05/11/2014
Bài tập nhóm - Luật Hình sự 2 - Bài tập tình huống về tội trộm cắp tài sản trong cửa hàng quần áo
TÌNH HUỐNG

A vào cửa hàng quần áo của chị B. Sau khi chọn và thử một chiếc quần jean nhưng không vừa, A đề nghị chị B lấy chiếc quần cỡ to hơn. Trong khi chị B đang lấy quần, thấy trên võng nơi chị B vừa nằm có một chiếc ví, A lại gần và lén bỏ chiếc ví đó vào trong túi xách của mình rồi bỏ đi. Sau đó A bị phát hiện và bị bắt giữ. Trong chiếc ví của chị B có 15 triệu đồng.

Hỏi:
1. Hãy định tội danh và định khung hình phạt cho A. (2 điểm)
2. Giả sử sau khi A bỏ ví vào túi xách của mình, chưa kịp ra khỏi cửa hàng của chị B thì bị phát hiện. Hãy xác định giai đoạn thực hiện tội phạm của A? (2 điểm)
3. Giả sử khi A đang cầm lấy chiếc ví thì chị B bất thình lình quay ra nhìn thấy nói to: “Này, cô định làm gì đấy”, A nhanh chóng cầm chiếc ví và bỏ chạy thì tội danh của A có thay đổi không? Vì sao? (3 điểm)

GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG


1. Hãy định tội danh và định khung hình phạt cho A

Trong tình huống này, A phạm tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 BLHS năm 1999. Ta khẳng định như vậy căn cứ vào những dấu hiệu phạm tội như sau:
Về mặt khách quan, dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản là dấu hiệu hành vi chiếm đoạt cùng với hai dấu hiệu khác là dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản đang có chủ. 
Ở trong tình huống, dấu hiệu chiếm đoạt được thể hiện ở chỗ: A đã chiếm đoạt được tài sản của chị B. Đó là chiếc ví xách có 15 triệu đồng. A đã đưa chiếc ví ra khỏi võng của chị B (vị trí ban đầu của tài sản) và bỏ vào túi xách của mình.

Hành vi chiếm đoạt của B là hành vi lén lút. Lợi dụng lúc chị B sơ hở, không hay biết, A đã tiến hành việc chiếm đoạt chiếc ví. Như vậy, A đã có ý thức che giấu hành vi mà mình đang thực hiện.  
Tài sản mà A chiếm đoạt ở đây là tài sản đang có chủ. Chủ sở hữu của chiếc ví này là chị B. Vị trí ban đầu của chiếc ví là trên võng của chị B, chị B có quyền sở hữu nó. Cho nên, hành vi của A là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ.

Về mặt chủ quan, người phạm tội trộm cắp tài sản khi thực hiện hành vi phạm tội nhận thức rõ tài sản mình chiếm đoạt là tài sản có chủ. Ở đây A biết chủ sở hữu chiếc ví là chị B, nhưng vẫn lợi dụng lúc chị B sơ hở để lén lút chiếm đoạt.

Như vậy, A đã có hành vi phạm tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS 1999).
Để định khung hình phạt cho A, ta căn cứ vào quy định tại Điều 138 BLHS 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009). Theo Khoản 1 Điều 138 quy định: “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới 2 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Xét trong tình huống trên, A đã chiếm đoạt tài sản của chị B có giá trị là 15 triệu đồng, không có các tình tiết tăng nặng ở khoản 2, 3, 4 cho nên ta xác định A phạm tội trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 138 BLHS. Khung hình phạt mà A phải chịu là: “…phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.

2. Giả sử sau khi A bỏ ví vào túi xách của mình, chưa kịp ra khỏi cửa hàng của chị B thì bị phát hiện. Hãy xác định giai đoạn thực hiện tội phạm của A?

Nếu A đã bỏ ví vào túi xách của mình, chưa kịp ra khỏi hàng của chị B mà bị phát hiện thì giai đoạn thực hiện tội phạm của A vẫn là giai đoạn phạm tội đã hoàn thành.
Tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 138 BLHS là cấu thành tội phạm vật chất. Như vậy, hành vi phạm tội của A chỉ hoàn thành khi hành vi đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho khách thể. Có nghĩa nó chỉ hoàn thành khi A đã chiếm đoạt được tài sản. Để đánh giá người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản hay chưa, đã làm chủ được tài sản hay chưa phải dựa vào đặc điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Đối với loại tài sản gọn thì coi đã chiếm đoạt được khi người phạm tội đã cất giấu tài sản trong người. Ở đây, chiếc ví của chị B là vật nhỏ gọn, dễ dàng chiếm đoạt được cho nên việc A cất giấu ví của chị B vào túi xách của mình được xác định là đã chiếm đoạt được tài sản. 
Do đó, tuy chưa mang tài sản chiếm đoạt ra khỏi khu vực bảo quản (cửa hàng của chị B) mà bị phát hiện thì giai đoạn phạm tội của B vẫn là giai đoạn phạm tội đã hoàn thành.

3. Giả sử khi A đang cầm lấy chiếc ví thì chị B bất thình lình quay ra nhìn thấy nói to: “Này, cô định làm gì đấy”, A nhanh chóng cầm chiếc ví và bỏ chạy thì tội danh của A có thay đổi không? Vì sao? 

Khi A đang cầm lấy chiếc ví thì chị B bất thình lình quay ra nhìn thấy nói to: “Này, cô định làm gì đấy”, A nhanh chóng cầm chiếc ví và bỏ chạy thì tội danh của A không thay đổi.

Bởi vì: 
Hành động nhanh chóng cầm ví, bỏ chạy vẫn là hành vi nằm trong tội trộm cắp tài sản. Việc A đã cầm lấy chiếc ví ra khỏi vị trí ban đầu của nó, cho vào túi xách của mình đã hoàn thành tội trộm cắp tài sản. Do bị phát hiện, A phải nhanh chóng bỏ chạy để giữ an toàn cho bản thân, đồng thời để làm chủ được tài sản đã chiếm đoạt. 

Hành động này không có ý nghĩa trong việc xác định tội danh của A chuyển hóa từ tội trộm sang các loại tội khác như: tội cướp tài sản (Điều 133 BLHS) hay cướp giật tài sản (Điều 136 BLHS). Bởi A không có các dấu hiệu cấu thành nên tội cướp tài sản: “dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản”, cũng không có các dấu hiệu cấu thành nên tội cướp giật: dấu hiệu công khai và dấu hiệu nhanh chóng.

Như vậy, tội danh của A vẫn là tội trộm cắp tài sản (Điều 138 BLHS).

No comments:

Post a Comment