11/11/2014
Những chuyển biến về nhà nước của triều Nguyễn trong thời kỳ Pháp thuộc - Bài tập học kỳ Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam - 8 điểm
MỞ ĐẦU


Từ thế kỷ XVI, chế độ phong kiến ở Việt Nam đã chuyển từ thịnh trị sang suy yếu nhưng chưa có mầm mống tư bản chủ nghĩa. THế kỷ XVIII- XIX thế giới có những biến đổi sâu sắc về mặt chính quyền và phương thức thực hiện quyền lực nhà nước, các nước đế quốc tư bản chủ nghĩa đua nhau đi xâm chiếm thuộc địa. Ở Việt Nam lúc đó, chế độ quân chủ chuyên chế cực đoan, lỗi thời và bảo thủ của hà Nguyễn đã làm kìm hãm sự phát triển kinh tế- xã hội, làm mất năng lực phong thủ đất nước làm nước ta rơi vào ách thống trị của thực dân Pháp, dưới thời Pháp thuộc đi cùng những yếu tố ảnh hưởng về các mặt, triều đại nhà Nguyễn đã có những chuyển biến nhất định. Sau đây, em xin trình bày “Những chuyển biến về nhà nước của triều Nguyễn trong thời kỳ Pháp thuộc”.


NỘI DUNG

I. KHÁI QUÁT HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

Sau một thời gian thăm dò và chuẩn bị, ngày 1/9/1858, đế quốc Pháp nổ súng tấn công vào bán đao Sơn Trà mở đầu cho thời kỳ xâm lược và thống trị thực dân ở Việt Nam.Bị sa lầy ở mặt trận Đà Nẵng, Pháp phải thay đổi kế hoạch tấn công .Do cuộc kháng Pháp rộng phắp và bền bỉ của nhân dân ta mà kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của Pháp bị thất bại, kế hoạch xâm chiếm nước ta kéo dài gần ba thập kỷ. Trong quá trình đó, Pháp thực hiện phương thức chiếm dần đất, lấn dần chủ quyền và từng bước thiết lập bộ máy cai trị. Qua 4 bản hiệp ước kí với triều đình nhà Nguyễn,dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, nền kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam có nhiều biến đổi sâu sắc, đặc biệt là những chuyển biến về mặt nhà nước của triều Nguyễn.

II. NHỮNG CHUYỂN BIẾN VỀ MẶT NHÀ NƯỚC CỦA TRIỀU NGUYỄN DƯỚI THỜI PHÁP THUỘC

1.Triều Nguyễn- chính quyền bù nhìn tay sai của thực dân Pháp.

Trong thời Pháp thuộc, triều Nguyễn ( Chính phủ Nam Triều)  tuy vẫn mang hình thức chính thể quân chủ nhưng đất nước đã mất độc lập chủ quyền, dưới ách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho chính quyền phong kiến có những thay đổi đáng kể so với những thời đại trước.

Về không gian lãnh thổ, Nam kỳ là đất “thuộc địa” nên chính quyền nhà Nguyễn, về hình thức chỉ tồn tại ở Trung kỳ và Bắc kỳ ( đất “bảo hộ” và “nửa bảo hộ”). Như vậy, về mặt hình thức, ở Trung kỳ và Bắc kỳ tồn tại song song hai hệ thống chính quyền: chính quyền của người Pháp và chính quyền của triều Nguyễn.

Vua tuy vẫn mang danh hiệu hoàng đế nhưng đã trở thành bù nhìn, dưới sự chỉ đạo và giám sát trực tiếp của viên Khâm sứ Pháp ở Trung kỳ. Các vị vua Nguyễn không còn quyền hành về quân sự và quyền thu thuế. Quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng bị hạn chế tới mức tối đa. Mọi quyết định quan trọng của nhà vua trước khi ban bố đều phải qua sự kiểm duyệt và chấp thuận của người Pháp. Từ năm 1894, ngân sách Nam triều bị sáp nhập vào ngân sách bảo hộ. Quan lớn, quan nhỏ và đến cả vua cũng do Pháp trả lương.

Về quyền lực nhà nước, nhà Nguyễn không những chỉ còn tồn tại ở Trung kỳ và Bắc kỳ mà cũng không còn có quyền lực của một nhà nước và trở thành chính quyền tay sai bù nhìn, một bộ phận của chính quyền thực dân.Đây là sự biến đổi cơ bản của nhà Nguyễn.

Chính quyền phong kiến Nguyễn tuy vẫn mang hình thức chính thể quân chủ phong kiến và hệ tư tưởng Nho giáo, nhưng cũng đã có biến đổi, do sự chỉ đạo của Pháp và do ảnh hưởng phần nào đó của thể chế tư sản phương Tây.

Triều Nguyễn không còn là một nhà nước phong kiến độc lập, tự chủ mà đã mất hầu hết quyền lực, trở thành chính quyền bù nhìn tay sai của thực dân Pháp.

2. Hai yếu tố phong kiến và tư sản đan xen và cùng nhau tồn tại trong tổ chức bộ máy. 

Như đã phân tích ở trên, thời kỳ nàyVua chỉ là bù nhìn cho chính quyền thực dân Pháp.Vua chỉ có quyền bổ nhiệm các quan lại ở triều đình và ở Trung kỳ từ chánh nhất phẩm đến tòng tam phẩm nhưng phải được sự chuẩn y của Khâm sứ Pháp, còn quan lại từ chánh tứ phẩm trở xuống do chính Khâm sứ bổ nhiệm, ở Bắc kỳ tất cả quan lại đều do Thống sứ Pháp bổ nhiệm.  

Lục bộ vốn là cơ quan xương sống trong bộ máy quan liêu phong kiến. Đến thời Pháp thuộc lục bộ hầu như bị giải thể và thay vào đó có rất nhiều bộ, trong đó nhiều bộ thường thấy có ở các nước tư sản phương Tây và lần đầu tiên hiện diện trong nền hành chính ở Việt Nam như Bộ tài chính, Bộ tư pháp, Tòa án,…có những hững dấu hiệu bước đầu phân biệt giữa tư pháp và hành pháp nhưng về cơ bản vẫn chưa có sự rạch ròi giữa tư pháp và hành pháp.

Bên cạnh đó, những cơ quan khác ở trung ương cũng có sự biến đổi như: Tứ trụ trong triều đình và Hội đồng phụ chính, Viện cơ mật và Hội đồng thượng thư, Viện Đô sát, Hội đồng Phủ tôn nhân, văn phòng của nhà vua…

Viện cơ mật đặt dưới sự chủ toạ của nhà vua và giúp vua đưa ra đường lối chung bao trùm mọi lĩnh vực. Ban đầu Viện cơ mật chỉ gồm 4 thượng thư của các bộ quan trọng nhất. Cả 6 Thượngthư của lục bộ hợp thành Hội đồng Thượng thư. Đạo Dụ ngày 27/9/1897 mở rộng thành phần Viện cơ mật, gồm cả 6 thượng thư, như vậy Hội đồng thượng thư không còn nữa.

Viện Đô sát có chức năng kiểm soát mọi hoạt động của quan lại các cấp và giám sát việc thi hành luật pháp. Từ năm 1897, Viện Đô sát bị đặt dưới sự chủ toạ của Khâm sứ.

Cũng từ năm 1897, Hội đồng phủ tôn quân bị đặt dưới sự chủ toạ của Khâm sứ.3. Hai hệ thốngchính quyền đô hộ, chính quyền Nam triều song song tồn tại trong một phạm vi lãnh thổ.

Chính quyền đô hộ được xây dựng dựa trên nguyên tắc theo mẫu của nướcPháp: thành lập Liên bang Đông Dương đứng đầu là viên Toàn quyền Đông Dương. Ngoài ra còn có các cơ quan phụ tá của Toàn quyền Đông Dương. Chính quyền đô hộ được thiết lập ở cả 3 kỳ: Đứng đầu Bắc kỳ đất “nửa bảo hộ” là Thống sứ, nhưng chính quyền chỉ tổ chức tới cấp tỉnh; Trung kỳ là đất “bảo hộ” đứng đầu là Khâm sứ, chính quyền người Pháp cũng chỉ tổ chức tới cấp tỉnh; Nam kỳ là đất “thuộc địa”, đứng đầu chính quyền là Thống đốc, chính quyền người Pháp được tổ chức tới tất cả các cấp.

Chính quyền Nam triều được tổ chức bộ máy từ cấp Tỉnh trở xuống:

Cấp tỉnh: Đứng đầu mỗi tỉnh lớn là Tổng đốc phụ trách chung. Tỉnh loại vừa có Tuần Vũ (hay Tuần phủ) phụ trách chung. Tỉnh nhỏ, có tỉnh thì bố chánh phụ trách chung, có tỉnh thì Tuần vũ phụ trách chung. Các tỉnh miền núi phía Bắc, mỗi tỉnh có Quan lang đứng đầu, riêng tỉnh Hoà Bình là chức Chánh quan lang. Tỉnh Thừa thiên - nơi đông đô của nhà Nguyễn, thì đứng đầu là chức Phủ doãn phụ trách chung.Quan lại của triều đình Huế ở các tỉnh phải chịu sự chỉ đạo và giám sát trực tiếp của Công sứ Pháp.

Cấp phủ - huyện - đạo -châu: Từ năm 1919 trở đi, phủ, huyện, đạo, châu đều là cấp hành chính tương đương nhau, trong đó huyện lớn được gọi là phủ, châu lớn được gọi là đạo. Đứng đầu là Tri phủ, Tri huyện, Quản đạo, Tri châu.

Cấp tổng: do Chánh tổng đứng đầu.

Cấp xã: Trước thời Pháp thuộc, làng xã Việt Nam mang nặng tính tự quản. Đứng trước thực trạng đó đã có từ hàng ngàn năm ở Việt Nam, người Pháp đã sử dụng tổ chức vốn có ở làng xã, mặt khác can thiệp để hạn chế tính tự quản của làng xã. Tuy nhiên, các làng xã cổ truyền vẫn giữ được tính tự quản của mình.

III. ĐÁNH GIÁ

Những chuyển biến về nhà nước của triều Nguyễn tạo nên những nét mới trong bộ máy nhà nước phong kiến Việt Nam.Sự chuyển biến này vừa có những nét tích cực nhưng cũng lại vừa có những hạn chế.

Về mặt tích cực, những chuyển biến mới này góp phần thay đổi cơ cấu bộ máy nhà nước theo hướng đơn giản hoá. Nhà Nguyễn bước đầu đã có sự tiếp thu những yếu tố chính trị pháp lí phương Tây vào xây dựng nhà nước và pháp luật. Làm nền tảng cho sự tiếp thu sau này của nhà nước Việt Nam.

Về mặt hạn chế, bộ máy nhà nước cũng như quyền lực của triều đình phong kiến phụ thuộc sâu sắc vào chính quyền thực dân.Chế độ phong kiến Việt Nam trở nên mục ruỗng, thối nát.Bộ máy chính quyền phong kiến Nguyễn lỏng lẻo, thay vào đó là sự thống trị của chính quyền thực dân.Sự phụ thuộc chặt chẽ vào chính quyền thực dân đã tạo điều kiện thuận lợi cho thực dân pháp đô hộ, tiến hành khai thác, áp bức bóc lột nước ta. Có thể nói những chuyển biến về mặt nhà nước dưới triều Nguyễn diễn ra một cách bị động, do đó nó mang nhiều hạn chế hơn là tích cực.

KẾT LUẬN

Qua việc phân tích những chuyển biến mới về nhà nước của triều Nguyễn, ta thấy rõ một điều rằng chính quyền nhà Nguyễn đã mất hoàn toàn tính tự chủ, bị lệ thuộc chặt chẽ vào chính quyền đô hộ.Điều này đã khiến chính quyền Nguyễn ngày càng thối nát và suy yếu. Vì vậy mà cuộc cách mạng của nhân dân ta hương tới cả 2 mục tiêu: đánh đuổi thực dân Pháp và đánh đổ triều đình phong kiến Nguyễn. 

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Lịch sử Nhà nước và Pháp luật Việt Nam - Trường Đại học Luật Hà Nội - NXB Công an nhân dân - Hà Nội năm 2004
2. Đại Việt sử kí toàn thư - Ngô Sĩ Liên

No comments:

Post a Comment