MỞ BÀI
Ngày nay, các mối quan hệ ngày càng được mở rộng, các quan niệm xã hội cũng thoáng hơn vì vậy mà xuất hiện hiện tượng nam – nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn khá phổ biến. Vấn đề phát sinh đó là việc xác định quyền và nghĩa vụ nhân thân và tài sản như thế nào cho thỏa đáng và đúng theo luật định khi hai bên nam nữ mong muốn chấm dứt việc sống chung. Xuất phát từ nhận thức ấy, em xin trình bày bài tập lớn học kì với đề tài: “Hãy xác định quyền và nghĩa vụ nhân thân và tài sản của các bên nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn khi họ mong muốn chấm dứt việc sống chung”.
NỘI DUNG
I. Tìm hiểu chung về nam nữ sống chung như vợ chồng mà không có đăng kí kết hôn.
1. Khái niệm kết hôn
Hôn nhân là cơ sở hình thành gia đình - tế bào của xã hội “ gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt hơn” . Để củng cố chế độ hôn nhân và đề ra những biện pháp nhằm làm ổn định quan hệ này, Nhà nước ta đã quy định tại Điều 64 Hiến pháp năm 1992: “ Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình...” Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định rõ: “Kết hôn là việc nam nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn” . Có thể hiểu một cách đơn giản, hôn nhân là hai người nam – nữ đủ điều kiện theo quy định của pháp luật lấy nhau và có đăng kí kết hôn. Các điều kiện kết hôn hợp pháp được quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình: Trước hết về độ tuổi kết hôn, nam là từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 trở lên. Bên cạnh đó, việc kết hôn do nam - nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai có quyền cưỡng ép hoặc cản trở. Cuối cùng là việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình. Việc đăng kí kết hôn là nghi thức duy nhất làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Chỉ khi đăng kí kết hôn ở cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thì hôn nhân ấy mới được công nhận.
2. Khái niệm nam nữ chung sống như vợ chồng mà không có đăng kí kết hôn.
Hiện nay có rất nhiều nhận thức khác nhau về vấn đề này. Một số quan điểm cho rằng: “ Nam nữ sống với nhau không làm hôn thú, nhưng bà con, làng xóm, gia đình hai bên đều công nhận hai người thường xuyên sống chung một nhà và con cái do họ sinh ra là của hai người….thì được xem là sống chung như vợ chồng.”
Có quan điểm khác lại cho rằng: “ chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng lại chung sống với người khác mà mình biết rõ họ đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn duy trì quan hệ đó…”
Một vài ý kiến khác cho rằng: “ chung sống như vợ chồng có nghĩa là: Phải chung sống thực tế, thường xuyên trong một mái nhà, thường xuyên qua đêm công khai và được nhiều người biết đến thì mới được gọi là chung sống như vợ chồng”. Trong xã hội hiện nay có rất nhiều cách hiểu về vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng. Theo quy định tại điểm d mục 2 thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp số 01/2001/ TTLT -TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 03 tháng 01 năm 2001 thì “ được coi là nam nữ chung sống như vợ chồng khi thuộc một trong các trường hợp sau:
- Có tổ chức lễ cưới khi về chung sống với nhau;
- Việc nam nữ về chung sống với nhau được gia đình ( một trong hai bên) chấp nhận;
- Việc nam nữ về chung sống với nhau được người khác hay tổ chức chứng kiến.
- Họ thực sự chung sống với nhau, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình”
Dưới góc độ pháp lí thì nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn là trường hợp nam nữ đều có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật nhưng không đăng kí kết hôn. Về nguyên tắc, không đăng kí kết hôn thì không được coi là hôn nhân nhưng thực tế có những trường hợp không đăng kí kết hôn vẫn được thừa nhận là hôn nhân hợp pháp, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản giữa hai bên. Cụ thể là tại Điều 3 Nghị quyết số 35/2000/QH của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình quy định:
“3.Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau: a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;
b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng; c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.”
Theo quy định tại Điều 2 Nghị định 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của chính phủ quy định chi tiết về đăng
ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình thì:
“Những trường hợp quan hệ vợ chồng xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, mà chưa đăng ký kết hôn, thì được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận tiện cho đăng ký kết hôn. Việc đăng ký kết hôn đối với những trường hợp này không bị hạn chế về thời gian. Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn. Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn, thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng”.
Như vậy, đối với các trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng từ trước ngày 03/01/1987, hai bên dù không đăng kí kết hôn vẫn được pháp luật công nhận là vợ chồng, gọi là chung sống như vợ chồng có giá trị pháp lí. Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, hai bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng kí kết hôn, không vi phạm điều kiện kết hôn nhưng không thuộc trường hợp pháp luật thừa nhận, gọi là chung sống với nhau như vợ chồng không có giá trị pháp lí. Từ ngày 01/01/2001, hai bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng, không đăng kí kết hôn và vi phạm điều kiện kết hôn gọi là chung sống trái pháp luật.
Tuy nhiên xuất phát từ một vài lí do mà các bên không tiến hành đăng kí kết hôn. Ví dụ như ở các tỉnh miền núi, do phong tục tập quán,kết hôn chỉ cần sự chứng kiến của già làng nên việc đăng kí kết hôn khi lấy vợ lấy chồng vẫn chưa được người dân biết đến và quan tâm. Hoặc ở thành phố với lối sống “ nhà nào biết nhà đấy” và do sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng tự do cá nhân đã tạo điều kiện cho việc nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng kí kết hôn diễn ra phổ biến. Đây chính là một đặc điểm cơ bản để phân biệt với trường hợp nam nữ không đủ điều kiện kết hôn trái pháp luật.
Đối với các trường hợp nam nữ không đủ điều kiện kết hôn hoặc kết hôn trái pháp luật, các bên nam nữ đều không đủ điều kiện kết hôn có thể là về độ tuổi, về ý chí tự nguyện hoặc vi phạm điều cấm của xã hội mà không thế đăng kí kêt hôn hoặc mặc dù có đăng kí kết hôn nhưng cũng không được công nhận là vợ chồng. Còn trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng, hai bên nam nữ không hề vi phạm những điều kiện về kết hôn theo quy định của pháp luật. Về nội dung giữa hôn nhân hợp pháp với và nam nữ chung sống như vợ chồng không có sự khác nhau. Chính vì vậy, hành vi chung sống như vợ chồng của hai bên là hoàn toàn không vi phạm pháp luật.
Về mặt hình thức, nam nữ chung sống như vợ chồng là trường hợp nam nữ chung sống nhưng giữa họ không có Giấy chứng nhận kết hôn do cơ quan đăng kí kết hôn cấp. Điều đó có nghĩa là giữa họ trong quan hệ hôn nhân không có chứng cứ về mặt pháp lí để khẳng định họ là vợ chồng. Theo quy định của pháp luật, nam nữ chung sống như vợ chồng không được công nhận là vợ chồng. Nếu đem so sánh với hôn nhân có đăng kí thì đây là điểm khác biệt cơ bản.
II. Quyền và nghĩa vụ nhân thân và tài sản của các bên nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn khi họ mong muốn chấm dứt việc sống chung.
1. Trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/1/1987 ( ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực)
Với trường hợp này nam nữ chung sống như vợ chồng mà không có đăng kí kết hôn được pháp luật công nhận là vợ chồng và gọi là chung sống như vợ chồng có giá trị pháp lí, được pháp luật thừa nhận và được nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho đăng kí kết hôn, không hạn chế về mặt thời gian và được miễn lệ phí đăng kí kết hôn (quy định tại điểm a khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10).
Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000.
-
Quyền và nghĩa vụ về nhân thân:
Theo quy định của pháp luật, kể từ thời điểm hai bên nam nữ chung sống với nhau, họ phải gắn bó với nhau bằng các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng. Họ phải chung thủy, thương yêu, chăm sóc, quý trọng lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Một trong hai bên không được phép kết hôn hoặc chung sống với người khác.Nếu giữa họ phát sinh mâu thuẫn và yêu cầu chấm dứt quan hệ hôn nhân thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn để giải quyết.
-Quyền và nghĩa vụ về tài sản
Theo quy định của pháp luật, kể từ thời điểm hai bên nam nữ chung sống với nhau giữa họ phát sinh quyền sở hữu chung hợp nhất về tài sản. Tài sản chung của vợ chông gồm tài sản do vợ hoặc do chồng tạo ra, thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kì hôn nhân, tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được cho chung. Theo đó, kể từ thời điểm bắt đầu cuộc sống chung vợ chồng, mọi thu nhập về nghề nghiệp không phân biệt mức thu nhập của người này cao, mức thu nhập của người kia thấp, mọi tài sản mà vợ hoặc chồng tạo ra, những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng, những tài sản mà vợ chồng được tặng cho chung, được thừa kế chung, những tài sản riêng mà vợ, chồng nhập vào khối tài sản chung đều là tài sản chung của vợ chồng, Vợ chồng bình đẳng với nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Trên cơ sở đó, trong trường hợp phải chia tài sản chung hợp nhất thì vợ chồng đều bình đẳng, được hưởng phần tài sản ngang bằng nhau trong khối tài sản chung.
-Đối với vấn đề cấp dưỡng: Trong trường hợp vợ chồng yêu cầu ly hôn thì vấn đề cấp dưỡng được đặt ra khi thỏa mãn các điều kiện của cấp dưỡng. Nếu một bên túng thiếu yêu cầu cấp dưỡng thì bên kia phải cấp dưỡng theo khả năng của mình. Như vậy, cấp dưỡng là nghĩa vụ gắn liền với nhân thân vợ chồng, không thể chuyển giao cho người khác.
-Quyền và nghĩa vụ đối với con chung
Cha mẹ có đầy đủ nghĩa vụ đối với con chung theo quy định của pháp luật. Cha mẹ bình đẳng với nhau trong mối quan hệ với con. Cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc yêu thương nuôi dưỡng, giáo dục các con trở thành những người công dân có ích cho xã hội. Trong trường hợp cha, mẹ không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ đóng phí tổn nuôi con. Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền quản lý tài sản của con, chịu trách nhiệm về những hành vi trái pháp luật của con, phải bồi thường thiệt hại cho con theo quy định của pháp luật. Trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con, pháp luật không có quy định nào khác biệt giữa trường hợp hôn nhân hợp pháp và hôn nhân trái pháp luật bởi vì con cái không phải chịu trách nhiệm về những hành vi vi phạm của cha mẹ chúng trong việc xác lập quan hệ hôn nhân. Mặt khác, xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ quyền lợi cha mẹ và con, các quy định về quyền lợi và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con không thể hiện sự phân biệt đối xử giữa con trong giá thú và con ngoài giá thú.
2. Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001.
Trường hợp nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001 mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng kí kết hôn trong thời hạn hai năm kể từ ngày Luật Hôn nhân và gia đình có hiệu lực cho đến ngày 01/01/2003.
Trong thời hạn này mà họ không đăng kí kết hôn nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn để giải quyết. Từ sau ngày 01/01/2003 mà họ không đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận là vợ chồng.Kể từ sau ngày 01/01/2003 họ mới đăng kí kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ được xác lập kể từ ngày họ đăng kí kết hôn.Nếu sau đó có yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết theo thủ tục ly hôn ( Mục 2 điểm c Thông tư liên tịch số 01/2000/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 03/01/2001)
Như vậy, khác với trường hợp xác lập quan hệ vợ chồng trước ngày 3-1-1987 từ ngày 3-1-1987 các bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà vi phạm thủ tục đăng kí kết hôn thì “buộc phải đăng kí kết hôn” và đăng kí “ trong thời hạn hai năm kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003”. Trong thời hạn các bên nam nữ có nghĩa vụ đăng kí kết hôn, chúng ta vẫn thừa nhận quan hệ “hôn nhân thực tế” cho các trường hợp chưa đăng kí kết hôn. Đây cũng chính là cách giải quyết linh động nhằm bảo vệ quyền lợi cho các bên nam nữ song vẫn đảm bảo tính thống nhất của quy định “ buộc các bên phải đăng kí kết hôn”. Bởi vì nếu hết thời hạn quy định nói trên mà họ không đăng kí kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
3. Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng kể từ ngày 01/01/2001 trở đi
Đây là trường hợp nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn kể từ ngày 01/01/2001. Pháp luật không thừa nhận mối quan hệ sống chung này là vợ chồng nên không thể áp dụng Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy khi hai người muốn chấm dứt sống chung thì việc xác định quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản là rất phức tạp.
Tuy nhiên, dù hai người không được pháp luật công nhận là vợ chồng nhưng vẫn có thể gửi đơn ra Tòa án
nhân dân để yêu cầu Tòa án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa hai người, đồng thời yêu cầu tòa án phân chia tài sản theo quy định tại điểm c khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH của Quốc hội. Cụ thể tại điểm c khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/QH của Quốc hội có nội dung như sau:
“c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để giải quyết”.
Về hậu quả pháp lý của việc xác lập quan hệ hôn nhân không đăng kí kết hôn.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không thừa nhận việc kết hôn không đăng kí. Theo đó, trường hợp các bên xác lập quan hệ vợ chồng nhưng không đăng kí khi có yêu cầu ly hôn Tòa án sẽ thực hiện biện pháp:
“Tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng”. Đây là một điểm khác so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986. Bởi vì, theo Luật Hôn nhân và gia đình 1986 các bên xác lập quan hệ vợ chồng mà không đăng kí kết hôn thì khi có yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp xử hủy việc kết hôn trái pháp luật. Nhưng theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, kết hôn trái pháp luật là trường hợp các bên nam nữ kết hôn có đăng kí nhưng vi phạm điều kiện kết hôn theo luật định. Vì thế, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định hậu quả pháp lý của việc kết hôn trái pháp luật. Tòa án áp dụng quy định này để giải quyết vấn đề tài sản và con chung cho các bên nam nữ xác lập quan hệ hôn nhân không đăng kí khi có yêu cầu.
Như vậy, từ ngày 01/01/2001 nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn hoặc theo nhưng trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng sau ngày 01/01/1987 đến ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực mà không đăng kí kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân của họ không có giá trị pháp lý. Nếu có yêu cầu giải quyết vấn đề ly hôn tòa án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành và giải quyết như sau:
-Về mặt nhân thân: Tòa án sẽ tuyên bố không công nhận họ là vợ chồng kể từ thời điểm đó họ phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng.
-Về tài sản:
Nếu các bên yêu cầu giải quyết vấn đề tài sản, tòa áp dụng khoản 3 Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết như sau:
Tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc về người đó, đương nhiên người có tài sẵn có nghĩa vụ chứng minh tài sản đó thuộc sở hữu riêng của mình. Trên cơ sở đó tòa án sẽ giải quyết việc bảo vệ quyền lợi cho người có tài sản riêng.
Đối với tài sản chung, tài sản chung được chia theo sự thỏa thuận của các bên. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Khi các bên không thỏa thuận được và yêu cầu tòa án giải quyết, Tòa án sẽ chia tài sản chung cho hai bên có tính đến “ công sức đóng góp của mỗi bên”. Rõ ràng, tài sản chung của hai bên nam nữ ở trong trường hợp này không phải là “ chia đôi một cách bình đẳng” mà “ dấu hiệu” về mặt công sức đóng góp của hai bên vào khối tài sản chung là căn cứ quan trọng để chúng ta giải quyết việc chia. Tuy nhiên không chỉ căn cứ vào công sức đóng góp của mỗi bên mà phải xem xét đến nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ và con: Theo quy định của Điều 17 khoản 3 thì quyền lợi của phụ nữ và con được “ưu tiên” bảo vệ.
-Đối với con chung
Khoản 2 Điều 17 quy đinh: “ Quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn”.
Theo đó, đối với trường hợp xác lập quan hệ vợ chồng nhưng không đăng kí kết hôn thì quyền lợi của các con cũng được pháp luật bảo vệ giống như khi cha mẹ ly hôn. Vì vậy, khi hai bên nam nữ bị Tòa án tuyên không công nhận là vợ chồng thì họ vẫn phải có nghĩa vụ đối với con chung. Hai bên có thể thỏa thuận về việc nuôi dưỡng con, đóng phí tổn nuôi con. Nếu hai bên không thỏa thuận được tòa án sẽ quyết định giao đứa trẻ cho một trong hai người trực tiếp nuôi dậy, người kia phải đóng phí tổn nuôi con theo quy định của pháp luật. Trường hợp con nuôi dưới 3 tuổi, Tòa án sẽ giao cho người mẹ nuôi.
Như vậy, có thể nói giải quyết về mặt pháp luật vấn đề nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn là quy định quan trọng và cần thiết, tạo cơ sở pháp lý để chúng ta bảo vệ quyền lợi cho các bên đương sự khi phát sinh tranh chấp.
KẾT BÀI
Vấn đề xác định quyền và nghĩa vụ nhân thân và tài sản của các bên nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn khi họ mong muốn chấm dứt việc sống chung mang tính chất phức tạp và còn nhiều điểm bất cập. Hi vọng rằng sắp tới đây Luật hôn nhân và gia đình sẽ được sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn và việc áp dụng sẽ thuận lợi hơn.
No comments:
Post a Comment