LỜI MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của dân tộc và thời đại, là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc ta. Trong các nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc là nội dung quan trọng nhất và có ý nghĩa hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Suốt cuộc đời hoạt động, Người đã dành phần lớn tâm tư và sức lực cho sự nghiệp vĩ đại là tìm ra con đường cách mạng giải phóng dân tộc.
Với hành trang là chủ nghĩa yêu nước - nhân văn Việt Nam và khát vọng giành độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng bào, trải qua cuộc sống lao động, học tập, nghiên cứu kinh nghiệm đấu tranh cách mạng phong phú ở nhiều nước, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy vấn đề giải phóng dân tộc và giải phóng con ngưòi là nhu cầu cấp thiết không chỉ với Việt Nam mà với tất cả các dân tộc thuộc địa và nhân dân bị áp bức trên toàn thế giới.
Chính vì vậy, em xin đi sâu vào: “Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc”. Trong bài tiểu luận này sẽ trình bày một cách tương đối có khái quát về đề tài cách mạng giải phóng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG
1. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường Cách mạng vô sản.
a) Bài học từ những thất bại của tiền bối
Tình hình thực tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Mặc dù triều đình nhà Nguyễn ký các bản hiệp ước đầu hàng vô điều kiện với thực dân Pháp công nhận sự thống trị của Pháp trên đất nước ta. Tuy nhiên các phong trào đấu tranh yêu nước vẫn nổ ra mạnh mẽ. Phong trào yêu nước theo hai khuynh hướng chính: phong kiến và dân chủ tư sản tuy phát triển rộng khắp và có sức ảnh hưởng tới quần chúng nhưng nhìn chung kết cục đều bị thất bại vì chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn khi chủ nghĩa đế quốc đã thành một hệ thống thế giới. Đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng đường lối trầm trọng. Yêu cầu bức thiết đặt ra là tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc.
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước đã trở thành thuộc địa, chứng kiến những cuộc đấu tranh của cha anh lần lượt thất bại, Người nhận thức được rằng không thể cứu nước bằng con đường phong kiến và quyết tâm ra đi tìm con đường cứu nước mới.
b) Người nhận thức được cách mạng tư sản là cuộc cách mạng không triệt để
Người đọc Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cuộc cách mạng tư sản Mỹ, đọc Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp, tìm hiểu cách mạng tư sản Pháp người nhận thấy: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi. Tiếng cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Như vậy, cuộc cách mạng tư sản không thể giải quyết được triệt để vấn đề độc lập dân tộc, giai cấp. Cho nên, Người không đi theo con đường Cách mạng tư sản.
c) Con đường cách mạng vô sản
Tháng 7/1920, khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin, Người thấy "tin tưởng, sáng tỏ và cảm động". Người khẳng định: "Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta". Người đã tìm thấy trong lý luận của V.I. Lênin một con đường cứu nước mới: con đường cách mạng vô sản. Trong báo Người cùng khổ, Người viết: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc...".
Như vậy, chủ nghĩa Mác - Lê nin chính là nền tảng xuyên suốt quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiến lên xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Trong “Chính cương vắn tắt”, Người có viết: “ Muốn cách mệnh thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại, phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lê nin” . Trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê nin mà Đảng có khả năng đề ra được đường lối và phương pháp đấu tranh cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc phù hợp với thực tiễn nước ta.
Người chỉ rõ phương pháp tiến hành cách mạng là sự cố kết giữa phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân lao động ở thuộc địa. Vì trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, họ có chung một kẻ thù là chủ nghĩa tư bản thực dân, đế quốc. Người cho rằng chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một mòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc cần phải đồng thời cắt cả hai cái vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng giải phóng dân tộc.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Chủ nghĩa Mác-Lê nin đánh giá cao vai trò của giai cấp công nhân trong việc thành lập và lãnh đạo Đảng cộng sản đồng thời chỉ ra được tính tiên phong của Đảng: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở tất cả các nước, là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản” . Kế thừa và phát huy chủ nghĩa Mác- Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã sớm khẳng định: muốn giải phóng dân tộc thành công “Trước hết phải có đảng cách mệnh. Đảng có vững chắc mệnh mới thành công… Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt… Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác Lênin.
Các lãnh tụ yêu nước tiền bối cũng đã bước đầu ý thức được tầm quan trọng và vai trò của chính đảng cách mạng. Một phong trào đấu tranh mà không có tổ chức thì chưa mang tính tự giác, chưa trở thành hệ thống bền vững. Tuy nhiên, dù đã thành lập hay chưa thì các đảng kiểu cũ không thể lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối chính trị đúng đắn và một đường lối tổ chức chặt chẽ; lại không có cơ sở rộng rãi trong quần chúng, nên sớm muộn cũng rơi vào tan rã và thất bại.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở liên minh công-nông.
Cách mạng giải phóng dân tộc như Nguyễn Ái Quốc viết “là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”, vì vậy phải đoàn kết toàn dân, “sĩ, công, nông, thương đều nhất trí chống lại cường quyền”. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó, Người nhắc nhở không được quên cái cốt của nó là công- nông. Phải nhớ: “Công nông là người chủ cách mệnh… Công nông là gốc cách mệnh”.
Trong phạm vi của cách mạng giải phóng dân tộc mà đối tượng cần đánh đổ trước hết là bọn đế quốc và địa chủ phong kiến tay sai nhằm giành lại độc lập dân tộc và dân chủ cho nhân dân, trước hết là nông dân, nên Nguyễn Ái Quốc chủ trương cần vận động, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam đang mất nước, đang bị làm nô lệ trong một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập tự do.
Người đã viết trong Sách lược vắn tắt tại Hội nghị thành lập Đảng đầu năm 1930: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, thanh niên, tân Việt…, để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã rõ mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v…) thì phải đánh đổ .
Do chưa phân biệt được sự khác nhau giữa yêu cầu mục tiêu của cách mạng vô sản ở các nước tư bản phát triển với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, lại chịu sự chi phối của quan điểm “tả” khuynh của đường lối “giai cấp chống giai cấp” đang tồn tại trong Quốc tế Cộng sản lúc bấy giờ, nên đã có ý kiến cho rằng Nguyễn Ái Quốc quá chú trọng vấn đề dân tộc, “chỉ nghĩ đến việc phản đế mà quên mất lợi ích giai cấp đấu tranh”v.v…
Thực ra, trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực lượng dân tộc chống đế quốc, Hồ Chí Minh vẫn nhắc nhở phải quán triệt quan điểm giai cấp: “Công nông là gốc cách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông, ba hạng ấy chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi”. Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường lối thỏa hiệp”.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Đây là một điểm mới mẻ và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trong phong trào cộng sản quốc tế, như đã nói ở trên, đã từng tồn tại quan điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Tuyên ngôn thành lập Quốc tế Cộng sản năm 1919 có đoạn viết: “Công nhân và nông dân không những ở An Nam, Angiêri, Bengan mà cả Ba Tư hay Ácmênia chỉ có thể giành được độc lập khi mà công nhân các nước Anh và nước Pháp lật đổ được Lôiit Gioócgiơ và Clêmăngxô, giành chính quyền nhà nước vào tay mình”. Những luận cương về phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông qua Đại hội VI Quốc tế Cộng sản, ngày 1-9-1928 viết: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến”. Quan điểm này, vô hình trung đã giảm tính chủ động, sáng tạo của các phong trào cách mạng ở thuộc địa.
Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1924) Nguyễn Ái Quốc đã phân tích: “Vận mệnh giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa… nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa”, nếu khinh thường cách mạng ở thuộc địa tức là “muốn đánh rắn đằng đuôi”.
Vận dụng công thức của Các Mác: “Sự giải phóng giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Nguyễn Ái Quốc đã đi tới điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.
Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã sớm cho rằng: “Cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước”, và “trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”.
Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn, một cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác- Lênin, đã được thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
5. Cách mạng giải phóng dân tộc được thực hiện bằng phương pháp cách mạng bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang.
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu. Chưa đè bẹp ý chí xâm lược của chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con đường để giành và giữ độc lập dân tộc chỉ có thể là con đường cách mạng bạo lực. Đánh giá đúng bản chất cực kỳ phản động của bọn đế quốc tay sai. Hồ Chí Minh cho rằng: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”. Từ năm 1924, đề cập đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: Để có cơ thắng lợi, cuộc khởi nghĩa vũ trang đó phải có tình chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải là một cuộc nổi loạn…phải được chuẩn bị trong quần chúng, nổ ra trong thành phố, theo kiểu các cuộc cách mạng châu Âu; phải được nước Nga ủng hộ; phải trùng hợp với cách mạng vô sản Pháp; phải gắn mật thiết với sự nghiệp vô sản thế giới.
Ngoài ra, theo Hồ Chí minh, bạo lực cách mạng ở Việt Nam là sức mạnh tổng hợp của hai yếu tố chính trị và quân sự, hai lực lượng là lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân. Cách mạng bạo lực là sử dụng sức mạnh tổng hợp để “chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền” dưới hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
Khẳng định giải phóng dân tộc phải bằng con đường cách mạng bạo lực, song Hồ Chí Minh luôn chủ động, tích cực đưa ra giải pháp để tranh thủ khả năng hòa bình và phát triển của cách mạng. Thực tiễn cách mạng Việt nam đã chứng minh tư tưởng này của Hồ Chí Minh là đúng đắn.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã chứng minh hung hồn tính khoa học đúng đắn, tíh cách mạng sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
KẾT LUẬN
Lịch sử đã chứng minh một cách rõ ràng tính cách mạng, khoa học đúng đắn con đường giải phóng dân tộc mà Hồ Chí Minh lựa chọn và thực hiện thắng lợi ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, đã từng là tấm gương ngưỡng mộ và cổ vũ các dân tộc bị áp bức noi theo.
Ngoài ra, tư tưởng Hồ Chỉ Minh về vấn đề giải phóng dân tộc mang nhiều luận điểm sáng tạo, làm phong phú đường lối đấu tranh cách mạng của Đảng góp phần vô cùng to lớn vào giá trị thực tiễn và lý luận. Hồ Chí Minh đã định đoạt con đường cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng chính trị vô sản. Người đã vận dụng kết hợp vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp và gắn độc lập dân tộc với định hướng chủ nghĩa xã hội. Vì vậy lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống những luận điểm sáng tạo từ chủ nghĩa Mác-Lê nin.
Tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt từng được thử thách của đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất định thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng vĩ đại đã được lịch sử dân tộc lựa chọn./.
No comments:
Post a Comment