09/02/2014
Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện
Bài tập học kỳ Luật Tố tụng Hình sự có đáp án

Trong những người tham gia tố tụng hình sự theo quy định tại chương IV “Người tham gia tố tụng” Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) 2003 thì người bào chữa là người có vị trí, vai trò và chức năng đặc biệt, đó là giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý, kiểm tra, giám sát hoạt động điều tra, truy tố, xét xử bảo đảm cho quá trình giải quyết vụ án hình sự được khách quan và đúng pháp luật. Sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình sự là cần thiết và khách quan, trước hết là thực hiện nguyên tắc "bảo đảm quyền bào chữa cho bị can, bị cáo". Sự tham gia của người bào chữa trong tố tụng hình sự đảm bảo cho việc giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Chính vì vậy có thể nói rằng, trong tố tụng hình sự, sự tham gia của người bào chữa là rất cần thiết, nó có cả ý nghĩa về pháp lý và ý nghĩa xã hội. Xuất phát từ điều này mà trong Hiến pháp, pháp luật của nước ta nói chung và pháp luật tố tụng hình sự nói riêng luôn luôn có các quy định thể chế hoá quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.

Hoàn thiện chế định về người bào chữa là yêu cầu cấp thiết của cải cách tư pháp hiện nay. Nghị quyết 49 ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 chỉ rõ: “xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng  theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh”. Chính vì vậy em đã lựa chọn đề bài số 3: “Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.” cho bài tập học kỳ môn Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của mình. Bài làm của em có thể còn có nhiều thiếu sót nên em mong nhận được sự chỉ bảo từ các thầy cô để có thể hoàn thiện hơn kiến thức của bản thân về vấn đề này.

NỘI DUNG CHÍNH

I. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự.

1. Khái niệm người bào chữa theo quy định của BLTTHS.

Tuy BLTTHS 2003 không nêu khái niệm thế nào là người bào chữa, nhưng căn cứ vào quy định tại các điều 56, 57 và 58 BLTTHS năm 2003 thì người bào chữa là người tham gia tố tụng nhưng họ không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ là người tham gia tố tụng. Chính vì vậy có nhiều cách hiểu khác nhau về người bào chữa. Trong khoa học pháp lý và thực tiễn tố tụng, có một số quan điểm cho rằng: “Người bào chữa là người giúp đỡ Tòa án trong việc xác định tất cả các tình tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng Tòa án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật”[1] hoặc là “Người bào chữa là người tham gia tố tụng để giúp đỡ Tòa án”[2].

Như vậy, có thể định nghĩa rằng người bào chữa trong tố tụng hình sự là người bào chữa là người được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ, những người khác được người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ủy quyền mời hay được cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử hoặc đề nghị Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận để cử người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, giúp người bị buộc tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Điều 56 BLTTHS 2003 quy định người bào chữa có thể là: Luật sư; Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân.

    a.     Luật sư.

Là người hoạt động chuyên nghiệp tham gia trong một đoàn luật sư theo quy định của pháp luật. Điều 2 luật Luật sư năm 2006 cũng đưa định nghĩa: “Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là khách hàng)”. Để trở được công nhận là một luật sư thì cá nhân phải đáp ứng các điều kiện như: là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư, đã được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một đoàn luật sư.(Điều 10 và điều 11 luật Luật sư năm 2006).

    b.    Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

BLTTHS không quy định rõ thế nào là “Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Tuy nhiên, có thể vận dụng điểm a khoản 1 Điều 58 Bộ Luật Dân Sự về giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) để hiểu người đại diện hợp pháp là: Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu. Hoặc người đại diện theo pháp luật bao gồm: Cha, mẹ đối với con chưa thành niên; Người giám hộ đối với người được giám hộ (Điều 141 BLDS).

Trong trường hợp có yêu cầu thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định (chỉ định) người đại diện (Điều 140 BLDS). Người đại diện phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (khoản 5 Điều 139 BLDS).

    c.      Bào chữa viên nhân dân;

Là người được tổ chức, đoàn thể xã hội cử ra để bào chữa cho bị cáo. Hiện nay chưa có quy định cụ thể về bào chữa viên nhân dân và trong thực tế hoạt động của bào chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức thành một hệ thống. Theo khoản 3 điều 57 của Bộ luật TTHS năm 2003 thì: " Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình ".

Đối với “bào chữa viên nhân dân” thì hệ thống pháp luật hiện hành không có văn bản nào quy định về chế định này, quy định “bào chữa viên nhân dân” là ai và tiêu chuẩn để trở thành một “bào chữa viên nhân dân” là như thế nào. Trong thực tế bào chữa viên nhân dân thường là người của các tổ chức đoàn thể đứng ra bào chữa cho thành viên của tổ chức mình như: Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ.... Điều kiện để trở thành bào chữa viên nhân dân tuy không được pháp luật quy định nhưng tối thiểu cũng phải đáp ứng được một số điều kiện cơ bản như: là công dân Việt Nam, có tư cách đạo đức tốt, đã thành niên, không bị nhược điểm về thể chất và tâm thần, có năng lực hành vi đầy đủ, có trình độ hiểu biết…vv.

Trong tố tụng hình sự, người bào chữa là người tham gia tố tụng được đặt bên cạnh những người bị buộc tội như bị can, bị cáo. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa luôn luôn gắn liền với quyền của bị can, bị cáo. Khi tham gia tố tụng, người bào chữa có nhiệm vụ làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án và đưa ra những chứng cứ, lý lẽ để gỡ tội cho thân chủ mình, cùng thân chủ hợp thành một bên tranh tụng.

Để người bào chữa thực hiện chức năng làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo và giúp đỡ bị can, bị cáo về mặt pháp lý BLTTHS năm 2003 đã quy định đầy đủ và cụ thể hơn về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, cụ thể như sau:

2. Quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự.

Theo điều 19 BLTTHS năm 2003, người bào chữa có quyền bình đẳng với kiểm sát viên trong một vụ án hình sự trong việc đưa ra các tài liệu, chứng cứ ở giai đoạn tranh luận tại phiên tòa nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can theo quy định tại khoản 1 Điều 58 của Bộ luật này. Trong trường hợp cần phải giữ bí mật điều tra đối với tội đặc biệt nguy hiểm, xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng VKS quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Đặc biệt trong các trường hợp bắt người khẩn cấp và bắt người phạm tội quả tang thì người bào chữa được tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ.

Tại khoản 2 điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định người bào chữa có các quyền sau:

- Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa.

Việc người bào chữa được quyền có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn, những người tiến hành các hoạt động điều tra thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa theo dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng của họ sau này tại phiên tòa. Người bào chữa có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.

- Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can.

- Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003. Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch nếu có các căn cứ quy định tại điều 42 và điều 46 của Bộ luật TTHS và xét thấy việc những người này tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa.

- Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.

- Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu: người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa.

- Gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam: Người bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ trao đổi, tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết cảu vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của người được bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu được những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. Qua gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa giải thích những vấn đề pháp luật và cũng có thể tác động đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo làm cho họ có thái độ khai báo tốt hơn để có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

- Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật.

Qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội dung của vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội đối với người được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Qua việc đọc hồ sơ, tài liệu vụ án, người bào chữa cũng có điều kiện để phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền.

- Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên tòa: tại phiên tòa xét xử vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về những vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lợi cho bị cáo. Khi tranh luận, người bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra những lý lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo.

- Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

- Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật TTHS năm 2003. Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo.

3. Nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự.

Bên cạnh việc bảo đảm các quyền cho người bào chữa khi tham gia tố tụng thì tại khoản 3 Điều 58 của BLTTHS năm 2003 còn quy định nghĩa vụ của người bào chữa, là phải sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị can, bị cáo tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tụng. Đặc biệt, Bộ luật này còn quy định người bào chữa không được xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật và không được tiết lộ các bí mật về hoạt động điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa...

Người bào chữa trong tố tụng hình sự có những nghĩa vụ nhất định, khoản 3 điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định cho người bào chữa các nghĩa vụ sau:

          - Nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án. Việc giao nhận tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại điều 95 của bộ luật TTHS năm 2003.

          - Nghĩa vụ giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

          - Nghĩa vụ không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can. bị cáo mà mình bào chữa, nếu không có lý do chính đáng.

          - Nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật; nghĩa vụ không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;

          - Nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của tòa án; nghĩa vụ không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết được khi thực hiện việc bào chữa;

          - Nghĩa vụ không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật (khoản 4 điều 58 Bộ luật TTHS).

III. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa.

Hiện nay, Nhà nước ta đang tiến hành cải cách tư pháp, hướng tới mục tiêu củng cố và hoàn thiện bộ máy các cơ quan tư pháp, hoàn thiện pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức - cơ sở pháp lí của hoạt động tư pháp, nâng cao hiệu quả của quá trình giải quyết các tranh chấp, kinh tế, dân sự, lao động, hành chính và các vụ án hình sự, bảo vệ có hiệu quả quyền con người. Hiệu quả của hoạt động tư pháp quyết định bởi nhiều yếu tố trong đó có vai trò của luật sư. Nhận rõ điều này, ngày 02/01/2002 Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 08/NQTƯ về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp. Nghị quyết chỉ rõ cần phải nâng cao hiệu  quả của các phiên toà xét xử  "khi xét xử, các toà án phải đảm bảo cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự  dân chủ, khách quan; việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa... để ra bản án, quyết định  đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định".

Trong 15 điều của Chương III về “Người tiến hành tố tụng”, chỉ có 1 điều quy định về trách nhiệm của Cơ quan tiến hành tố tụng giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng. Từ khi những quy định này được sửa đổi bổ sung những quy định cũ còn thiếu và chưa đầy đủ của BLTTHS 1988 nhằm nâng cao vị thế và vai trò của người bào chữa trong tố tụng hình sự nhưng thực tế còn nhiều bất cập do không có cơ chế đảm bảo giám sát thực thi những quy định này của luật. Thực tế hơn 5 năm thi hành Bộ luật TTHS nhưng cho đến nay các ngành hữu quan vẫn chưa ban hành được một thông tư liên tịch để đảm bảo sự hướng dẫn thống nhất trong qúa trình thực thi luật mặc dù nhà nước cũng đã phải bỏ ra nhiều tiền bạc chi phí cho các cuộc Hội thảo để bàn về dự thảo thông tư liên tịch này nhưng không thành. Từ thực tế ấy, tiến tới góp ý cho việc sửa đổi Bộ luật lần này, cần có quy định cụ thể hơn trách nhiệm của các cơ quan THTT và người THTT, theo đó quyền của luật sư và những người tham gia tố tụng khác sẽ được quy định cụ thể hơn và có tính pháp lý bắt buộc cao hơn.

Với những quy định mới về người bào chữa trong BLTTHS năm 2003, đặc biệt là việc quy định người bào chữa được tham gia tố tụng trong giai đoạn điều tra được thực hiện nghiêm túc và triệt để sẽ góp phần làm cho việc điều tra - truy tố - xét xử được đúng người, đúng tội bảo đảm tính dân chủ, khách quan và công minh của pháp luật.

1. Hoàn thiện các quy định về người bào chữa trong tố tụng hình sự.

Về mặt pháp lý, bào chữa viên nhân dân và Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên cho đến nay trong lý luận pháp lý và thực tiễn tố tụng hình sự vẫn chưa có khái niệm chính thức và thống nhất và thống nhất về người bào chữa. Đồng thời, những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về phạm vi những người tham gia tố tùng với tư cách người bào chữa còn giới hạn. Hơn nữa, xuất phát từ nhiều lý do khác nhau nên người bào chữa trong thực tiễn tố tụng hình sự hiện nay chủ yếu là luật sư, còn bào chữa viên nhân dân và người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo chỉ tồn tại trong pháp luật thực định.

Cần sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự và làm rõ người đại diện hợp pháp của bị cáo trong tố tụng hình sự là những đối tượng nào để tạo điều kiện cho quy định đó được thi hành trong thực tiễn tố tụng hình sự. Đồng thời cũng cần khôi phục lại chế định Bào chữa viên nhân dân.

Phạm vi của những người có quyền tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cũng cần được mở rộng hơn mà không chỉ giới hạn trong khuôn khổ của Điều 35 BLTTHS hiện hành. Các điều kiện cần có của một người bào chữa là: có nhân thân tốt, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có bằng cử nhân Luật, được tín nhiệm của bị can, bị cáo và sự chấp thuận của cơ quan tiến hành tố tụng.

2. Hoàn thiện các quy định về thời điểm tham gia tố tụng của người bào chữa.

 Khoản 1 điều 58 BLTTHS 2003 quy định: "Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can". Mặc dù luật quy định như vậy nhưng trong hầu hết các vụ án,  luật sư  bào chữa chưa được tham gia tố tụng từ giai đoạn này bởi nhiều lý do khác nhau trong đó có sự suy nghĩ của một số điều tra viên là sự tham gia của luật sư từ giai đoạn khởi tố bị can sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra của họ. Thậm chí có điều tra viên còn cho rằng, nếu tham gia từ giai đoạn này người bào chữa sẽ bày đặt cho bị can khai không đúng hoặc giấu tội... Do đó, sự tham gia của người bào chữa bị gây khó dễ khiến cho không ít người bào chữa đành bỏ dở. Việc tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can không được bảo đảm nên đã dẫn tới việc thực hiện các quyền khác của họ trong giai đoạn điều tra là rất khó khăn.

Về thời điểm được tham gia tố tụng của người bào chữa trong BLTTHS năm 2003 còn có  hạn chế khi chỉ cho người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra trong những trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với những tội xâm phạm an ninh quốc gia. Như chúng ta biết, những tội xâm phạm an ninh quốc gia thường là những tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, là những vụ án rất phức tạp nên nếu để người bào chữa tham gia từ khi kết thúc điều tra thì khả năng bào chữa của họ sẽ bị hạn chế rất lớn, họ không có khả năng thu thập chứng cứ hoặc không thể thu thập đầy đủ chứng cứ để chứng minh sự vô tội, để làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo và điều này có thể dẫn tới khả năng giải quyết vụ án thiếu khách quan hay không công bằng. Mặt khác, nếu xét về lý luận thì khi hạn chế sự tham gia sớm của người bào chữa trong những vụ án xâm phạm an ninh quốc gia, chúng ta đã không tuân thủ nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Còn nếu vì lý do sợ người bào chữa làm lộ bí mật điều tra, bí mật quốc gia mà không cho họ tham gia sớm hơn thì điều này lại chứng tỏ rằng họ chưa được tin tưởng vào khả năng xử lý trách nhiệm đối với người bào chữa khi họ vi phạm quy định của pháp luật hình sự về trách nhiệm hình sự của người bào chữa.

3. Thay đổi quy định về sự vắng mặt của người bào chữa trong trường hợp người bào chữa không thể có mặt tại phiên tòa xét xử.

Trường hợp không bắt buộc phải có người bào chữa, nếu người bào chữa không thể có mặt tại phiên toà xét xử, thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử bình thường. Chỉ có một cách duy nhất thực hiện quyền và nghĩa vụ bào chữa cho bị cáo, đó là người bào chữa gửi trước bản bào chữa cho Toà án. Theo nhiều người làm việc trong các cơ quan pháp luật, quy định trên của Bộ Luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) đã hạn chế quyền được có người bào chữa tại phiên toà của bị cáo.

Trên thực tế, người bào chữa không phải lúc nào cũng có thể chủ động sắp xếp lịch tham gia các phiên toà hình sự. Việc trùng lịch phiên toà ốm, hay công việc đột xuất... khiến người bào chữa không thể tham gia phiên toà được. Vì vậy, quy định tại Điều 190 BLTTHS đã trở thành một trở ngại để đảm bảo quyền của người bào chữa và bị cáo. Nên chăng, quy định về trường hợp vắng mặt của người bào chữa trong BLTTHS sửa đổi theo hướng tương tự như quy định về trường hợp vắng mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong Bộ Luật Tố tụng dân sự (vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên toà).

4. Hoàn thiện quy định về việc cấp giấy chứng nhận bào chữa trong hoạt động tố tụng.

Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, cơ quan điều tra, viện kiểm sát, tòa án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lí do. Đối với trường hợp tạm giữ người thì trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, cơ quan điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận cho người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải nêu rõ lí do. Giấy chứng nhận bào chữa phải được lưu trong hồ sơ vụ án như một tài liệu chính thức để tòa án cấp trên kiểm tra tòa án cấp dưới. Đây là điểm mới của bộ luật TTHS năm 2003, quy định về nghĩa vụ xem xét, cấp giấy chứng nhận bào chữa của cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án; quy định thời hạn cụ thể của việc xem xét cấp giấy chứng nhận người bào chữa. Quy định này có ý nghĩa rất lớn trong việc thực hiện quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

5. Hoàn thiện quy định về vấn đề từ chối người bào chữa.

Việc không phân biệt quyền từ chối người bào chữa của hai nhóm đối tượng được quy định tại điểm a (Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự) và điểm b (Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất) khoản 2 điều 57 BLTTHS năm 2003 là chưa hoàn toàn hợp lý bởi đối tượng được quy định tại điểm a hoàn toàn khác với đối tượng quy định tại điểm b.

Những đối tượng được quy định tại điểm a nhận thức được đúng đắn và đầy đủ hành vi từ chối người bào chữa của mình và họ biết được khả năng và hậu quả có thể xẩy ra khi họ từ chối người bào chữa. Và vì vậy để cho họ có quyền chủ quan tuyệt đối từ chối người bào chữa là hợp lý. Còn những đối tượng được quy định tại điểm b là những đối tượng chưa đủ trình độ phát triển về thể chất cũng như tinh thần hoặc là những người bị khiếm khuyết về thể chất hoặc khiếm khuyết về tâm thần. Khó có thể chắc chắn rằng họ có nhận thức được đầy đủ và đúng đắn về hành vi từ chối người bào chữa của mình hay không và họ có thể hiểu được những hậu quả có thể xảy ra khi họ từ chối người bào chữa không?

Vì vậy cần phải phân biệt quyền từ chối người bào chữa của hai nhóm đối tượng này một cách rạch ròi hơn. Nên cho đối tượng được quy định tại điểm a có quyền từ chối người bào chữa như quy định của pháp luật hiện hành còn nhóm đối tượng được quy định tại điểm b thì tuỳ từng trường hợp mà cơ quan tiến hành tố tụng quyết định cho họ có quyền từ chối hay không được từ chối người bào chữa. Vì vậy, cần phải sửa đổi, bổ sung đoạn 2 khoản 2 Điều 57 BLTTHS năm 2003 như sau: “Những trường hợp được quy định tại điểm a khoản 2 điều này bị can, bị cáo vẫn có quyền yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa. Còn đôi với những trường hợp được quy định tại điểm b khoản 2 điều này thì bị can, bị cáo và đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền yêu cầu thay đổi người bào chữa và nếu họ từ chối người bào chữa thì tùy từng trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng phải làm rõ lý do từ chối trước khi quyết định”.

6. Hoàn thiện một số quy định về quyền của người bào chữa.

- Thứ nhất là sự tham gia của người bào chữa trong các buổi hỏi cung bị can là rất cần thiết và hợp lý. Vì vậy, nên bổ sung vào điểm a Điều 58 BLTTHS quy định “Đối với những người bào chữa tham gia theo quy định của điểm b khoản 2 Điều 57 Bộ luật này thì có quyền có mặt trong tất cả các buổi hỏi cung bị can”.

- Thứ hai là tại điểm e của Điều 58 BLTTHS có quy định quyền gặp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam của người bào chữa thì người viết cho rằng ở đây cần quy định rõ là được gặp riêng và không bị hạn chế về số lượng lần gặp và thời gian gặp chứ không phải quy định chung chung là được gặp để tránh những sự gây khó khăn từ phía cơ quan và người thi hành tố tụng chỉ cho gặp một cách hình thức và hạn chế thời gian được gặp.

KẾT LUẬN

Mục đích quan trọng của việc sửa đổi BLTTHS 2003 lần này là đề cao trách nhiệm và xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan và người tiến hành tố tụng, nhất là xác định trách nhiệm cụ thể của từng chức danh tố tụng, phân định rõ thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng nhằm nâng cao trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng, đồng thời xác định rõ hơn quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, trong đó có người bào chữa.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    Trường ĐH Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007, 2008.
    Khoa Luật – ĐH Quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb. ĐH Quốc gia Hà Nội, 2001.
    Bố luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003.
    Luật luật sư năm 2006.
    Pháp lệnh luật sư năm 2001.
    Người bào chữa trong tố tụng hình sự, đăng trên tạp chí Khoa học pháp luật số tháng 1/2001, Thạc sĩ Trần Văn Bảy – ĐH Luật TP.HCM.
    Về sự tham gia của người bào chữa vào quá trình tố tụng hình sự theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Nguyễn Duy Hưng, Tiến sĩ, GV Khoa Luật Hình sự - ĐH Luật TP.Hồ Chí Minh.
    Website: www.luathoc.net.

[1] M.Chen – Txôp M.A, Luật sư trong tố tụng hình sự Xô Viết, M. 1954, trang 53.

[2] Ngô Hướng Đàm, Về quyền bào chữa của bị can, bị cáo ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tạp chí Luật học số 03 năm 1977.

No comments:

Post a Comment