14/11/2014
Phân tích và bình luận về các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết - Bài tập học kỳ - Xây dựng văn bản pháp luật
MỞ ĐẦU

Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu quản lí xã hội bằng pháp luật ngày càng cao thì yêu cầu với các văn bản pháp luật được ban hành phải hoàn thiện là điều tất yếu. Hiện nay văn bản pháp luật khi được áp dụng trên thực tế gặp không ít khó khăn khách quan và chủ quan dẫn tới những bất hợp pháp và bất hợp lý đã nảy sinh. Do đó đi cùng việc ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội là một hệ thống các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết. Việc xử lí các văn bản pháp luật khiếm khuyết càng trở nên quan trọng và cần thiết. 

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, trên cơ sở kiến thức tiếp nhận từ thầy cô, giáo trình và tài liệu tham khảo, với bài tập học kì môn Xây dựng văn bản pháp luật, em xin chọn đề tài “Phân tích và bình luận về các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết” với mong muốn được hiểu và làm rõ hơn về vấn đề này. Sau đây là toàn bộ nội dung chính trong bài làm của em.

NỘI DUNG CHÍNH

I. Lý luận chung về văn bản pháp luật khiếm khuyết

1. Văn bản pháp luật khiếm khuyết:

VBPL là những văn bản được ban hành bởi các chủ thể có thẩm quyền do pháp luật quy định, chứa đựng ý chí của nhà nước nhằm đạt được mục tiêu quản lí và được nhà nước đảm bảo thực hiện. VBPL khiếm khuyết được hiểu là văn bản pháp luật “còn thiếu sót, chưa hoàn chỉnh” không đảm bảo về chất lượng mà nhà nước yêu cầu.

Xử lí VBPL khiếm khuyết là hoạt động của cơ quan nhà nước và cá nhân có thẩm quyền trong việc ra phán quyết đối với những văn bản pháp luật khiếm khuyết. Các hình thức xử lí VBPL khiếm khuyết bao gồm: biện pháp hủy bỏ, biện pháp bãi bỏ, đình chỉ thi hành, tạm đình chỉ thi hành, sửa đổi, bổ sung. 



2. Những khiếm khuyết của VBPL:
      
Trên cơ sở những yêu cầu về chất lượng của VBPL (yêu cầu về tính hợp hiến, hợp pháp, khả thi… của VBPL), có thể xác định VBPL khiếm khuyết là văn bản có một trong những biểu hiện sau đây:

* Các VBPL không đáp ứng được yêu cầu về chính trị: đó là các VBPL   ( chủ yếu là các VBQPPL) có nội dung không phù hợp với đường lối, chính sách của  đảng. Các VBPL có nội dung không phù hợp với ý chí và lợi ích chính đáng của nhân dân cũng bị coi là khiếm khuyết về chính trị.

* Các VBPL không đáp ứng yêu cầu về pháp lí bao gồm:

+ VBPL vi phạm thẩm quyền ban hành: VBPL vi phạm thẩm quyền bao gồm vi phạm thẩm quyền về nội dung và vi phạm thẩm quyền về hình thức.

+ VBPL có nội dung trái với quy định của pháp luật: là những văn bản có nội dung là những quy phạm hoặc những mệnh lệnh không đúng với pháp luật hiện hành. 

+ VBPL có nội dung không phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia.

+Văn bản pháp luật có sự vi phạm các quy định về thể thức và thủ tục ban hành.

* VBPL không đáp ứng được yêu cầu về khoa học bao gồm:

+ VBPL có nội dung không phù hợp với thực trạng và quy luật vận động của đời sống xã hội.

+ VBPL có sự khiếm khuyết về kĩ thuật pháp lí.

II. Các biện pháp xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết:
       
Dựa vào tính chất, mức độ khiếm khuyết của VBPL và bản chất của mỗi biện pháp xử lí, chủ thể có thẩm quyền lựa chọn một trong các biện pháp dưới đây để xử lí VBPL khiếm khuyết:

1. Biện pháp hủy bỏ:

Hủy bỏ là ra quyết định làm mất hiệu lực cả về trước của một văn bản pháp lí kể từ khi văn bản đó được ban hành. Hủy bỏ VBPL là hình thức xử lí nhằm phủ nhận hoàn toàn hiệu lực pháp lí của VBPL kể từ thời điểm văn bản đó được ban hành.

Hủy bỏ là biện pháp xử lí được áp dụng với toàn bộ hoặc một phần VBPL bao gồm cả VBQPPL, VBADPL và VBHC có dấu hiệu vi phạm pháp luật nghiêm trọng như: một phần hoặc toàn bộ văn bản đó được ban hành trái thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội dung hoặc không phù hợp với quy định của pháp luật từ thời điểm văn bản được ban hành.

VBPL bị hủy bỏ sẽ hết hiệu lực pháp luật kể từ khi văn bản đó được quy định là có hiệu lực pháp lí . Điều đó có nghĩa là nhà nước hoàn toàn không thừa nhận giá trị pháp lí của văn bản bị hủy bỏ ở mọi thời điểm, cho dù trên thực tế trước khi bị hủy bỏ nó đã từng được coi là có hiệu lực và có thể đã được thi hành.
         
Hủy bỏ VBPL là một biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết đã được pháp luật quy định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau, nhìn chung các quy định này khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên trong vấn đề quy định về trách nhiệm của chủ thể ban hành VBPL bị hủy bỏ còn có một số điểm chưa hợp lí đó là: việc quy định trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành VBPL bị hủy bỏ chỉ được xác định với VBADPL. Nếu VBPL bị hủy bỏ là VBQPPL và văn bản hành chính thì pháp luật không quy định về trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn chủa chủ thể ban hành, đây là một điểm bất hợp lí. Trên thực tế khi một văn bản QPPL sai trái được áp dụng vào cuộc sống nó sẽ gây ảnh hưởng xấu trên diện rộng và có thể gây hậu quả nghiêm trọng hơn là một VBADPL chính vì vậy tôi cho rằng cần quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với cả VBQPPL và văn bản hành chính.

2. Biện pháp bãi bỏ:
           
Bãi bỏ VBPL là hình thức xử lí nhằm chấm dứt hiệu lực pháp lí của một VBPL đang được thi hành trên thực tế kể từ thời điểm văn bản đó bị bãi bỏ. Đối tượng áp dụng biện pháp bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản là các VBQPPL có một trong các dấu hiệu khiếm khuyết.

Hình thức bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp một phần hoặc toàn bộ văn bản làm căn cứ ban hành văn bản được kiểm tra đã được thay thế bằng văn bản khác của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, dẫn đến nội dung của văn bản không còn phù hợp với pháp luật hiện hành hoặc tình hình kinh tế - xã hội thay đổi.( khoản 2 điều 29 nghị định Chính phủ 40/2010/NĐ-CP)
Văn bản pháp luật bị bãi bỏ chỉ mất hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản xử lí nó có hiệu lực pháp luật. Như vậy pháp luật vẫn thừa nhận giá trị pháp lí của văn bản pháp luật bị bãi bỏ trước khi văn bản xử lí văn bản đó có hiệu lực pháp lí. Do vậy VBPL bị bãi bỏ không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn của chủ thể ban hành VBPL sai trái đó. 

Các quy định của pháp luật về bãi bỏ VBPL khiếm khuyết được quy định trong nhiều văn bản pháp luật tuy nhiên chưa có văn bản pháp luật nào quy định một cách đầy đủ và rõ ràng và phân biệt giữa biện pháp hủy bỏ và bãi bỏ VBPL. Chính vì tình trạng pháp luật quy định chung chung dẫn tới các cơ quan nhà nước khi xử lí VBPL tùy nghi lựa chọn một trong hai biện pháp này thậm chí còn sử dụng chưa nhất quán.Mặc dù tại điều 29 nghị dịnh Chính phủ số 40/2010/NĐ-CP đã có sự tách riêng giữa biện pháp bãi bỏ và hủy bỏ VBPL nhưng mới chỉ nêu được sự khác nhau về trường hợp áp dụng mà thôi. Chính vì vậy tôi mong rằng sẽ sớm có những quy định cụ thể và chi tiết hơn về biện pháp bãi bỏ VBPL để phân biệt với biện pháp hủy bỏ VBPL.

3. Biện pháp thay thế:

Thay thế VBPL là dùng một văn bản pháp luật mới thay thế cho một VBPL cũ không còn phù hợp.Biện pháp thay thế được áp dụng với VBPL có dấu hiệu khiếm khuyết( không có vi phạm pháp luật). Thay thế được áp dụng trong trường hợp nội dung của VBPL không còn phù hợp với thực tiễn, không phù hợp với đường lối của Đảng. 

VBPL bị thay thế hết hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm văn bản mới được ban hành hết hiệu lực.
Thay thế là biện pháp xử lí VBPL được sử dụng khá phổ biến hiện nay tuy nhiên pháp luật chưa có một quy định riêng nào về biện pháp này, mà chỉ được quy định cùng các biện pháp khác tại điều 9 luật ban hành VBQPPL 2008.

4. Biện pháp đình chỉ thi hành
     
Đình chỉ thi hành VBPL là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định dừng thực hiện, làm mất hiệu lực của VBPL một cách tạm thời. 

Đình chỉ việc thi hành (một phần hoặc toàn bộ văn bản) áp dụng đối với văn bản có dấu hiệu trái pháp luật. Hình thức đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản áp dụng trong trường hợp nội dung trái pháp luật đó nếu chưa được sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ kịp thời và nếu tiếp tục thực hiện thì có thể gây hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Quyết định đình chỉ việc thi hành VBQPPL phải được đăng Công báo, đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Khác với các hình thức xử lý khác, đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ văn bản không làm chấm dứt hiệu lực pháp lý của văn bản/quy định bị đình chỉ, mà chỉ làm ngưng hiệu lực pháp lý của nó cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan, người có thẩm quyền. Đây như là một “biện pháp khẩn cấp tạm thời” để làm nhưng hiệu lực pháp lý của các quy định trái pháp luật. Sau khi đình chỉ việc thi hành văn bản, tuỳ theo tính chất, mức độ sai trái của văn bản, cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng một trong các biện pháp xử lý đối với văn bản trái pháp luật. 
 
Như vậy, đối với VBQPPL của UBND thì người có thẩm quyền đình chỉ cũng đồng thời là người có thẩm quyền ra quyết định xử lý văn bản trái pháp luật; còn đối với VBQPPL của HĐND thì người có thẩm quyền đình chỉ (Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND) không có thẩm quyền xử lý văn bản trái pháp luật, mà phải trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (trường hợp người ra quyết định đình chỉ là Thủ tướng Chính phủ), trình HĐND cùng cấp (trường hợp người ra quyết định đình chỉ là Chủ tịch UBND) ra quyết định xử lý.

5. Biện pháp tạm đình chỉ thi hành: 

Tạm đình chỉ thi hành là biện pháp xử lí được áp dụng đối với các VBADPL trong một số trường hợp nhất định.

Các trường hợp áp dụng biện pháp tạm đình chỉ bao gồm:

- Trường hợp thứ nhất:Chủ  thể không có thẩm quyền xử lí VBADPL nhưng có cơ sở cho rằng VBPL đó có dấu hiệu vi phạm pháp luật nên quyết định tạm dừng thi hành để chờ cấp có thẩm quyền xử lí. 

- Trường hợp thứ hai: khi có cơ sở cho rằng việc thi hành VBPL có thể gây cản trở hoạt động công quyền thì chủ thể có thẩm quyền quyết định việc tạm dừng thi hành văn bản trong thời gian nhất định để hoạt động công quyền được diễn ra thuận lợi.
 
VBPL bị tạm đình chỉ làm ngưng hiệu lực pháp lý của nó cho đến khi có quyết định xử lý của cơ quan, người có thẩm quyền.

VBPL bị tạm đình chỉ theo trường hợp thứ nhất hết hiệu lực khi cấp có thẩm quyền ra quyết định hủy bỏ, bãi bỏ; tiếp thục có hiệu lực khi cấp trên có thẩm quyền tuyên bố không bãi bỏ, hủy bỏ văn bản đó.
VBPL bị tạm đình chỉ theo trường hợp hai sẽ tiếp tục có hiệu lực khi người ra quyết định tạm đình chỉ ra văn bản bãi bỏ việc tạm đình chỉ.
Nhận thấy biện pháp ‘tạm đình chỉ thi hành’ chỉ là một phần của biện ‘pháp đình chỉ thi hành’ vì vậy việc tách riêng hai biện pháp là không hợp lí, nên hợp nhất hai biện pháp để việc áp dụng vào xử lí VBPL thuận tiện hơn.

6. Biện pháp sửa đổi, bổ sung:

Sửa đổi VBPL là việc ra văn bản để làm thay đổi một phần nội dung VBPL hiện hành trong khi vẫn giữ nghuyên những nội dung khác. Bổ sung VBPL là việc ra văn bản để thêm vào nội dung VBPL những quy định mới trong khi vẫn giữ nguyên nội dung vốn có của VBPL đó.

Sửa đổi bổ sung là biện pháp được áp dụng với các VBPL( bao gồm VBQPPL, VBADPL và văn bản hành chính) khi tính chất và mức độ khiếm khuyết của văn bản rất nhỏ. Biện pháp sửa đổi được áp dụng với VBADPL trong trường hợp tại thời điểm ban hành thì văn bản đó đúng thẩm quyền về hình thức, thẩm quyền về nội dung, có nội dung phù hợp với các văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, với tình hình kinh tế - xã hội địa phương. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện thì có một số nội dung của văn bản không còn phù hợp với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên mới được ban hành hoặc không còn phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và cần phải có quy định khác thay các nội dung không còn phù hợp đó. Biện pháp bổ sung được áp dụng trong trường hợp VBQPPL phù hợp với VBQPPL có hiệu lực pháp lý cao hơn, phù hợp với tình hình thực tiễn địa phương, tuy nhiên, nội dung của văn bản chưa đầy đủ, rõ ràng, chưa toàn diện... nên cần thiết phải có quy định thêm để cho việc quy định trong VBQPPL được rõ ràng, toàn diện hơn, hiệu quả thi hành cao hơn.

Sau khi sửa đổi thì văn bản bị sửa đổi vẫn tiếp tục có hiệu lực, chỉ có những điều, khoản bị sửa đổi là hết hiệu lực và được thay bằng các quy định mới của văn bản sửa đổi. Thời điểm có hiệu lực thi hành của văn bản sửa đổi phải đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật. Một văn bản có thể sửa đổi nhiều VBPL khác nhau.

Khác với hình thức “sửa đổi” là thay một số quy định cũ bằng quy định mới do không còn phù hợp, thì hình thức “bổ sung” không làm mất đi bất cứ quy định nào của văn bản bị bổ sung, mà thêm vào một số quy định cho toàn diện hơn. Chính vì vậy bổ sung không làm mất hiệu lực của VBPL được bổ sung, nhưng nó làm phát sinh hiệu lực của phần bổ sung.

Biện pháp sửa đổi, bổ sung VBPL là một hình thức được áp dụng phổ biến, đây là cách thức được sử dụng chủ yếu cho các VBPL có chứa các QPPL ở dạng điều khoản và có phạm vi tác động rộng. Tuy nhiên trong quy định của pháp luật, khái niệm “sửa đổi” và “bổ sung” thường hay đi liền với nhau, tuy nhiên cần phân biệt khi nào thì dùng khái niệm nào, khi nào có thể dùng cả 2 khái niệm (trường hợp chỉ “sửa đổi”, “bổ sung” hoặc vừa “sửa đổi”, vừa “bổ sung”). Hiện nay pháp luật đã  quy định tại luật BHVBQPPL năm 2008 cho phép sử dụng một văn bản để sửa đổi, bổ sung nhiều VBPL khác nhau. Đây là một điểm mới đáng mừng, giúp cho việc sửa đổi, bổ sung VBPL đỡ mất thời gian hơn, giảm kinh phí và những thủ tục không cần thiết.


KẾT LUẬN
 
Có thể nói, các biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết đã góp phần rất lớn vào công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật về các biện pháp xử lí văn bản pháp luật khiếm khuyết đôi khi còn có những hạn chế. Hy vọng rằng trong thời gian tới pháp luật sẽ quy định cụ thể và chi tiết hơn nữa, để các biện pháp xử lí VBPL khiếm khuyết có thể phát huy tốt hơn vai trò và ý nghĩa của mình hướng tới một hệ thống pháp luật hoàn thiện hơn.
Trên đây là toàn bộ bài tập học kỳ môn Xây dựng văn bản pháp luật của em với đề tài “Phân tích và bình luận về các biện pháp xử lý văn bản pháp luật khiếm khuyết”. Vì khuôn khổ bài làm có hạn nên có thể bài làm của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý từ các thầy, các cô để để bài làm được hoàn thiện hơn. 
                                                                                 
Em xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Xây dựng văn bản pháp luật, NXB CAND, Hà Nội 2009
2. Bùi Thị Đào, Về bãi bỏ và hủy bỏ văn bản QPPL, Tạp chí Luật học, số 5/1998
3. Đoàn Thị Tố Uyên, Hoàn thiện quy định pháp luật về xử lý văn bản QPPL sai trái, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6/2008
4. Các website:
- http://vi.wikipedia.org
- http://lawsoft.vn
- http://chinhphu.vn

No comments:

Post a Comment