LỜI NÓI ĐẦU
Trẻ em có vai trò quan trọng
đối với gia đình và xã hội. Người Việt Nam vốn có truyền thống yêu
thương gắn bó với con cháu, con cháu không chỉ là nguồn hạnh phúc mà còn
là niềm mong ước, là nơi gửi gắm những ước mơ, niềm tin và sự hãnh
diện. Vì vậy, ngay từ thời xa xưa, các nhà nước phong kiến đã đề ra
những quy định bằng pháp luật để bảo vệ trẻ em; nhân dân cũng tự hình
thành các quan hệ đạo đức nhằm bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Trong
những năm qua, Nhà nước ta đã tích cực xây dựng và từng bước hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, kịp
thời điều chỉnh mọi quan hệ xã hội phát sinh,trong đó có pháp luật về
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đồng thời từng bước làm hài hoà với
pháp luật quốc tế, phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Đó
là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em,
tạo cơ hội cho trẻ em phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ, tinh
thần, xứng đáng là chủ nhân tương lai của đất nước.
Để trẻ em có
thể nhận thức đầy đủ quyền lợi, những bổn phận và những việc trẻ em
không được làm thì trách nhiệm đầu tiên phải thuộc về gia đình. Gia đình
có trách nhiệm, nghĩa vụ nuôi dạy con cái, giúp các em thực hiện những
bổn phận của mình và tránh xa những tệ nạn của xã hội.
NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VỀ TRẺ EM VÀ QUYỀN TRẺ EM
1. TRẺ EM
Theo
Từ điển Xã hội học, trẻ em đó là nhóm ở trong quá trình xã hội hóa
(tiếp nhận những kỹ năng và tri thức để có thể tham gia hoạt động xã hội
độc lập), nói đúng hơn đó là nhóm ở trong giai đoạn đầu tiên của xã hội
hóa. Về luật pháp người ta coi đó là vị thành niên.
Tuy nhiên, tùy theo các giác độ tiếp cận khác nhau về trẻ em mà có những định nghĩa khác nhau:
Tiếp cận theo giác độ phát triển thì trẻ em là một giai đoạn phát triển trong cuộc đời của một người (từ lúc sinh ra đến khi chết). Trẻ em và người lớn là những giai đoạn phát triển khác nhau của đời người. Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại. Trẻ em vận động và phát triển theo qui luật riêng của mình. Tâm lý học lứa tuổi lại xác định những giai đoạn khác nhau trong lứa tuổi trẻ em như: tuổi sơ sinh, tuổi hài nhi, tuổi mẫu giáo nhỏ, tuổi mẫu giáo lớn, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên, tuổi thanh niên mới lớn.
Tiếp cận theo cơ cấu xã hội - văn hóa có ý nghĩa rất lớn đối với sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, bởi vì văn hóa vừa là môi trường vừa là nội dung của quá trình xã hội hóa trẻ em. Mỗi đứa trẻ là con đẻ của một nền văn hóa nhất định, một vùng văn hóa xác định trong một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Trẻ em lớn lên, xã hội hóa trong những môi trường xã hội văn hóa cụ thể: văn hóa gia đình, văn hóa nhà trường, văn hóa địa bàn dân cư (làng, xã, phố phường); khiến không chỉ mỗi thời đại có trẻ em riêng của nó mà hơn thế, trong cùng một thời đại, mỗi vùng văn hóa, mỗi môi trường văn hóa, có trẻ em mang tính cách riêng của nó.
Trẻ em là một nhóm trong cơ cấu xã hội - dân số - nhân khẩu nhưng trẻ em cũng đồng thời là điểm hội tụ giao thoa của các lớp, các lát cắt khác trong cơ cấu xã hội tổng thể, không có một thành tố nào, không có một quan hệ nào lại không có quan hệ đến trẻ em, đặt dấu ấn lên quá trình xã hội hóa trẻ em. Trẻ em là một phạm trù xã hội lịch sử cụ thể, cũng là một phạm trù phức hợp. Trẻ em có những đặc điểm tâm sinh lý khá đặc thù do chưa phát triển đầy đủ về thể chất và trí tuệ, dễ tổn thương, dễ thay đổi, dễ thích nghi, dễ uốn nắn, dễ tự ái, tự ti, hiếu thắng, thiếu kiên nhẫn. Xu hướng muốn tự khẳng định, được đánh giá, được tôn trọng, nhiều hoài bão và nhìn chung còn thiếu thực tế, thiếu kinh nghiệm.
Trong
Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em (1989) mà Việt Nam đã phê chuẩn
năm 1990 xác định trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật
áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn (Điều 1).
Như
vậy, pháp luật Việt Nam và Công ước số 182 của Tổ chức Lao động quốc tế
về việc cấm và những hành động tức thời để loại bỏ những hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất, nếu xét cả công ước của Liên hợp quốc về quyền
trẻ em, thì tất cả những người dưới 18 tuổi đều được coi là trẻ em. Dù
có gọi người chưa thành niên hoặc trẻ em vị thành niên thì vẫn gọi là
trẻ em. Tuy nhiên, trong pháp luật Việt Nam, tùy theo từng lĩnh vực,
phân biệt trẻ em và người chưa thành niên theo độ tuổi khác nhau: 14,
15, 16, để xác định chế độ pháp lý, sự bảo vệ thích hợp cho từng lứa
tuổi. Ví dụ, theo Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định thì
“Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”.
Ở Việt Nam, các quyền
cơ bản của trẻ em được quy định trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm
2004, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2005.
Luật này nhấn
mạnh nhiệm vụ của xã hội đối với sự bảo vệ, chăm sóc trẻ em, yêu cầu
trừng phạt nghiêm khắc đối với vi phạm quyền trẻ em. Luật đã quy định
các quyền của trẻ em Việt Nam như sau:
- Được khai sinh và có quốc tịch (Điều 11).
- Được chăm sóc, nuôi dưỡng (Điều 12).
- Được sống chung với cha mẹ (Điều 13).
- Được tôn trọng và bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự (Điều 14).
- Được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe (Điều 15).
- Được học tập (Điều 16).
- Được vui chơi, giải trí, hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao, du lịch (Điều 17).
- Được phát triển năng khiếu (Điều 18)
- Được có tài sản (Điều 19).
- Quyền được tiếp cận thông tin, bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã hội (Điều 20).
Mọi
hành vi vi phạm quyền trẻ em, làm tổn hại đến sự phát triển bình thường
của trẻ em đều bị nghiêm trị (Điều 6). Luật cấm sử dụng lao động trẻ em
trái quy định pháp luật có hại cho sự phát triển bình thường của trẻ em
(Điều 7).
Trẻ
em không chỉ có quyền mà còn phải có bổn phận. Việc quy định bổn phận
của trẻ em trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhằm định
hướng vào việc khuyên răn, giáo dục ý thức tự chấp hành của trẻ em. Điều
21 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định những bổn phận của
trẻ em, cụ thể là:
Khoản 1 quy định bổn phận “Yêu quý, kính
trọng, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ; kính trọng thầy giáo, cô giáo; lễ
phép với người lớn, thương yêu em nhỏ, đoàn kết với bạn bè; giúp đỡ
người già yếu, người khuyết tật, tàn tật, người gặp hoàn cảnh khó khăn
theo khả năng của mình”.
Khoản 2 quy định bổn phận “Chăm chỉ học tập, giữ gìn vệ sinh, rèn luyện thân thể, thực hiện trật tự công cộng và an toàn giao thông, giữ gìn của công, tôn trọng tài sản của người khác, bảo vệ môi trường”.
Khoản 3 quy định bổn phận “Yêu lao động, giúp đỡ gia đình làm những việc vừa sức mình”.
Khoản 4 quy định bổn phận “Sống khiêm tốn, trung thực và có đạo đức, tôn trọng pháp luật; tuân theo nội quy của nhà trường; thực hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hoá; tôn trọng, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc”.
Khoản 5 quy định bổn phận “Yêu quê hương, đất nước, yêu đồng bào, có ý thức xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đoàn kết quốc tế”.
Những
nội dung này là sự cụ thể hoá 5 Điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng,
góp phần định hướng cho trẻ em những phẩm chất tốt đẹp trong học tập,
lao động, rèn luyện sức khoẻ, tu dưỡng đạo đức và có ý thức yêu thương
những người xung quanh, ý thức đối với cộng đồng và ý thức đối với cuộc
sống.
Điều
22 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định, trẻ em không được
làm những việc như “Tự ý bỏ học, bỏ nhà sống lang thang” (khoản 1);
“Xâm phạm tính mạng, thân thể, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người
khác; gây rối trật tự công cộng” (khoản 2); “Đánh bạc, sản xuất rượu,
bia, thuốc lá, chất kích thích khác có hại cho sức khoẻ” (khoản 3);
“Trao đổi, sử dụng văn hoá phẩm có nội dung kích động bạo lực, đồi truỵ;
sử dụng đồ chơi hoặc chơi trò chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh”
(khoản 4).
Theo quy định của pháp luật, trẻ em là công dân và trẻ
em cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật hiện hành, nếu vi phạm
thì bị xử lý. Tuy nhiên, do trẻ em còn non nớt về thể chất và tinh
thần, nên những việc trẻ em không được làm là những điều cấm được thể
hiện mềm hơn nhằm định hướng giáo dục cho trẻ em có một lối sống tốt
đẹp, sống có trách nhiệm và tránh xa những thói hư tật xấu để các em có
thể trở thành những con người có ích cho xã hội, mang trong mình những
phẩm chất đạo đức tốt đẹp khi trưởng thành.
Quy định những việc
trẻ em không được làm không nhằm mục đích răn đe, trừng trị trẻ em mà
nhằm giáo dục cho trẻ em hiểu phân biệt đối với những hành vi đã được xã
hội thừa nhận là không phù hợp với đạo đức và pháp luật để trẻ em tránh
xa các hành vi xấu, trái pháp luật và có ý thức với những hành động của
mình, đồng thời ngăn ngừa những hành vi vi phạm có thể xảy ra ở trẻ em
nếu không được cảnh báo kịp thời.
Trẻ em là người chưa phát triển toàn diện về thể lực và trí lực, chưa đủ khả năng để thực hiện các quyền của mình và đòi hỏi gia đình, Nhà nước và xã hội phải bảo đảm điều kiện, tạo cơ hội để trẻ em thực hiện quyền của mình. Vì vậy, quyền của trẻ em làm phát sinh nghĩa vụ của gia đình, Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, mỗi chủ thể trong xã hội lại có vai trò, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau, nên muốn bảo đảm cho trẻ em được hưởng các quyền cơ bản thì phải quy trách nhiệm của từng chủ thể phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của họ.
Ngoài các chủ
thể bảo đảm 10 nhóm quyền cơ bản của trẻ em, Luật bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc
thực hiện tuyên truyền, vận động, giáo dục, thực hiện các biện pháp
phòng ngừa, ngăn chặn trẻ em rơi vào tệ nạn xã hội; cung cấp các dịch vụ
xã hội cơ bản; tham gia trợ giúp trẻ em dưới các hình thức thích hợp;
phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm quyền trẻ em. Việc thực hiện trực
tiếp hoặc gián tiếp trách nhiệm của cơ quan, tổ chức sẽ là cơ sở thuận
lợi để trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em.
1. TRÁCH NHIỆM CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC GIÚP TRẺ EM THỰC HIỆN BỔN PHẬN CỦA MÌNH
Gia đình là một trong những nền tảng quan trọng nhất hình thành nên nhân cách mỗi con người. Đặc biệt là với trẻ em, bởi như ai đó từng nói thì trẻ em như một tờ giấy trắng mà chúng ta vẽ lên trang giấy đó hình ảnh gì thì nó sẽ hằn sâu vào suy nghĩ và đi theo trẻ suốt cuộc đời. Vì thế, “ dạy con từ thuở còn thơ”, nhất là trong việc để cho trẻ nhận thức và thực hiện bổn phận của một người con, người cháu, một người anh, người chị, người em là một vai trò hết sức quan trọng của gia đình. Trách nhiệm đó của gia đình thể hiện qua những khía cạnh sau:
Tạo ra môi trường sống lành mạnh cho trẻ
: Đây là trách nhiệm quan trọng đầu tiên trong việc giúp trẻ thực
hiện bổn phận của mình. Có thể nói môi trường sống trong gia đình là nơi
đầu tiên trẻ hít thở bầu không khí của cuộc sống, là nơi đầu tiên trẻ
tiếp xúc ngay khi lọt lòng me. Vì thế cần tạo cho trẻ một môi trường
sống lành mạnh để trẻ phát triển một cách tốt nhất về nhân cách cũng như
phẩm chất sau này. Môi trường sống lành mạnh là một nơi mà trẻ cảm
thấy an toàn, được sống trong sự yêu thương, bao bọc của mọi thành viên
trong gia đình. Muốn tạo ra được một môi trường tốt cho trẻ như thế thì
đòi hỏi mỗi thanh viên trong gia đình cần có lối sống lành mạnh, tích
cực, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Mỗi người trong gia đình cần là một
tấm gương sáng để từ đó trẻ nhìn vào mà noi gương học tập. Môi trường
sống lành mạnh, tốt đẹp cho trẻ cũng có thể được hiểu là mọi thành viên
trong gia đình cần có những cư xử đúng mực, thực hiện tốt trách nhiệm
với những người lớn tuổi trong gia đình. Như anh chị em đối với nhau, bố
mẹ đối với ông bà cũng như quan hệ với những người xung quanh. Dần dần
từ môi trường đó mà trẻ sẽ tiếp thu một cách tự nhiên nhất những giá trị
tốt đẹp từ gia đình mà nhờ đó trẻ sẽ bết mình nên làm gì để thực hiện
tốt bổn phận của trẻ như những thành viên trong gia đình trẻ đã thực
hiện.
Giáo dục trẻ trong việc thực hiện bổn phận của mình :
Việc giáo giục trẻ thực hiện bổn phận có thể được thực hiện bằng nhiều
cách khác nhau. Việc giáo dục này cần được thực hiện phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của trẻ, phù hợp vơi nhận thức đúng với lứa tuổi mà
trẻ có thể tiếp thu.
Giáo giục trẻ thực hiện bổn phận trước hết
mỗi thành viên trong gia đình cần làm gương cho trẻ noi theo bằng lối
sống lành mạnh, tích cực như đã nói ở trên. Việc giáo dục trẻ thực hiện
bổn phận nên bắt đầu từ những việc nhỏ nhất tưởng chừng như đơn giản
như dạy cho trẻ biết yêu thương, chăm sóc mọi người, biết kính trên
nhường dưới… Từ những công việc đó mà trẻ sẽ dần nhận thức được bổn phận
của mình trong gia đình. Việc giáo dục cũng nên coi trọng việc động
viên, khuyến khích trẻ những khi trẻ thực hiện được việc tốt. Tác động
từ những lời khen ngợi sẽ làm cho trẻ thấy được động viên, thấy mình làm
được những việc tốt. Vì thế mà sẽ có tác dụng lâu dài về sau. Mặt khác,
trong việc giáo dục trẻ thực hiện bổn phận cũng rất cần những “ chế tài
“ khi trẻ có hành vi ứng xử không đúng mực. Tuy nhiên “ chế tài” này
không nhằm mục đích trừng phạt trẻ, cũng như không nên có những lời nói
cử chỉ làm trẻ bị tổn thương. Những hành vi đó không làm trẻ hiểu ra
được hành vi sai trái cua mình mà vô hình chung còn làm cho trẻ thấy tự
ti, thấy mình kém cỏi, làm việc gì cũng không đúng. Vì thế có thể dẫn
trẻ đến những trạng thái tâm lí tiêu cực.
Giáo dục trẻ thực hiện
bổn phận cũng cần nêu gương tốt cho trẻ học tập. Tấm gương đó có thể là
từ những thành viên trong gia đình cũng có thể là những người xung quanh
trẻ, bạn bè đồng trang lứa. Tuy nhiên việc nêu gương chỉ nhằm mục đích
động viên, khuyến khích trẻ học tập và noi theo, mà không nên nhằm mục
đích so sánh đề cao người khác mà hạ thấp trẻ. Vì như thế trẻ sẽ dễ cảm
thấy bị thua kém và tổn thương. Ngoài ra, gia đình cũng nên hướng dẫn
trẻ đọc các sách báo nêu gương tốt, việc tốt. Điều này sẽ góp phần hình
thành và bồi đắp tâm hồn trẻ tốt đẹp hơn.
Định hướng trẻ tron việc thực hiện bổn phận
: Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì trẻ em là người dưới 16
tuổi. Vì thế lứa tuổi từ 14 đến 16 tuổi là giai đoạn mà nhân cách của
trẻ phát triển gần như hoàn thiện. Trẻ có thể ý thức được những việc nên
và không nên làm. Vì thế, định hướng cho trẻ thực hiện bổn phận của
mình thông qua những việc làm thiết thực, cụ thể là trách nhiệm quan
trọng của gia đình. Định hướng trẻ trong việc thực hiện bổn phận, hay
nói cách khác là giáo dục, định hướng lí tưởng sống cho trẻ. Việc là này
tưởng chừng như quá lớn lao và vượt khả năng của trẻ nhưng thực ra ở
lứa tuổi từ 14 đến 16 trẻ đã được nghe rất nhiều về lí tưởng sốn trong
xã hội. Việc định hướng trẻ thực hiện tốt bổn phận của mình lúc này
không đơn thuần chỉ bó hẹp trong phạm vi gia đình mà rộng hơn là bổn
phận của trẻ đối với quê hương, đất nước. Đối với gia đình, lúc này đối
với trẻ không chỉ là yêu thương, kính trọng mọi người mà còn là bổn phận
làm gương cho những thành viên nhỏ tuổi hơn tron gia đình như đối với
em út trong gia đình…Đó còn là bổn phận học hành tiến tới để lo cho bước
đường tương lai sự nghiệp sau này. Đối với quê hương, đất nước đó là lí
tưởng sống cống hiến, xây dựng quê hương giàu đẹp. Bổn phận của trẻ đối
với quê hương cũng bao hàm cả bổn phận đối với gia đình. Tình yêu gia
đình hòa lẫn với tình yêu quê hương đất nước, cái tôi đã chuyển hóa
thành cái chúng ta, cá nhân đã chuyển hóa thành tập thể. Đó cũng chính
là điểm nhấn quan trọng trong việc thực hiện bổn phận của trẻ.
2.1. Trách nhiệm của gia đình trong việc đưa ra những cảnh báo về tác hại của những việc trẻ em không được làm.
- Trước hết, gia đình phải nhận thấy được nhóm những đối tượng trẻ em hay mắc vào các tệ nạn xã hội bởi
gia đình là môi trường sống thân thuộc, gần gũi nhất với trẻ em. Do đó,
bố me, anh, chị trong gia đình phải có trách nhiệm chia sẻ, thường
xuyên trò chuyện, hiểu được suy nghĩ của trẻ để từ đó có những biện pháp
khắc phục kịp thời khi có hành vi lệch lạc ở trẻ. Những đối tượng trẻ
em hay mắc các tện nạn xã hội đó là: những em gặp khó khăn trong chuyện
học hành, ham chơi, bỏ học, không chú ý đến việc học, hoặc cố gắng học
nhưng vẫn không có kết quả tốt; Những em học lực kém thường có xu hướng
muốn chứng tỏ là mình cũng tài giỏi, cũng thành công trong một phương
diện nào đó; Những em khó tìm bạn, không kết bạn với những người chơi
thể thao, âm nhạc hay không kết bạn với ai được lâu cũng thường dễ mắc
vào các tệ nạn cờ bạc hay sử dụng các chất kích thích. Lý do vì đâu? Trẻ
em nghe bạn để đi chơi bài đánh bạc lý do là vì các em cần bạn. Khi đi
với những bạn đó các em không có mặc cảm. Những em không có mối quan hệ
tốt đẹp với cha mẹ, không được cha mẹ gần gũi chăm sóc, nhất là những em
sống trong gia đình không êm ấm, cha mẹ thường hay gây gổ đánh nhau,
cha mẹ ly hôn...Các em buồn chán, cô đơn, mặc cảm tự ti, thiếu tự tin,
không có cái nhìn tốt đẹp về chính mình, gia đình mình nên dễ sa vào con
đường tệ nạn.
- Gia đình cần thấy được những nguy cơ xảy ra
trên thực tế về thực trạng trẻ em hiện nay ra sao? Từ đó nhận thấy được
những tác hại của những việc mà pháp luật cấm trẻ em không được làm để
có hướng khắc phục.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Bộ
Công an, chỉ tính riêng năm 2010 đã có 13.572 đối tượng này phạm tội,
tăng gấp 2 lần so với năm 2006. Con số này là một lời cảnh báo về tình
trạng trẻ em nhỏ tuổi vi phạm pháp luật. Tình hình trẻ phạm tội ngày
càng gia tăng như trên là do tác động của nhiều nguyên nhân như ảnh
hưởng của phim ảnh; game bạo lực; sự bất cập trong tổ chức cộng đồng,
trong quản lý xã hội; việc tổ chức vui chơi, giải trí và xây dựng các
công trình văn hóa cho thanh thiếu niên, nhi đồng còn quá ít và chật hẹp
v.v... trong đó nhân tố gia đình có vai trò quyết định trong việc hình
thành nhân cách của các em.
- Về hậu quả của các tệ nạn xã hội:
Trẻ
em tự ý bỏ học, bỏ nhà sống lang thang hiện nay phần lớn là do hạnh
phúc gia đình, bố mẹ mâu thuẫn, ly hôn, lo kiếm ăn bỏ quên con cái…khi
các em rời xa gia đình ra ngoài xã hội dễ phải gánh chịu những hậu quả
đáng tiếc như nghiện ngập, lệc lạch về nhân cách, bị xâm hại, bị bóc
lột…
Khi trẻ em có những hành vi xâm phạm tính mạng, thân thể,
nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác; gây rối trật tự công cộng vi
phạm pháp luật sẽ gây nguy hiểm cho xã hội, nhân cách, đạo đức, lối
sống suy đồi, buông thả…trở thành tội phạm, những người không có ích cho
xã hội.
Trẻ em đánh bạc, sử dụng rượu, bia, thuốc lá, chất kích
thích khác có hại cho sức khoẻ, lãng phí tiêu tốn tiền bạc, vi phạm pháp
luật.
Trẻ em trao đổi, sử dụng văn hoá phẩm có nội dung kích động
bạo lực sẽ làm cảm xúc con người bị tê liệt. Khi đã ham mê tột độ không
có tiền để chơi sẽ sẵn sàng lấy cắp đồ đạc trong nhà đi bán, thậm chí
trấn lột, trộm cắp, gây án mạng để có tiền thoản mãn thú vui chơi. Sử
dung văn hoá phẩm đồi truỵ làm đạo đức xuống cấp; sử dụng đồ chơi hoặc
chơi trò chơi có hại cho sự phát triển lành mạnh, kết quả học tập giảm
sút…
Cho trẻ em thấy được tác hại của những việc làm trên giúp cho
trẻ em có được những định hướng đúng đắn trong việc thực hiện bổn phận
của mình và không thực hiện những việc mà pháp luật cấm. Tuy nhiên,
trách nhiệm của gia đình vẫn đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình
thành nhân cách ở trẻ.
2.2. Trách nhiệm của gia đình trong việc phối hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội.
Giáo
dục gia đình có tác động hình thành nhân cách cho trẻ. Đó là kinh
nghiệm sống của cha mẹ truyền dạy cho con cháu qua hành vi ứng xử trong
gia đình, cần thường xuyên giáo dục con trẻ thái độ, cử chỉ, ăn nói lễ
phép, tôn kính người trên, tôn sư trọng đạo, nhường nhịn lẫn nhau để khi
trưởng thành con cái biết ơn sinh thành, nuôi dưỡng, chăm sóc ông bà,
cha mẹ. Cha mẹ cũng cần uốn nắn, phê phán, ngăn chặn thái độ, cử chỉ bất
nhã, bất hiếu của con cái. Kết hợp giữa giáo dục truyền thống và hiện
đại, phát huy mặt tích cực của Nho giáo, Đạo giáo trong quan hệ lễ nghĩa
tương kính. Mặt khác, dần dần xây dựng nếp sống khoa học trong gia
đình: rèn cho con nền nếp học tập và đức tính tốt, như tự suy nghĩ, tìm
tòi, sinh hoạt đúng giờ, gọn gàng ngăn nắp. Cha mẹ cũng cần giáo dục các
nội dung văn hóa khác cho trẻ, như văn hóa lao động, văn hóa sinh hoạt,
văn hóa tiêu dùng, văn hóa giao tiếp…Tập luyện cho con ý thức, thói
quen lao động chân tay hàng ngày để nâng cao sức khỏe, loại trừ thói xấu
lười nhác, ỷ lại, dựa dẫm, cẩu thả…qua đó giúp con mình hình thành nhân
cách, sớm ý thức được mình vì mọi người và mọi người vì mình trong gia
đình. Cần có kế hoạch, thời gian dành cho vui chơi, học tập của con phù
hợp với sinh hoạt của gia đình.
Gia đình có vai trò quan trọng đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách mỗi con người. Nếu nhân cách
của con người bao gồm hai mặt đức và tài, thì gia đình là nơi nuôi dưỡng
đạo đức và gieo mầm tài năng. Bởi vậy, các bậc cha mẹ cần nhận thức
đúng trách nhiệm của mình để giữ gìn hạnh phúc gia đình, xây dựng gia
đình văn hóa: no ấm, bình đăng, tiến bộ và hạnh phúc.
Nhà trường
phát hiện các em có hiện tượng thường xuyên trốn học và bỏ nhà đi lang
thang để thông báo kịp thời cho gia đình và nhà trường để gia đình, nhà
trường và xã hội kịp thời có biện pháp ngăn chặn những biểu hiện có nguy
cơ đưa trẻ em vào con đường phạm tội. Tổ chức đoàn thanh niên (ở địa
phương cũng như trong nhà trường) phải đẩy mạnh các hoạt động thường
xuyên, phù hợp với nhu cầu và đáp ứng được yêu cầu của giới trẻ, tạo
được môi trường tốt để giáo dục tình cảm, lí tưởng cũng như những kỹ
năng sống mà các em cần. Nhà trường chú ý hơn đến giáo dục toàn diện,
cân bằng các chỉ tiêu giáo dục để trẻ em được phát triển hài hòa có trí
thức, có văn hóa và đời sống tâm hồn phong phú.
Về phía nhà nước,
các cơ quan ban ngành: cần tăng cường công tác kiểm tra để kịp thời chấn
chỉnh và xử lý những cơ sở vi phạm các quy định về quản lý Internet. Đề
ra những quy định cụ thể về thời gian, nội dung của các trò chơi điện
tử trước khi cấp giấy phép lưu hành. Và hiện nay, ở một số nước đã mở
những trung tâm cai nghiện game, tuy nhiên, ở nước ta loại hình này chưa
được phổ biến. Chính quyền các cấp cần tạo điều kiện cho thanh, thiếu
niên có các hình thức sinh hoạt văn hóa trong sáng, lành mạnh. Các địa
phương cần thống kê, quản lý, giám sát và có kế hoạch động viên đưa các
em trở lại hoà nhập cộng đồng.
Đối với các em đã phạm tội thì cơ
quan bảo vệ pháp luật phải áp dụng các biện pháp điều tra, xử lý nhanh
chóng, phù hợp với lứa tuổi của các em. Cần triệt để áp dụng nguyên tắc
cá thể hóa các hình thức xử lý và đảm bảo yêu cầu tái giáo dục để các em sớm trở thành người lương thiện không tái phạm.
III. THỰC TRẠNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
1. THỰC TRẠNG
Trong
thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế sâu
rộng. Ngày nay, cuộc sống của mỗi gia đình và của cả xã hội ngày càng
được cải thiện. Nhịp sống và giao lưu văn hóa mở rộng tác động thường
xuyên và theo nhiều chiều các giá trị văn hóa gia đình có nhiều thay
đổi. Có nhiều gia đình, những người làm cha, làm mẹ, ông bà, anh chị đã
hiểu được cách nuôi dạy con cái, hiểu được tâm snh lí của trẻ em, những
điều trẻ em cần và có ý thức trong việc giúp trẻ nhận biết được bổn phận
của mình, những việc trẻ em không được làm phù hợp với lứa tuổi của
mình. Có những gia đình hòa thuận, có đủ điều kiện để nuôi dạy con cái
giúp trẻ hiểu biết được những giá trị cuộc sống, giúp trẻ tiếp thu những
bài học, những việc phù hợp với lứa tuổi của mình. Bên cạnh đó không ít
những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, những gia đình không hạnh phúc,
bố mẹ ly hôn trong đó người phải chịu thiệt thòi nhất là những đứa trẻ,
chúng thiếu tình thương, thiếu sự dạy dỗ của cha mẹ, không có người
hướng dẫn cho trẻ những việc trẻ em được làm và những việc trẻ em không
được làm.Ngoài ra một số gia đình ở miền núi, vùng sâu vùng xa vì cuộc
sống quá khó khăn, trẻ em ở những khu vực này không được đi học, các em
bị tước đi quyền được học tập của mình, phải lao động sớm,phải làm những
công việc không phù hợp với lứa tuổi của mình, không được tiếp cận công
nghệ thông tin. Đó là những thiệt thòi đối với trẻ em.
Không chí
có những gia đình ở các khu vực có điều kiện khó khăn mà cả những gia
đình ở thành thị có điều kiện nhưng lại không quan tâm đến con cái, bỏ
mặc con cái đã làm cho trẻ em bị tổn thương, có những nhận thức sai lầm.
nghiêm trọng hơn nữa là trẻ em bị mắc bệnh trầm cảm, tự ti về bản thân,
không thể hòa nhập với cộng đồng.
Bên cạnh đó, hệ thống luật
pháp, chính sách và khung pháp lý để bảo vệ, chăm sóc trẻ em chưa đầy
đủ, đồng bộ. Chế tài xử phạt các hành vi vi phạm quyền trẻ em chưa đủ
mạnh. Một số nhóm đối tượng trẻ em đặc biệt chưa được đưa vào Luật Bảo
vệ và chăm sóc trẻ em, như trẻ em bị lạm dụng, bạo lực, trẻ em bị tai
nạn thương tích, trẻ em bị ảnh hưởng từ các vụ ly hôn, con nuôi, trẻ em
di cư, bị buôn bán, trẻ em sống trong các hộ nghèo... Thiếu các số liệu
đáng tin cậy liên quan đến trẻ em cần được bảo vệ đặc biệt. Thiếu các
quy trình tư pháp thân thiện với trẻ em. Vấn đề truyền thông giáo dục,
việc phổ biến kỹ năng bảo vệ và chăm sóc trẻ em còn thiếu chiều sâu, đặc
biệt là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa. Hệ thống dịch vụ bảo vệ, chăm
sóc trẻ em chưa đủ để đáp ứng các nhu cầu trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt. Công tác truyền thông, giáo dục pháp luật về bảo vệ, chăm sóc
trẻ em chưa sâu rộng, chưa thường xuyên liên tục và hiệu quả tác động
thay đổi hành vi về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em còn hạn chế; phương
pháp tiếp cận dựa trên quyền trẻ em chưa được thực hiện rộng rãi, sự
tham gia của trẻ em chưa thực sự được phát huy.Ý thức chấp hành pháp
luật về bảo vệ, chăm sóc trẻ em của một bộ phận cán bộ, cha mẹ, giáo
viên và công dân chưa tốt; kiến thức, kỹ năng bảo vệ, chăm sóc trẻ em
của nhiều gia đình và kỹ năng tự bảo vệ của trẻ em chưa đầy đủ và cập
nhật. Nguồn lực đầu tư còn hạn chế và phân tán.
Thứ nhất,
Nhà nước ta đã tích cực xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam nhằm đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, kịp thời điều chỉnh
mọi quan hệ xã hội phát sinh,trong đó có pháp luật về bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em, đồng thời từng bước làm hài hoà với pháp luật quốc
tế, phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế. Đó là cơ sở pháp lý
vững chắc cho việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, tạo cơ hội cho
trẻ em phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ, tinh thần, xứng đáng
là chủ nhân tương lai của đất nước.
Thứ hai, sửa đổi, bổ
sung những văn bản pháp luật quy định về quyền trẻ em để phù hợp với
những thay đổi đang diễn ra hàng ngày đối với trẻ em. Từ đó tránh được
việc áp dụng những văn bản hết hiệu lực, không còn phù hợp với thực
tiễn.
Thứ ba, Để cha mẹ thực hiện tốt chức năng chăm sóc,
nuôi dưỡng trẻ em thì công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em phải
đẩy mạnh tuyên truyền, vận động để cung cấp kiến thức, kỹ năng trong
việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ em và làm thay đổi hành vi của cha mẹ, đặc
biệt đối với thanh niên trước khi xây dựng gia đình theo quan niệm
"Nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em của cha mẹ còn cao hơn quyền sinh
ra chúng".
Tuyên truyền giáo dục pháp luật và các chính sách đối
với các bậc cha mẹ để họ hiểu rõ hơn về quyền, nghĩa vụ của mình trong
việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục con cái. Tổ chức các cuộc hội tiếp xúc
có sự tham gia của cha mẹ và các con để trẻ em bày tỏ các tâm tư nguyện
vọng của mình giúp cha mẹ hiểu rõ hơn về con cái. Giúp cho việc chăm
sóc con cái được dễ dàng, đáp ứng được những nguyện vọng của trẻ, giúp
trẻ nhận biết được bổn phận của mình và những việc trẻ em không được làm
để từ đó tránh xa những tệ nạn xã hội, những vi phạm pháp luật.
Thứ tư,
Bản thân mỗi thành viên trong gia đình cần ý thức sâu sắc nghĩa vụ,
trách nhiệm của mình để từ đó có những giải pháp, việc làm cụ thể cho
công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục con cái. Bên cạnh đó, việc tăng
cường các hoạt động văn hóa, vui chơi, giải trí và giáo dục thể chất,
tinh thần cũng có hiệu quả tốt tới trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em phát
triển nhân cách, nhận thức để phát triển thành con người toàn diện.
Việc gia đình giúp trẻ nhận thức được những việc trẻ em không được làm
sẽ định hướng giáo dục cho trẻ em có một lối sống tốt đẹp, sống có trách
nhiệm và tránh xa những thói hư, tật xấu để các em có thể trở thành
những con người có ích cho xã hội, mang trong mình những phẩm chất đạo
đức tốt đẹp khi trưởng thành.
KẾT LUẬN
Trẻ
em là người chưa phát triển toàn diện về thể lực và trí tuệ, chưa có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự. do đó để trẻ em làm chủ các quyền phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lí của mình thì các quyền và bổn phận của trẻ
em không chỉ được quy định trong Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em mà còn được phổ biến đến mọi thành viên trong gia đình để họ có thể
nhận thức được trách nhiệm của mình đối với việc bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục con cái.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách
- Ủy ban dân số, gia đình và trẻ em, Nội dung chủ yếu của pháp luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006.
Văn bản quy phạm pháp luật
- Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
- Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
- Bộ luật dân sự năm 2005.
- Bộ luật hình sự năm 1999.
- Nghị định của Chính phủ số 71/2011/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2011 hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004.
No comments:
Post a Comment