thể.

Thứ tư: Nếu đi vào bản chất của khái niệm “giám sát” th́ì “giám sát” được quan niệm là hoạt động có ý thức, có tổ chức, có mục đích. Hoạt động giám sát luôn gắn liền với một chủ thể nhất định, xác định được đối tượng chịu sự giám sát nhất định và thể hiện được nội dung về quyền và trách nhiệm của hai bên chủ thể trong quan hệ giám sát. Hoạt động giám sát phải được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật, tuân theo những nguyên tắc, thủ tục nhất định, đồng thời cũng phải được bảo đảm thực hiện bằng những biện pháp cần thiết. 

Như vậy, một cách khái quát, có thể định nghĩa giám sát là hoạt động do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm đảm bảo cho pháp luật được thực thi trên thực tế.

1.2. Khái niệm “giám sát việc thực hiện pháp luật về Bình đẳng giới”

Bình đẳng giới là một trong những chiến lược quan trọng của quốc gia, là một bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là cơ sở nền tảng của chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước. Việc thực hiện pháp luật Bình đẳng giới được xem là yếu tố then chốt quyết định sự thành công và hiệu quả của công tác bình đẳng giới. Điều này càng khiến cho hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.

Chúng ta cũng biết, vấn đề về giới nằm ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quan hệ giới chồng chéo rất nhiều quan hệ trong xã hội. Điều này khiến cho pháp luật về bình đẳng giới có đối tượng điều chỉnh ở phạm vi rất rộng, liên quan đến mọi quan hệ trong xã hội, từ chính trị, kinh tế, lao động, văn hoá, thể thao, giáo dục tới gia đình. Chính vì thế, bài toán làm sao để thực thi có hiệu quả, nghiêm minh pháp luật bình đẳng giới trở nên phức tạp, đồng thời cũng  khiến cho hoạt động giám sát trở nên vô cùng quan trọng. 

Từ khái niệm về “giám sát” nói trên, có thể đưa ra định nghĩa về “giám sát việc thực hiện pháp luật Bình đẳng giới” như sau: Giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới là hoạt động do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới được thực thi.
Xét về nội hàm, “giám sát việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới” có những đặc trưng sau đây:

Thứ nhất: Chủ thể tiến hành hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới chính là các cơ quan quyền lực của Nhà nước (Điều 36 Luật Bình đẳng giới). 

Thứ hai: Đối tượng chịu sự giám sát là các cơ quan, cá nhân, tổ chức có trách nhiệm trong việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới, bao gồm cả cơ quan quản lý Nhà nước về bình đẳng giới.

Thứ ba: Hình thức giám sát bao gồm hoạt động theo dõi và kiểm tra từ bên ngoài việc thực thi pháp luật bình đẳng giới trên thực tế để chỉ ra những khiếm khuyết, sai phạm và trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới.

1.3. So sánh giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới với thanh tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới

Để tìm hiểu sự khác biệt giữa hai khái niệm tưởng chừng giống nhau này, trước tiên chúng ta cần có cái nhìn khái quát cơ bản về “thanh tra” và “thanh tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới”. 

Dưới góc độ Luật học, “thanh tra” là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước. Các cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan nhà nước. Thanh tra là hoạt động xem xét, làm rõ đúng, sai trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức, tìm ra nguyên nhân, đề xuất biện pháp khắc phục, xử lý theo quy định của pháp luật. Thực chất, hoạt động thanh tra là kiểm tra theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý, nhưng được thực hiện thông qua bộ máy thanh tra. 

Theo đó, “thanh tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới” được hiểu là hoạt động do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành nhằm kiểm tra, xem xét, đánh giá, kết luận chính thức về việc thực hiện chính sách pháp luật về bình đẳng giới của cơ quan, tổ chức, cá nhân, góp nhần nâng cao hiệu quả quản lí hành chính Nhà nước về bình đẳng giới, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Như vậy, về cơ bản, giám sát, thanh tra đều là những hoạt động cụ thể thực hiện chức năng chung của Nhà nước, có mục tiêu là bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật về bình đẳng giới được thi hành triệt để và thống nhất. Các hoạt động này giống nhau ở chỗ đều là những hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước. Song, giữa chúng cũng có những điểm khác nhau cơ bản như sau:

- Về chủ thể tiến hành: Giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới được thực hiện bởi cơ quan quyền lực nhà nước, ở trung ương là Quốc hội và ở địa phương là Hội đồng nhân dân. Thanh tra việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới lại do cơ quan quản lý Nhà nước về Bình đẳng giới tiến hành, là thực hiện một trong các nội dung của quyền hành pháp, nhằm bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật trong lĩnh vực bình đẳng giới, tăng hiệu quả quản lí hành chính Nhà nước về bình đẳng giới. 

- Về cách thức tiến hành: Giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới là xem xét, kiểm tra từ bên ngoài, chỉ ra những khiếm khuyến, trách nhiệm của cơ quan thi hành. Cơ quan giám sát chỉ phát hiện vi phạm và yêu cầu cơ quan chức năng xử lí, việc xử lí ra sao không phải trách nhiệm của cơ quan giám sát. Đó chính là hoạt động và trách nhiệm của cơ quan thanh tra. Điều đó có nghĩa là cơ quan giám sát có quyền kiểm tra cả hoạt động của cơ quan thanh tra.

2. Vai trò của giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới

Hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ngoài ý nghĩa là chế định của pháp luật, hoạt động theo quy định của pháp luật, ở một giác độ khác, hoạt động này còn mang những ý nghĩa, vai trò nhất định đối với đời sống xã hội. Đó là:

- Thứ nhất: Ở một khía cạnh nào đó, giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới mang tính phản biện xã hội, vì xét đến cùng, giám sát cũng là lắng nghe, học tập trí tuệ của nhân dân nhằm hoàn thiện chính  sách, hoàn  thiện công  tác tổ chức lãnh đạo và từ đó quay lại phục vụ nhân dân, huy động, cổ vũ sức mạnh tổng hợp của mọi giai tầng xã hội. Bình đẳng giới lại là một lĩnh vực mang tính xã hội sâu sắc, nó không thể được hoàn thiện, được thực hiện có hiệu quả nếu không phản ánh được thực trạng xã hội. 

- Thứ hai: Giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới sẽ phản ánh hiện thực khách quan cuộc sống về quan hệ giới, là cơ sở thực hiện và là những dẫn chứng sinh động cho công tác xây dựng, điều chỉnh chính sách, kiến nghị với Quốc hội trong công tác lập pháp; xây dựng nghị quyết phù hợp với đời sống xã hội, nhằm tránh tình trạng “pháp luật trên trời, cuộc đời dưới đất”. Nhất là với tình hình còn tồn tại nhiều định kiến giới như trong xã hội Việt Nam, việc ban hành pháp luật bình đẳng giới và thực thi nó trên thực tế có khoảng cách rất lớn. Bình đẳng giới phải là bình đẳng giới thực chất, chứ không thể chỉ là lời nói suông, là câu chữ trong văn bản. Vì thế, thông quan hoạt động giám sát, những trăn trở, bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân được chuyền tải kịp thời, chính xác, đúng địa chỉ cần thiết, góp phần to lớn vào mục tiêu bình đẳng giới.

- Thứ ba: Giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới có tác dụng như là một biện pháp ngăn ngừa các sai phạm trong quan hệ giới khi chưa quá muộn để trở thành tội phạm, khác với công tác thanh tra là đưa ra kết luận bằng các số liệu cụ thể để xác định có vi phạm pháp luật hay không và phải chịu xử lý theo các chế tài của pháp luật quy định. Do tính chất công việc và mục tiêu khác nhau nên kết quả và ý nghĩa cũng khác nhau chứ không như nhiều người ví von “Giám sát ngoài da, thanh tra mới vào trong ruột” với một hàm ý xem nhẹ công tác giám sát.

3. Cơ quan tiến hành hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới

Điều 36 Luật Bình đẳng giới năm 2006 quy định các cơ quan có trách nhiệm giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới như sau: 

“1. Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới.

2. Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới tại địa phương”.

Theo quy định trên, các cơ quan tiến hành hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới chính là các cơ quan quyền lực của Nhà nước, bao gồm Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu của Quốc hội, đại biểu Quốc hội; Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Quy định trên phù hợp với Hiến pháp và các Luật tổ chức hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân. 

Theo đó, ở trung ương, chức năng giám sát việc thực hiện pháp luật nói chung là thực hiện pháp luật về bình đẳng giới nói riêng thuộc về Quốc hội và các cơ quan hữu quan. Ở địa phương, Hội đồng nhân dân là cơ quan chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới.

Cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới như sau:

3.1. Chức năng giám sát của Quốc hội (Giám sát ở trung ương)

Nói về chức năng giám sát của Quốc hội, Điều 83 Hiến pháp năm 1992 và Điều 1 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001 quy định: “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”. Cùng với các chức năng lập hiến, lập pháp và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, giám sát là một trong những chức năng chủ yếu của Quốc hội. Chức năng giám sát của Quốc hội đă được xác định xuyên suốt tất cả các văn bản Hiến pháp của nước ta (Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992). Đồng thời, chức năng này cũng đă được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước.

Chủ thể thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, theo quy định của pháp luật hiện hành bao gồm Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Tuỳ từng chủ thể thực hiện quyền giám sát của Quốc hội mà có đối tượng, h́nh thức và nội dung giám sát cụ thể.

- Quốc hội (tại kỳ họp Quốc hội): Xem xét các báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; có thể băi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; có thể miễn nhiệm, băi nhiệm Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn hoặc không phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ .

- Uỷ ban Thường vụ Quốc hội: Điều 91 Hiến pháp 1992 và Điều 11 Luật tổ chức Quốc hội quy định như sau Uỷ ban thường vụ Quốc hội có quyền “Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc huỷ bỏ các văn bản đó; huỷ bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội”.

- Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội: Điều 94 Hiến pháp 1992 và Điều 21 Luật tổ chức Quốc hội quy định: “Hội đồng dân tộc nghiên cứu và kiến nghị với Quốc hội những vấn đề về dân tộc; thực hiện quyền giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng có đồng bào dân tộc thiểu số.” Đồng thời, Điều 95 Hiến pháp 1992 cũng viết Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội “thực hiện quyền giám sát trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do luật định”. 
- Đại biểu Quốc hội: Thực hiện quyền chất vấn Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác nhau của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; có quyền yêu cầu, giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của cử tri. Những quyền hạn trên được ghi nhận tại Điều 98 Hiến pháp 1992.

Như vậy, quyền giám sát của Quốc hội đặc biệt lớn, không bị giới hạn bởi đối tượng, phạm vi giám sát. Về hình thức, Quốc hội thực hiện chức năng như của Toà án bảo hiến được thành lập ở nhiều nước. Để củng cố pháp chế, kỷ luật trong quản lý hành chính nhà nước, cần tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội đối với hệ thống hành chính.

3.2. Chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp (Giám sát ở địa phương)

Giám sát là một trong những chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân các cấp, được quy định trong Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2003, gồm giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và của đại biểu Hội đồng nhân dân gọi chung là giám sát của Hội đồng nhân dân.

Giám sát của Hội đồng nhân dân là việc theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của các cơ quan, tổ chức (nhà nước và nhân dân), cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến Pháp, luật pháp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân ở địa phương có thực hiện đúng quy định không. Như vậy, có thể thấy nội dung giám sát của Hội đồng nhân dân rất rộng lớn, đa dạng trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó bao gồm cả lĩnh vực thực hiện pháp luật về bình đẳng giới. 

Nhưng dù trên lĩnh vực nào thì hoạt động giám sát cũng gồm 3 nội dung cơ bản, đó là: Giám sát việc tuân thủ pháp luật, giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật và giám sát việc triển khai thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp. Về hình thức giám sát thì căn cứ vào phương thức tiến hành được phân thành 3 loại: Giám sát bằng văn bản (yêu cầu đơn vị được giám sát báo cáo bằng văn bản); giám sat tại kỳ họp Hội đồng nhân dân  (giám sát thông qua kỳ họp) và giám sát thực tế (đi giám sát tại cơ sở). Việc phân chia này mang tính phân loại, xác định nhiệm vụ, còn trong thực tiễn hoạt động giám sát đều sử dụng kết hợp các nội dung, hình thức giám sát trên để phát huy tính tổng hợp toàn diện của hoạt động giám sát.

Hằng năm, căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội và những vấn đề dư luận xã hội quan tâm cùng các nội dung của Thường trực cấp ủy giao nhiệm vụ cho Đảng đoàn Hội đồng nhân dân . Tại kỳ họp cuối năm, Hội đồng nhân dân các cấp thông qua nghị quyết về chương trình, nội dung giám sát cho năm sau. Trên cơ sở nghị quyết của Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân và các Ban Hội đồng nhân dân xây dựng chương trình chi tiết, xác định quy trình, hình thức, đối tượng, thời gian tiến hành phù hợp để giám sát có hiệu quả.

4. Nội dung của hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới 

4.1. Giám sát việc ban hành Văn bản Quy phạm pháp luật về bình đẳng giới

Giám sát việc ban hành Văn bản Quy phạm pháp luật về bình đẳng giới được coi là nội dung quan trọng hàng đầu, bởi nó có ý nghĩa tiên quyết với sự thành công của công tác bình đẳng giới. Các văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới ra đời sẽ có tác động tới toàn bộ hệ thống pháp luật của nước ta, bởi quan hệ giới có liên quan đến hầu như tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chính vì thế, việc giám sát công tác ban hành chúng sẽ càng trở nên cần thiết.

Trách nhiệm giám sát thuộc về cả cơ quan quyền lực Nhà nước ở trung ương và địa phương. Cụ thể Quốc hội sẽ chịu trách nhiệm giám sát quá trình soạn thảo, ban hành Luật, nghị định, nghị quyết, chỉ thị,... của Chính phủ, các bộ, ngành địa phương. Hội đồng nhân dân sẽ chịu trách nhiệm  giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân cùng cấp, nghị quyết của Hội đồng nhân dân câp dưới trực tiếp. Mục đích của việc giám sát là đảm bảo các văn bản pháp luật được ban hành đúng tiến độ, đúng thẩm quyền, không trái với Hiến pháp,và các văn bản pháp luật của cấp trên. Giám sát việc ban hành Văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới chính là giám sát quá trình soạn thảo, ban hành, thông qua văn bản pháp luật về bình đẳng giới, bao gồm các nội dung cụ thể sau đây: 

Thứ nhất: Đảm bảo văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới được ban hành đúng trình tự, thẩm quyền,đúng thời hạn, nội dung không trái với Hiến pháp và các văn bản pháp luật về bình đẳng giới của cấp trên.

Dưới sự giám sát của Quốc hội, Luật bình đẳng giới đã được ban hành đúng trình tự, thẩm quyền, đảm bảo không trái với các nguyên tắc của Hiến pháp 1992 về bình đẳng giới. Luật bình đẳng giới đã được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29/11/2006 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2007. Sau khi Luật bình đẳng giới được Quốc hội thông qua, việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới để cụ thể hóa các quy định của Luật đã được Chính phủ quan tâm chỉ đạo thực hiện. Thủ tướng Chính phủ đă ban hành Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg ngày 03/5/2007 về việc triển khai thi hành Luật bình đẳng giới, trong đó xác định vai tṛò và trách nhiệm của các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc triển khai thi hành Luật. Cho đến nay, Chính phủ đã ban hành 3 nghị định hướng dẫn Luật bình đẳng giới, bao gồm: Nghị định số 70/2008/NĐ – CP ngày 4/6/2008 hướng dẫn thi hành Luật bình đẳng giới; Nghị định số 48/2009/NĐ – CP ngày 19/5/2009 về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới; Nghị định số 55/2009/NĐ – CP ngày 10/6/2009 về xử lí vi phạm hành chính về bình đẳng giới.

Tuy nhiên trên thực tế, cả ba nghị định trên đều không được ban hành đúng tiến độ. Theo dự định của Chính phủ thì Nghị định về trách nhiệm quản lý nhà nước và phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về b́nh đẳng giới phải được ban hành trong tháng 5 năm 2007; nghị định về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới dự kiến ban hành trước ngày 31/5/2007; Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới cũng dự kiến ban hành vào cuối năm 2007. 

Thứ hai: Giám sát việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ các văn bản pháp luật hiện hành cho phù hợp với các nguyên tắc của Luật bình đẳng giới.

Kể từ khi Luật bình đẳng giới được thông qua, các bộ, ngành, địa phương cũng đă tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật hiện hành cho phù hợp với các nguyên tắc của Luật bình đẳng giới và bước đầu triển khai việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Công tác giám sát cũng được chú trọng triển khai ở các địa phương. 

Thứ ba: Phát hiện và yêu cầu bãi bỏ các văn bản pháp luật sai trái của cấp dưới trực tiếp, trong đó bao gồm các hành vi ban hành văn bản pháp luật không đúng trình tự, không đúng thẩm quyền, có nội dung không đúng quy định của pháp luật. 

Trên thực tế, công tác giám sát các văn bản pháp luật được thực hiện chặt chẽ và có hệ thống nên việc các văn bản pháp luật không đảm bảo các yêu cầu nêu trên có số lượng không nhiều. Tuy nhiên, các cơ quan giám sát vẫn đẩy mạnh công tác kiểm tra, rà soát hệ thống văn bản pháp luật về bình đẳng giới.

4.2. Giám sát việc triển khai thực hiện luật, nghị quyết, nghị định về bình đẳng giới

Việc giám sát hoạt động triển khai thực hiện luật và các nghị quyết, nghị định về bình đẳng giới luôn là mối quan tâm hàng đầu của các cơ qan quyền lực nhà nước. Bởi khi một văn bản pháp luật được ban hành thì việc triển khai thực hiện nó trên thực tế chính là bước nối để đưa pháp luật tới đời sống xã hội, cũng như phát huy hiệu lực của văn bản pháp luật đó trên thực tế. Giám sát việc triển khai thực hiện pháp luật về bình đẳng giới có thể coi là hoạt động không đơn giản, bởi lĩnh vực cần giám sát là rất rộng lớn, đồng thời vấn đề bình đẳng giới cũng chưa thực sự đi sâu vào nhận thức của các tầng lớp xã hội.

Các lĩnh vực cần triển khai việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới bao gồm: chính trị, kinh tế, lao động, giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, thông tin, thể dục, thể thao và y tế. Với các lĩnh vực cần giám sát rộng đến vậy, các cơ quan quyền lực nhà nước sẽ tập trung giám sát vào những nội dung sau đây:
Giám sát công tác tuyên truyền, phổ biến Luật bình đẳng giới

Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật bình đẳng giới được các cơ quan, tổ chức quan tâm quán triệt trong đội ngũ cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân. Do vậy, khi tiến hành giám sát công tác tuyên truyền, phổ biến Luật bình đẳng giới thì các cơ quan có chức năng cần quan tâm giám sát tất cả các đối tượng trên. 
Chúng ta cũng biết rằng công cụ hữu hiệu nhất để tuyên truyền, phổ biến pháp luật nói chung và pháp luật bình đẳng giới nói riêng chính là biện pháp thông tin, giáo dục và truyền thông. Do tính chất phổ biến rộng rãi và dễ dàng để mọi đối tượng tiếp cận nên biện pháp này vừa mang tính hiệu quả cao nhưng cũng tiềm ẩn những nguy cơ nếu việc tuyên truyền không được quan tâm đúng mức. Theo suy nghĩ của em, cơ quan giám sát cần thường xuyên kiểm tra, xem xét để đảm bảo được những nội dung sau đây:

Thứ nhất, đảm bảo cho nội dung, hình thức thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới phù hợp với các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới được quy định tại Điều 6 Luật Bình đẳng giới. 

Thứ hai, hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới phải đảm bảo định hướng, khuyến khích người dân thực hiện bình đẳng giới trên thực tế trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Thông qua các phương tiện gần gũi với người dân như tivi, báo đài, các cuộc thi tìm hiểu, các cuộc vận động, triển lãm tranh ảnh về bình đẳng giới,… để giới thiệu cho người dân các chính sách, pháp luật về bình đẳng giới; kiến thức, thông tin, số liệu về giới và bình đẳng giới cũng như  tác hại của định kiến giới, phân biệt đối xử về giới; công tác đấu tranh, phòng ngừa, xử lý vi phạm pháp luật về bình đẳng giới.

Thứ ba, công tác thông tin, giáo dục, truyền thông về bình đẳng giới phải được xem xét và kiểm soát chặt chẽ để không mang định kiến giới, không tạo ra định kiến giới,… đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục. Tranh ảnh trong sách giáo khoa, các chương trình quảng cáo, phim ảnh cần loại bỏ những định kiến giới, bởi nó tác động không tốt đến nhận thức của trẻ em. Ví dụ: loại bỏ các hình ảnh trong sách vở miêu tả sinh hoạt gia đình – mẹ nấu cơm, bố đọc báo xem phim, con gái quét nhà còn con trai ngồi chơi đồ chơi; các chương trình hài trên truyền hình khi chồng mắng chửi vợ, dù nó chỉ đơn thuần mang tính giải trí. 

Cuối cùng, đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan chức năng trong việc thực hiện, giám sát,…trong thông tin, giáo dục, truyền thông về giới và bình đẳng giới. Như Bộ tư pháp, Bộ giáo dục, Bộ lao động thương binh và xã hội Uỷ ban nhân dân các cấp,…cần phối hợp với nhau để vận hành thống nhất, bài bản, có hệ thống các hình thức thông tin, giáo dục, truyền thông; kiểm tra, xem xét, phát hiện và xử phạt các trường hợp vi phạm pháp luật về bình đẳng giới, nhất là trong lĩnh vực truyền thông, giáo dục.

Trên thực tế, các nội dung trên được thực hiện thường xuyên và đem lại hiệu quả tích cực. Bộ tư pháp với vai trò là cơ quan thường trực của Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ đã xây dựng Đề cương tuyên truyền Luật bình đẳng giới làm cơ sở cho các báo cáo viên, tuyên truyền viên khi tham gia giới thiệu, phổ biến Luật. Nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức phi chính phủ trong nước và quốc tế đã tiến hành tuyên truyền nâng cao nhận thức về giới và bình đẳng giới bằng nhiều hình thức phong phú (phát hành tờ rơi, sách, tập huấn, tọa đàm, hội thảo…). Đài tiếng nói Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam và các cơ quan thông tin đại chúng khác cũng đã mở các chuyên mục tuyên truyền về bình đẳng giới. Bộ lao động – thương binh và xã hội đã tổ chức tập huấn cho lãnh đạo các sở, cán bộ phụ trách về bình đẳng giới trong ngành lao động. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam cũng đã tham gia tích cực vào công tác tuyên truyền, phổ biến Luật bình đẳng giới với nhiều hình thực phong phú và đa dạng, tổ chức tập huấn cho đội ngũ báo cáo viên chủ chốt của các tỉnh, thành phố, bộ, ngành.

Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai thực hiện Luật bình đẳng giới cũng cho thấy có một số tồn tại:Thứ nhất, Nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức và nhân dân nhất là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa và đồng bào dân tộc thiểu số còn có những hạn chế, định kiến giới còn nhiều; bản thân một bộ phận phụ nữ cũng còn có tư tưởng an phận, không muốn phấn đấu vươn lên trong cuộc sống và sự nghiệp; Thứ hai, Công tác tuyên truyền, phổ biến và nâng cao nhận thức về Luật bình đẳng giới tại một số địa phương, bộ, ngành còn mang tính hình thức. Hội liên hiệp phụ nữ các cấp vẫn là đơn vị chủ lực chính trong việc tuyên truyền Luật bình đẳng giới; còn thiếu vắng sự chủ động, tích cực từ phía các cơ quan quản lý nhà nước. Chính vì vậy, các cơ quan giám sát có thể thông qua các hình thức kiểm tra để đốc thúc công tác triển khai khắc phục các hạn chế trên hoặc yêu cầu xử lí các trường hợp vi phạm.

Giám sát việc tổ chức, bộ máy thực hiện bình đẳng giới

Bộ máy thực hiện bình đẳng giới chính là các cơ quan quản lý trực tiếp các hoạt động liên quan đến giới và bình đẳng giới ở nước ta. Hiện nay, cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bình đẳng giới là Bộ lao động – thương binh và xã hội. Theo đó, Bộ trưởng Bộ lao động – thương binh và xã hội là Chủ tịch Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam và Văn phòng giúp việc Ủy ban được đặt tại Bộ lao động – thương binh và xã hội. Các địa phương cũng đã tiến hành sắp xếp lại tổ chức, bộ máy và hình thành đơn vị và cán bộ làm công tác bình đẳng giới trong các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, xã.

Khi tiến hành giám sát tổ chức, bộ máy thực hiện bình đẳng giới thì các cơ quan có thẩm quyền cần tiến hành kiểm tra các mặt như: kiến thức chuyên môn của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới; cơ cấu tổ chức, hoạt động của các cơ quan chuyên môn về bình đẳng giới tại địa phương; thực tế công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, thông tin được thực hiện tại các cơ quan này ra sao, có đạt hiệu quả hay không; tình hình thực hiện bình đẳng giới ở từng địa phương như thế nào,...

Tuy nhiên, qua thực tế giám sát cho thấy, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới còn thiếu và chưa được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên môn về giới, bình đẳng giới để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Một số địa phương chưa phân công cán bộ chuyên trách về bình đẳng giới, do vậy việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bình đẳng giới ở một số nơi vẫn còn mang tính hình thức và vẫn do Hội phụ nữ thực hiện là chủ yếu.

Giám sát việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng chính sách, pháp luật và trong ngân sách nhà nước hằng năm

- Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng chính sách, pháp luật: Luật bình đẳng giới đã xác định trách nhiệm của Chính phủ trong việc chỉ đạo, tổ chức thực hiện việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Hiện nay, hầu hết các dự án văn bản quy phạm pháp luật trình Quốc hội thông qua, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành đều do Chính phủ chủ trì soạn thảo, do vậy việc lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật ở giai đoạn soạn thảo, thẩm định là hết sức quan trọng. Cũng do vậy mà công việc giám sát việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây dựng chính sách, pháp luật cần thực hiện ngay từ quá trình soạn thảo, thẩm định. Trong đó, cần lưu tâm giám sát trước tiên là quy trình, thủ tục lồng ghép giới cũng như phân tích, đánh giá tác động của văn bản tới nam và nữ. Tuy nhiên, thực tiễn xây dựng văn bản quy phạm pháp luật trong thời gian vừa qua cho thấy một số các bộ, ban ngành – cơ quan chủ trì soạn thảo còn thiếu tích cực, chủ động nên hiệu quả lồng ghép giới chưa đạt được như mong muốn. 

- Lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong ngân sách nhà nước hằng năm: Để đảm bảo phân bổ nguồn lực bình đẳng đối với cả nam và nữ trong quá trình tham gia cũng như thụ hưởng thành quả của phát triển thì lồng ghép giới vào trong quy trình ngân sách nhà nước là hết sức quan trọng. Việc giám sát quá trình này cần tiến hành ở cả cấp ngân sách trung ương và địa phương. Đồng thời cần tiến hành giám sát việc lồng ghép trên tất cả các lĩnh vực sử dụng ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, qua thực tế giám sát cho thấy, ở cả trung ương và địa phương việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong ngân sách nhà nước trên các lĩnh vực còn rất lúng túng và chưa được triển khai. 

4.3. Giám sát việc tuân thủ pháp luật bình đẳng giới

Tuân thủ pháp luật bình đẳng giới là trách nhiệm của mọi cơ quan, gia đình, cá nhân, tổ chức. Trách nhiệm của từng đối tượng trong việc thực hiện pháp luật bình đẳng giới được quy định tại Luật Bình đẳng giới như sau: Trách nhiệm của Chính phủ (Điều 25); Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới (Điều 26); Trách nhiệm của bộ, cơ quan ngang bộ (Điều 27);Trách nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp (Điều 28);Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên (Điều 29); Trách nhiệm của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam (Điều 30); Trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội trong việc thực hiện bình đẳng giới tại cơ quan, tổ chức mình (Điều 31); Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức khác trong việc thực hiện bình đẳng giới tại cơ quan, tổ chức mình (Điều 32); Trách nhiệm của gia đình (Điều 33); Trách nhiệm của công dân(Điều 34).

Khi tiến hành giám sát việc tuân thủ pháp luật của các đối tượng trên, các cơ quan giám sát đã thường xuyên tổ chức các hình thức giám sát phong phú như: tổ chức đoàn giám sát trực tiếp, tổ chức hội nghị để nghe báo cáo việc thực hiện; thông qua việc chất vấn của đại biểu Quốc hội trong các kì họp. Các cơ quan, cá nhân phải có trách nhiệm trả lời câu hỏi chất vấn trước Quốc hội cũng như đưa ra phương hướng giải quyết các vấn đề. 

II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI

1. Đánh giá thực trạng giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới

1.1. Mặt tích cực

Nước ta có hệ thống các cơ quan giám sát tương đối hoàn thiện. Điều này góp phần rất lớn trong thành công của việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới.

Về hình thức thực hiện giám sát, em cho rằng điểm tích cực lớn nhất chính là hoạt động chất vấn của địa biểu dân cử. Khi quyền hoạch định và thi hành chính sách được trao vào tay của các quan chức thì điều quan trọng là phải có sự kiểm tra, nhắc nhở và cảnh báo kịp thời. Và chất vấn là cách hay nhất mà một thiết chế hoạt động theo chế độ hội nghị như Quốc hội có thể làm. Khi chế độ trách nhiệm được xác lập, thì các vấn đề sẽ được giải quyết nhanh hơn, cơ bản hơn. 

Về nội dung của hoạt động giám sát, các hoạt động như giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, việc rà soát, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật cho phù hợp với Luật bình đẳng giới,…được thực hiện hiệu quả. Kết quả là Luật bình đẳng giới 2006 đã được ban hành, tiếp sau đó là hàng loạt nghị định, nghị quyết liên quan, góp phần đẩy nhanh quá trình thực hiện bình đẳng giới theo công ước Cedaw.

1.2. Mặt hạn chế

Xét về bản chất giám sát là việc Quốc hội, Hội đồng nhân dân thu thập thông tin về hoạt động của ngành hành pháp và đánh giá thông tin đó. Tuy nhiên, cả hai hoạt động trên – thu thập thông tin (trong đó bao gồm cả năng lực xác định thông tin) và đánh giá thông tin - ở nước ta vẫn còn có những điểm hạn chế.

Hạn chế trong thu thập thông tin: Rõ ràng hoạt động giám sát sẽ không thể đem lại hiệu quả nếu hoạt động thu thập thông tin không tốt. Dưới đây là các phương thức chính mà Quốc hội nước ta được trang bị để thu thập thông tin : 1. Áp đặt chế độ báo cáo; 2. Tổ chức đoàn đi giám sát; 3. Thành lập ủy ban điều tra; 4 Chất vấn. Tuy nhiên, cần nhìn vào thực tế là các hình thức thu thập thông tin trên còn phiến diện và chưa linh hoạt. Nói vậy là bởi nếu càng có nhiều phương thức để thu thập thông tin thì càng có đầy đủ cơ sở hơn để xem xét và đánh giá. Xét về mặt này, Quốc hội các nước tỏ ra có nhiều thuận lợi hơn, đơn giản vì họ có nhiều phương thức hơn. Ví dụ, tổ chức điều trần, thu thập thông tin từ báo cáo của Ombudsman (tạm dịch là Thanh tra Quốc hội), từ báo cáo của Kiểm toán thuộc nghị viện là những phương thức mà Quốc hội ta chưa có.  

Ngoài ra, ở nước ta còn tồn tại một thực trạng là “giám sát trong phòng lạnh”. Thử hỏi công tác thu thập thông tin còn chính xác, còn phản ánh đúng thực trạng hay không khi không đi thực tế, không tìm hiểu cuộc sống người dân. Nhất là đối với lĩnh vực bình đẳng giới, một vấn đề nhạy cảm, khó nhận biết. Nhiều đoàn giám sát chỉ xuống phòng lạnh ngồi họp với lãnh đạo cơ sở một lúc, nghe báo cáo bằng văn bản, phát biểu qua loa, rồ ra về. Một số lãnh đạo xuống thực tế tại các địa phương cũng chỉ ngồi trong Văn phòng Uỷ ban nhân dân nghe báo cáo, nói mấy lời chỉ đạo, trong khi có thể xuống tận nhà dân, cơ sở sản xuất để nghe dân nói và nhìn chất lượng cuộc sống. Nếu chỉ xuống địa phương nghe báo cáo, thì chi bằng cứ ở cơ quan của mình, nhận văn bản tổng hợp và trả lời bằng văn bản .

Bên cạnh đó, có đủ năng lực để xác định thông tin gì là cần thiết và phải thu thập cho được cũng quan trọng không kém. Trên thực tế, các bộ, ngành có thể cung cấp rất nhiều thông tin cho các vị đại biểu quốc hội. Tuy nhiên, rất nhiều và rất tốt là những chuyện khác nhau. Hàng ngàn trang tài liệu có thể lấy đi vô số thời giờ, nhưng không nhất thiết sẽ mang lại được những thông tin có ích và chuẩn xác. Tuy nhiên, Quốc hội nước ta lại không có một hệ thống thông tin độc lập, cũng như không có tiêu chuẩn đòi hỏi về chủng loại cũng như chất lượng của thông tin phải cung cấp cho quốc hội. Thế nên mới xảy ra thực trạng một ông “bộ trưởng tư pháp” nào đó có thể dúi cho Quốc hội những thông tin được xào xáo ra từ không khí . 

Hạn chế trong đánh giá thông tin: Quốc hội ta thường tổ chức đánh giá thông tin qua hoạt động chính là thảo luận và chất vấn. Đại biểu quốc hội dành khá nhiều thời gian cho việc thảo luận các báo cáo của Chính phủ và các ngành. Đây là lúc khả năng phân tích thông tin trở thành quan trọng nhất. Vấn đề là những thông tin thu thập được nói gì cho các vị Đại biểu quốc hội về hoạt động của các bộ, ngành về các mục tiêu đề ra đạt được như thế nào. Hiệu quả của hoạt động giám sát phụ thuộc chủ yếu vào quá trình này tuy nhiên năng lực đánh giá của Đại biểu quốc hội còn hạn chế do thiếu kiến thức chuyên môn và do những thông tin có phần sai lệch, giàn trải trong các báo cáo.

2. Phương hướng hoàn thiện hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới

Thứ nhất, giám sát cần có thông tin. Các cuộc giám sát thành công đều bắt đầu từ việc nắm chắc thông tin và các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, để thực hiện tốt điều này, đại biểu phải biết lắng nghe thông tin từ phía cử tri và phân tích, đánh giá tính chính xác thông tin, đồng thời đối chiếu với các quy định pháp luật để xem xét vấn đề một cách toàn diện trước khi kết luận. Để giúp đại biểu có thể thu thập và xử lý thông tin, đáp ứng yêu cầu giám sát, các đại biểu cần được tập huấn thường xuyên hơn về công tác này; Bản thân mỗi đại biểu cũng cần trau dồi kiến thức, nâng cao hiểu biết về pháp luật nói chung, pháp luật bình đẳng giới nói riêng.

Thứ hai, cần có ưu tiên trong giám sát. Thời gian của các cuộc họp Quốc hội, của các đại biểu Hội đồng nhân dân rất ít, trong khi đó hoạt động của chính quyền có rất nhiều nội dung, tập trung giám sát tất cả là điều không thể và cách làm đó không hiệu quả. Vì vậy, xác định thứ tự ưu tiên giám sát là quan trọng nhất. Cần lựa chọn những vấn đề mà đa số cử tri quan tâm, cụ thể là những chương trình, dự án có ảnh hưởng đến quyền lợi của nhân dân; Với từng ưu tiên giám sát, Đoàn giám sát cũng phải đưa ra những yêu cầu cụ thể, ví dụ: Đã làm được gì? Chưa làm được gì? Tại sao? Ai chịu trách nhiệm? v.v…

Thứ ba, giám sát cần dựa trên tinh thần sẵn sàng hợp tác. Giữa cơ quan dân cử với cơ quan hành chính thực hiện có sự phụ thuộc lẫn nhau, cần phối hợp để nâng cao hiệu quả của chính quyền. Một trong những điều dễ bị chê trách của cơ quan dân cử là chỉ lớn tiếng kêu ca, chỉ trích mà không chỉ ra được biện pháp hữu ích để điều chỉnh hoặc giải quyết vấn đề. Với tâm thế hợp tác, đại biểu khi giám sát sẽ biết rằng, xung đột là điều tất yếu, nhất là đối với những chính sách và ý tưởng mới. Với nhận thức như vậy, thì sự bất đồng hoặc hiểu khác nhau khi thực thi là một dấu hiệu lành mạnh chỉ ra rằng, công việc đang tiến triển và mọi người đang tiếp cận theo các lựa chọn thực tế khác nhau. 

Thứ tư, giám sát cần tham gia đầy đủ nhưng không can thiệp quá sâu. Một số đại biểu coi giám sát như là kiểm tra, tức là phải bám vào việc cụ thể  hàng ngày của ủy ban, do đó họ tham gia quá sâu vào công việc hành chính thường nhật, ví dụ can thiệp bố trí nhân lực, ngân sách cụ thể cho những hoạt động thực thi. Điều này có thể làm giảm tác dụng giám sát, gây cảm giác không tin cậy và chồng chéo chức năng với nhân viên của cơ quan chấp hành. Điều cần lưu ý ở đây, là đại biểu dân cử không nên tham gia quá sâu vào công việc hành chính thường nhật. Hai vấn đề lớn nhất mà người giám sát thường gặp là tham gia quá sâu và tham gia chưa đầy đủ. Nếu tham gia quá sâu sẽ làm giảm thẩm quyền và trách nhiệm đơn vị thực thi chính sách. Tham gia chưa đầy đủ lại bị nhìn nhận là trốn tránh trách nhiệm. Cả hai thái cực hành vi này đều làm cản trở tiến trình thực hiện công việc.

Cuối cùng, giám sát cần giữ vị thế khách quan. Giám sát là hành vi của cơ quan dân cử - độc lập về vị thế, tổ chức với cơ quan chấp hành và sử dụng quyền lực và nguồn tin công cộng độc lập với cơ quan chấp hành. Do đó "giám sát" cần giữ vị thế khách quan và có tiêu chí hướng tới mục đích đã đề ra khi hoạch định chính sách. Vị thế khách quan sẽ bị giảm sút, khi các đại biểu can thiệp sâu vào quá trình triển khai thực hiện công việc.

KẾT LUẬN

Giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật nói chung. Mặc dù Luật bình đẳng giới mới được ban hành và đi vào thực hiện được gần 5 năm nhưng công tác giám sát luôn được chú trọng và triển khai có hiệu quả. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng góp phần phát triển hoạt động bình đẳng giới ở Việt Nam. Bên cạnh những điểm tích cực đó, hoạt động giám sát vẫn còn những hạn chế tồn tại. Nhiệm vụ của cơ quan công quyền là nâng cao và cải thiện chất lượng giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng giới để bình đẳng giới không chỉ là chuyện trên giấy tờ mà thật sự đi vào đời sống của người dân.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Bình đẳng giới 2006
2. Luật tổ chức Quốc hội 2001
3. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân 2001
4. Hiến pháp 1992
5. Công ước Cedaw về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối với phụ nữ
6. Từ điển Luật học
7. Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2009
8. Vũ Quang Minh, Văn phòng quốc hội “Hoạt động giám sát của quốc hội trong việc nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước”
9. Vietnamnet.vn
10. Vietbao.com
11. Wikipedia.com

No comments:

Post a Comment