Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về đạo đức và thực hành đạo đức. Ở Người, đạo đức đã đạt tới một sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa đời công và đời tư, giữa đạo đức cánh mạng và đạo đức đời thường. Chính vì thế, bất cứ người Việt Nam nào cũng có thể tìm thấy những vấn đề đạo đức mà Hồ Chí Minh đặt ra rất gần gũi với mình.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, những phẩm chất đạo đức được nêu ra là phù hợp với từng đối tượng, hơn nữa Người nhấn mạnh phẩm chất này hay phẩm chất khác là nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kì nhất định. Từ đó người đã khái quát thành những phẩm chất chung, cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới. Để làm rõ hơn vấn đề này, em đã lựa chọn đề tài “Phân tích những phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh” . Do khả năng nhận thức còn non yếu nên bài viết này không thể tránh khỏi nhiều sai sót và hạn chế. Vì vậy em rất mong được ghi nhận những ý kiến đóng góp và sửa chữa của các thầy, cô giáo cho bài viết này.
NỘI DUNG
I. Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con Người Việt Nam mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Về những phẩm chất đạo đức của người Việt Nam, quan điểm đạo đức của Hồ Chí Minh đã bao quát những mối quan hệ cơ bản của con người trong xã hội gồm:
Một là, với đất nước, dân tộc phải: “Trung với nước, hiếu với dân”.
Hai là, với mọi người phải: “Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình”.
Ba là, với mình phải thực sự: “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Bốn là, mở rộng quan hệ yêu thương con người đối với toàn nhân loại, người cách mạng phải có “Tinh thần quốc tế trong sáng”.
Đó là bốn phẩm chất chung cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại mới.
II. Phân tích những phẩm chất đạo đức cơ bản của người Việt Nam mới
1. Trung với nước, hiều với dân
Về phẩm chất đạo đức thì trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất đạo đức cơ bản nhất, quan trọng nhất, bao trùm nhất.
Trung, hiếu là những khái nhiệm đã có trong tư tuởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông đã được Hồ Chí Minh sử dụng và đưa vào nội dung mới. Trước kia trung là trung quân, là trung thành với vua; trung thành với vua cũng có nghĩa là trung thành với nước vì vua với nước là một, vua là nước, nước là nước của vua. Còn hiếu thì chỉ thu hẹp trong phạm vi gia đình, là con cái phải hiếu thảo với cha mẹ.
Tư tưởng trung với nước, hiếu với dân của Hồ Chí Minh không những kế thừa giá trị của chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc mà còn vượt qua những hạn chế của truyền thống đó.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung chủ yếu của Trung với nước là trung thành với sự nghiệp giữ nước và dựng nước. Nước ở đây là nước của dân, còn dân lại là chủ nhân đất nước. Khi Hồ Chí Minh đặt vấn đề “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”, Đảng và Chính phủ là “đày tớ nhân dân” chứ không phải “quan nhân dân để đè đầu cưỡi cổ nhân dân”; thì quan niệm về nước và dân đã hoàn toàn đảo lộn so với trước. Có thể nói rất ít lãnh tụ cách mạng đã nói về dân như vậy. Cụ thể hơn, Trung với nước là:
• Trong mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội, phải biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, trước hết.
• Quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng.
• Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Còn Hiếu với dân, có nghĩa là không chỉ hiếu thảo với cha mẹ mình, mà còn phải hiếu thảo với cha mẹ của người khác, hiếu thảo với nhân dân, gắn bó với nhân dân; bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, bao nhiêu lợi ich đều là vì dân, bao nhiêu lực lượng đều là ở dân….Người khẳng định : nước lấy dân làm gốc, gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Tư tưởng Hiếu với dân không còn dừng lại ở chỗ thương dân với tính chất là đối tượng cần phải dạy dỗ, ban ơn, mà là đối tượng phải phục vụ hết lòng. Vì vậy phải gần dân, gắn bó với nhân dân, kính trọng và học tập nhân dân, dựa hẳn vào dân, lấy dân làm gốc. Theo Hồ Chí Minh lãnh đạo phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, lại phải thường xuyên quan tâm đến việc cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để nhân dân hiểu được quyền và trách nhiệm của người làm chủ đất nước, quyền thì hưởng, còn trách nhiệm thì phải làm tròn. Có được cái đức ấy thì người cách mạng, người lãnh đạo sẽ được dân tin yêu, quý mến, kính trọng, nhất định sẽ tạo được sức mạnh to lớn cho cách mạng.
Trung với nước, hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị - đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt mà còn lâu dài về sau.
2. Yêu thương con người
Đây là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Phẩm chất đó là sự kế thừa truyền thống nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghiã nhân đạo cộng sản, tinh thần nhân văn của nhân loại, cùng với sự thể nghiệm của Hồ Chí Minh qua hoạt động cách mạng thực tiễn. Nói về tình yêu thương con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần phân tích ở những luận điểm sau:
• Tình yêu thương là một tình cảm rộng lớn, trước hết dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức bóc lột, không phân biệt màu da, dân tộc,…Tình yêu thương đó đã được thể hiện ở Hồ Chí Minh bằng một ham muốn tột bậc là làm cho nước được độc lập, dân được tự do, mọi người ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Nếu không có tình yêu thương con người như vậy thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
• Xuất phát điểm từ tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh vừa sâu xa, vừa rất cụ thể và gần gũi. Tình yêu ấy còn được thể hiện trong các mối quan hệ bạn bè, đồng chí với mọi người bình thường trong quan hệ hàng ngày. Nó đòi hỏi mọi nguời phải luôn chặt chẽ nghiêm khắc với mình, rộng rãi, độ lượng với người khác. Nó đòi hỏi thái độ tôn trọng con người, phải biết nâng người khác lên, chứ không phải hạ thấp, càng không phải vùi dập con người.
• Tình yêu thương con người theo Hồ Chí Minh còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm nhưng đã nhận rõ và cố gắng sửa chữa, kể cả đối với những người lầm đường lạc lối đã hối cải, kể cả đối với những kẻ thù đã bị thương, bị bắt hoặc đã chịu quy hàng. Chính tình yêu đó đã đánh thức những gì tốt đẹp mà Hồ Chí Minh tin rằng trong mỗi người đều có.
• Nhưng điểm nổi bật nhất trong tình thương yêu con người của Hồ Chí Minh đó là thương yêu nhân dân. Người quan tâm tới mọi đối tượng từ các cụ già, bộ đội, phụ nữ, thanh niên, đến các cháu thiếu niên nhi đồng,..
Yêu thương con người là giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, sống cao đẹp hơn. Tuy nhiên, những tình yêu thương đó phải được dựa trên nguyên tắc tự phê bình và phê bình một cách chân thành và nghiêm túc. Nó hoàn toàn xa lạ với thái độ dĩ hòa vi quý, bao che sao lầm, khuyết điểm cho nhau, càng xa lạ với thái độ “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, bè cánh của bộ phận thoái hóa, biến chất có thể đưa đến những tổn thất cho Đảng, cho cách mạng.
3. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là mối quan hệ “với tự mình”. Đây là nét đặc trưng của đạo đức cách mạng theo quan điểm của Người, một phẩm chất đạo đức trung tâm, gắn liền với hoạt động hàng ngày của mỗi người.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư cũng là những khái niệm đạo đức truyền thống được Hồ Chí Minh cải biến, đưa vào những nội dung và yêu cầu mới. Các phạm trù đạo đức đó đã được Hồ Chí Minh giải thích rất rõ rất cụ thể và dễ hiểu với mọi người.
• Cần là lao động cần cù, siêng năng, có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”
• Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức…”
• Liêm là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân”; “không xâm phạm một đồng xu, một hạt thóc của Nhà nước của nhân dân”. Phải “trong sạch, không tham lam”. “Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”. Người đã chỉ ra những hành vi trái với chữ liêm như: cậy quyền thế, dìm người giỏi, sợ khó nhọc, không dám đánh…
• Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn.
Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.
Đối với người: không nịnh nọt người trên, không xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết thật thà; không dối trá lừa lọc.
Đối với việc: để công việc lên trên việc nhà. Đã phụ trách công việc gì thì quyết làm cho kì được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó khăn nguy hiểm, việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác dù nhỏ mấy cũng tránh.
• Chí công vô tư là đem lòng chí công vô tư mà đối với người, với việc, phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, khi làm bất cứ việc gì cũng phải nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau. Đối lập với chí công vô tư là “dĩ công vô tư”, đó là điều mà đạo đức mới đòi hỏi phải chống lại.
Nhận xét:
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có quan hệ mật thiết với nhau. Có khi, Người coi cần, kiệm như hai chân của con người phải đi đôi với nhau: Cần mà không kiệm thì chẳng khác nào “gió vào nhà trống”, “nước đổ vào chiếc thùng không đáy”, “làm chừng nào, xào chừng đấy”, rốt cuộc “không lại hoàn không. Còn kiệm mà không cần thì sản xuất được ít, không đủ dùng, không có tăng thêm, không có phát triển. Có khi Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức chủ yếu của một con người, nhất là đối với cán bộ Đảng viên. Nó có quan hệ mật thiết với nhau như bốn mùa của trời, như bốn phương của đất, thiếu một mùa thì không thành trời, thiếu một phương thì không thành đất, thiếu một đức thì không thành người.
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công vô tư: ngược lại đã chí công vô tư, một lòng vì nước vì dân thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính và có được nhiều đức tính tốt khác.
Bồi dưỡng phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư sẽ làm con người ta vững vàng trước mọi thử thách “giàu sang không thể quyến rũ; nghèo khó không thể chuyển lay; uy vũ không thể khuất phục”. Nhưng đây lại la vấn đề phức tạp, nói dễ làm khó. Bởi vì nó đụng chạm đến nhiều mặt lợi ích cá nhân, tập trung nhất vào chức, quyền, danh, lợi mà nếu không vượt qua được chủ nghĩa cá nhân thì bất cứ ai cũng có thể sa vào những hành vi vô đạo đức.
4. Tinh thần quốc tế trong sáng
Đây là phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ quốc gia dân tộc.
Đó là tinh thần “tứ hải giai huynh đệ” mà Người đã tiếp thu được của Nho giáo và đã cải biến bằng mệnh đề “bốn phương vô sản đều là anh em”
Đó là tinh thần đoàn kết của nhân dân Việt Nam với các dân tộc bị áp bức, với nhân dân lao động các nước, với những người tiến bộ, yêu chuộng hòa bình công lí trên thế giới nhằm mục tiêu lớn của thời đại là hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, là hợp tác và hữu nghị với tất cả các nước các dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, tinh thần quốc tế trong sáng là tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, nó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa Sô vanh hay chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Và sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản chính là chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghiã quốc tế trong sáng.
Tinh thần quốc tế trong sáng là một phẩm chất đạo đức, là yêu cầu đạo đức nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khuôn khổ của quốc gia dân tộc. Không phải bất cứ ai, bất cứ lúc nào cũng nhận thấy tinh thần đó, nhưng việc giáo dục của Đảng và việc rèn luyện của cá nhân mỗi người về tinh thần quốc tế lại không thể coi nhẹ. Nếu coi nhẹ tinh thần quốc tế sẽ dẫn đến đổ vỡ quốc gia dân tộc, liên bang, phá vỡ tình đoàn kết quốc tế, thậm chí đưa đến tình trạng đối địch, đối đầu.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh về tình đoàn kết quốc tế trong sáng là sự mở rộng quan hệ đạo đức giữa người với nguời và với toàn nhân loại vì Người không chỉ là “người Việt Nam nhất” như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng khẳng định mà còn là “nhà văn hóa lớn của thế giới”, “chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế”.
III. Liên hệ với việc xây dựng đạo đức sinh viên hiện nay trên cơ sở chuẩn mực con người mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Thực trạng hiện nay cho thấy sinh viên là biểu hiện của sự xa rời những chuẩn mực đạo đức truyền thống, những chuẩn mực vẫn còn giá trị trong xã hội hiện đại. Vì vậy, cần giáo dục đạo đức cho sinh viên là yêu cầu cấp thiết để góp phần ngăn chặn nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay. Để làm được điều này, cần sự nỗ lực rất lớn đối với sinh viên, cụ thể :
• Rèn luyện tính siêng năng, chăm chỉ, tiết kiệm thời gian, công sức, chăm lo học tập, tự giác học bài, làm bài đầy đủ, chủ động sáng tạo trong học tập, tránh tình trạng nước đến chân rồi mới nhảy, học đối phó với thi cử.
• Bên cạnh mục tiêu hàng đầu là học tập thật tốt, Đoàn viên thanh niên cần rèn luyện cho mình tư cách trong sáng của người đoàn viên, tránh xa các tệ nạn xã hội, xác định nhiệm vụ của mình là học để sau này cống hiến và phục vụ cho lợi ích đất nước.
• Cần tiếp thu có chọn lọc những tiến bộ khoa học của nhân loại, tư xây dựng cho mình một nguyên tắc sống dựa trên tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và lời dạy bảo của cha mẹ, thày cô giúp ta có một lập trường tư tưởng đạo đức vững chắc hơn, không nao núng trước những cám dỗ của xã hội. Chủ động tham gia các phong trào đoàn, đội, rèn luyện tác phong nhanh nhẹn, năng động, sống lành mạnh, có hoài bão cho tương lai.
• Kiên quyết đấu tranh chống lại những tiêu cực, sai trái trong học đường như gian lận trong thi cử, mua điểm, chạy điểm, cờ bạc, rượu chè…Cần có thái độ lên án hiên tượng tham nhũng, hiện tượng sống thử trong xã hội hiện nay, chống lại chủ nghĩa cá nhân, thái độ ích ỷ không hòa đồng với tập thể trong học tập và trong cuộc sống thường ngày của sinh viên.
• Sinh viên có lối sống lành mạnh, văn minh, trung thực, phải sống giản dị, khiêm tốn, tiết kiệm, không xa hoa, lãng phí, đua đòi, không sa vào các tệ nạn xã hội; có quan niệm đúng đắn về tình bạn, tình yêu; biết cảm thông, chia sẻ, sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi gặp khó khăn, hoạn nạn; biết bảo vệ những giá trị văn hóa lành mạnh, tiến bộ của dân tộc, nhân loại, thời đại.
• Biết tôn trọng kỉ cương, luật pháp, quy ước của cộng đồng. Biết tận tâm học tập, ra sức luyện rèn, có lòng ham học hỏi, yêu lao động, không ngại khó, ngại khổ; có chí chủ động, sáng tạo, tự cường, tự lập; thật thà, chính trực, không gian lận trong học tập.
KẾT LUẬN
Ngoài những chuẩn mực cơ bản trên, Hồ Chí Minh quan niệm con người cần phải có những đức tính quý báu khác như: yêu lao động, nỗ lực học tập, cầu tiến bộ, khiêm tốn, giản dị, nhất quán giữa lời nói và việc làm, sống có nhân nghĩa, không bị quyến rũ trước giàu sang, không chuyển lay trước nghèo khó,.. Có như vậy con người mới thực sự hoàn thiện, vươn tới cái chân, thiện, mỹ của cuộc sống.
No comments:
Post a Comment