05/09/2014
Các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm và việc hoàn thiện các quy định này
Bài tập học kỳ Luật Tố tụng Hình sự có đáp án.

LỜI MỞ ĐẦU
       
Thẩm quyền của Tòa án được hiểu là quyền xem xét và giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Do đó, việc xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng, là một trong những quy định trung tâm trong thẩm quyền xét xử của Tòa án. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, pháp luật đã có những quy định khá chặt chẽ về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án. Tuy nhiên, trải qua một thời gian dài thực thi, các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án đã bộc lộ một số điểm hạn chế nhất định. Trong khuôn khổ bài tập học kì, em xin được làm rõ đề tài số 9: “Các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm và việc hoàn thiện các quy định này”. 

NỘI DUNG

I. Khái quát chung:

1. Khái niệm: 

Xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự. Xác định thẩm quyền xét xử sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng đối với việc bảo đảm tính đúng đắn, khách quan trong hoạt động xét xử của Tòa án. Điều này cũng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người có liên quan. Việc quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm tạo cơ sở pháp lý cho việc xác định thẩm quyền xét xử của Tòa án trong các giai đoạn tiếp theo. Trong luật tố tụng hình sự, thẩm quyền xét xử của Tòa án theo nghĩa rộng bao gồm quyền xem xét và quyền giải quyết vụ án, ra bản án hoặc các quyết định khác như quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án….Theo đó thẩm quyền của Tòa án bao gồm hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau là thẩm quyền về hình thức và thẩm quyền về nội dung. 

- Thẩm quyền về hình thức là quyền xem xét và phạm vi xem xét (giới hạn xét xử) của Tòa án.

- Thẩm quyền về nội dung là quyền hạn giải quyết, quyết định của Tòa án đối với những vấn đề được xem xét.

Như vậy, có thể hiểu thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án là thẩm quyền về hình thức (xem xét vụ án). Theo lý luận khoa học tố tụng hình sự thì: “thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là quyền mà pháp luật quy định cho phép Tòa án được xét xử sơ thẩm vụ án hình sự căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; đối tượng phạm tội; nơi thực hiện tội phạm hoặc nơi khác theo quy định của pháp luật.” 

2. Phân loại: 

Việc phân loại thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự không thống nhất ở các hệ thống pháp luật khác nhau. Do nhiều nguyên nhân trong đó: Sự khác biệt trong cách phân định thẩm quyền xét xử giữa các quốc gia bao gồm cách thức tổ chức của các cơ quan tư pháp, trình độ năng lực của các thẩm phán, điều kiện xét xử, văn hóa pháp lý, tư tưởng chính trị. Hay kết quả của sự kết hợp hài hòa các lợi ích, chuẩn mực chung sao cho phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự; đường lối, chính sách của Đảng; tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân,…là một trong những nguyên nhân cơ bản nhất.

Việc quy định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự luôn phải dựa trên rất nhiều căn cứ khác nhau nhưng các căn cứ sau đây khá phổ biến và có ý nghĩa quan trọng: 

- Thứ nhất: là dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tính chất nghiêm trọng, phức tạp của vụ án hình sự. Đây là căn cứ để phân định thẩm quyền xét xử theo sự việc.

- Thứ hai: là dựa trên yếu tố không gian thực hiện tội phạm hoặc hành vi tố tụng. Theo căn cứ này để phân định thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ.

- Thứ ba: là dựa trên các đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Xuất phát từ căn cứ này để phân định thẩm quyền xét xử theo đối tượng.

II. Thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo quy định của pháp luật Việt Nam:

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy định cụ thể tại các điều từ Điều 170 đến Điều 175 thuộc Chương XVI Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS 2003) và các văn bản pháp luật có liên quan.

1. Thẩm quyền xét xử theo sự việc: 

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa các cấp tòa án, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm. Do TANDTC không có thẩm quyền xét xử sơ thẩm nên thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo sự việc là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa hai cấp tòa án còn lại.

a) Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực:

- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 170 BLTTHS năm 2003 thì những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử sở thẩm của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực là xét xử những vụ án hình sự về các tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng. Trong trường hợp điều luật quy định về tội phạm cụ thể có nhiều điều khoản thì TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực xét xử theo khoản thuộc thẩm quyền của mình. TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực có thẩm quyền xét xử cùng một lần một người phạm nhiều tội, nếu các tội đó đều thuộc thẩm quyền xét xử của các tòa án này. Trong trường hợp một người đang chấp hành hình phạt mà lại bị truy tố về tội phạm thuộc thẩm quyền TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực thì các tòa án này cũng có thẩm quyền xét xử, trừ trường hợp người bị kết án đã bị tuyên hình phạt tử hình hoặc tù chung thân mà chưa được giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

- Những vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực.

Những vụ án bị loại trừ khỏi thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực gồm những vụ án theo quy định của pháp luật hoặc do cơ quan tiến hành tố tụng quyết định.

+ Những vụ án hình sự không thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực theo quy định tại Điểm a, b, c khoản 1 điều 170 BLTTHS. Đó là những vụ án về các tội: xâm phạm an ninh quốc gia; phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh, tội giết người; giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; vi phạm các quy định về thăm dò, nghiên cứu, khai thác tài nguyên; vi phạm các quy định về điều khiển tàu bay; cản trở giao thông đường không; đưa vào sử dụng phương tiện giao thông đường không không đảm bảo an toàn; điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường không; chiếm đoạt tàu bay, tàu thủy; điều khiển tàu bay vi phạm các quy định về hàng không của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; điều khiển phương tiện hàng hải vi phạm các quy định về hàng hải của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tạo ra, lan truyền, phát tán các chương trình vi –rút tin học; vi phạm các quy định về vận hành, khai thác và sử dụng mạng máy tính điện tử; sử dụng trái phép thông tin trên mạng và trong máy tính; cố ý làm lộ bí mật nhà nước; chiếm đoạt, mua bán, tiêu hủy tài liệu bí mật nhà nước; truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội; không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội; ra bản án trái pháp luật; ra quyết định trái pháp luật; đầu hàng địch; khai báo hoặc tự nguyện làm việc cho địch khi bị bắt làm tù binh.

Những tội phạm này dù là tội phạm ít nghiêm trọng cũng không thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực. Chúng được giải quyết theo phương án sau:

- Những vụ án được lấy lên để xét xử ở cấp trên theo quy định tại Khoản 2 Điều 170 BLTTHS: “Việc đưa vụ án lên xét xử ở cấp trên căn cứ vào khả năng giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng ở cấp dưới. Đó thường là những vụ án phức tạp, khó chứng minh hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; những vụ án mà bị cáo là thẩm phán, kiểm sát viên, sĩ quan công an, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người nước ngoài, người có chức sắc trong tôn giáo, người có uy tín cao trong dân tộc ít người” .

- Vụ án được xét xử toàn bộ ở cấp trên theo quy định tại Điều 173 BLTTHS: “Đây là các trường hợp bị cáo phạm nhiều tội thược thẩm quyền xét xử của các tòa án khác cấp. Nghĩa là bị cáo phạm hai tội trở lên, trong đó có tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp huyện và tòa án quân sự khu vực và tội phạm khác thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh hoặc tòa án quân sự cấp quân khu. Trong trường hợp này tòa án cấp trên xét xử toàn bộ vụ án.”

b) Thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh và tòa án quân sự cấp quân khu:

Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Trong đó, thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự được quy định tại Khoản 2 Điều 170 BLTTHS 2003: “Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử.”. Quy định này được hiểu rằng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu bao gồm hai trường hợp sau đây:

- Trường hợp 1: Những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân cấp huyện và tòa án quân sự cấp khu vực (các trường hợp tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 170 BLTTHS 2003).

- Trường hợp 2: Những vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử.

Đối với trường hợp thứ hai, Bộ luật Tố tụng hình sự không quy định cụ thể những vụ án nào thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện nhưng Tòa án cấp tỉnh sẽ lấy lên để xét xử. Điều này còn phụ thuộc vào sự đánh giá năng lực thực tế của các cơ quan tiến hành tố tụng ở cấp huyện đối với từng vụ án. Thông thường đó sẽ là những vụ án phức tạp, có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều nghành; những vụ án mà bị cáo là thẩm phán, kiểm sát viên, sĩ quan công an, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người, hay có chứng cứ cho rằng không đạt được yêu cầu sự khách quan trong quá trình xét xử,…

2. Thẩm quyền xét xử theo đối tượng:

Thẩm quyền xét xử sơ thẩm theo đối tượng là sự phân định thẩm quyền xét xử giữa TAND và tòa án quân sự căn cứ vào đối tượng phạm tội theo quy định tại Điều 3 Pháp lệnh tổ chức Tòa án quân sự năm 2002.

a) Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm của tòa án quân sự: 

Tòa án quân sự xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự mà người phạm tội thuộc hai nhóm đối tượng:

- Người phạm tội là quân nhân và những người có nghề nghiệp hoặc nhiệm vụ quân sự bao gồm: quân nhân tại ngũ; công chức quốc phòng, công nhân quốc phòng; quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, diễn tập hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng động viên, tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian phối hợp với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; những người được trưng tập làm nhiệm vụ quân sư do các đơn vị quân đội trực tiếp quản lý. Những người này bị tòa án quân sự xét xử không phụ thuộc vào việc họ phạm tội gì và phạm tội ở đâu.

- Người phạm tội không phải là các đối tượng nêu trên. Những đối tượng này chỉ thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Liên quan đến bí mật quân sự: Bí mật của quân sự là bí mật của quân đội, bí mật về an ninh quốc phòng được xác định là bí mật quân sự và được ghi nhận trong các văn bản do Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.

+ Gây thiệt hại cho quân đội: Gây thiệt hại cho quân đội là gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của quân nhân hoặc những người có nghề nghiệp, nhiệm vụ quân sự; gây thiệt hại đến tài sản của quân nhân hoặc những người có nghề nghiệp, nhiệm vụ quân sự được quân đội cấp phát để thực hiện nhiệm vụ quân sự; gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của quân đội; người đang bị tạm giam, tạm giữ và chấp hành hình phạt tù trong nhà tạm giam, trại tạm giam do quân đội quản lý mà tiếp tục phạm tội.

+ Cùng một vụ án vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự, vừa có người phạm tội hoặc tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TAND. Trong trường hợp này Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án (trừ trường hợp tách vụ án).

b) Đối tượng thuộc thẩm quyền xét xử của TAND:

TAND xét xử những đối tượng không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự.TAND xét xử những người không còn hoạt động trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trong thời gian phục vụ cho quân đội; những người đang phục vụ trong quân đội mà phát hiện tội phạm của họ được thực hiện trước khi vào quân đội nếu tội phạm đó không liên quan đến bí mật quân sự hoặc không gây thiệt hại cho quân đội.

Như vậy, Tòa án nhân dân có thẩm quyền xét xử tất cả các vụ án hình sự trừ những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự đã được pháp luật quy định. Từ những quy định trên của pháp luật đã cho thấy khả năng xảy ra tranh chấp thẩm quyền xét xử sơ thẩm giữa Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự. Việc giải quyết loại tranh chấp này được quy định tại Khoản 3 Điều 175 BLTTHS 2003. Theo đó, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nêu trên.

3. Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ:

Thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền xét xử căn cứ vào nơi tội phạm được thực hiện hoặc nơi kết thúc việc điều tra. Bộ luật Hình sự có hiệu lực theo lãnh thổ (Điều 5,6 BLHS 1999) do đó cũng cần phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo lãnh thổ. Điều 171 BLTTHS 2003 là căn cứ pháp lý quy định về thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ:

“1. Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là Tòa án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra.

2. Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt Nam thì do Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước xét xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo thì tùy trường hợp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử.

Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương.”

- Trường hợp thứ nhất, vụ án hình sự xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam: Lúc này thẩm quyền xét xử sơ thẩm sẽ thuộc về Tòa án nơi tội phạm được thực hiện. Tuy nhiên trong thực tế có nhiều vụ án phức tạp, tội phạm xảy ra tại nhiều nơi khác nhau hoặc không thể xác định được nơi thực hiện tội phạm thì thẩm quyền xét xử sẽ thuộc về Tòa án nơi kết thúc việc điều tra. Quy định ở Khoản 1 Điều 171 BLTTHS là khá hợp lý, bao quát được phần lớn các trường hợp xảy ra trong thực tế và góp phần hạn chế tình trạng tranh chấp thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án.

- Trường hợp thứ hai, vụ án hình sự xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam: Vụ án đó nếu xét xử ở Việt Nam thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước có thẩm quyền xét xử. Nhưng cũng có một thực tế là có thể bị cáo không có nơi cư trú ổn định hoặc cơ quan tiến hành tố tụng không thể xác định được nơi cư trú cuối cùng của bị cáo. Khi đó thẩm quyền xét xử vụ án sẽ theo quyết định của Chánh án tòa án nhân dân tối cao giao cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử. Thêm vào đó, nếu vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự thì do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử theo quyết định của Chánh án tòa án quân sự Trung ương. Như vậy, đối với những vụ án hình sự xảy ra ngoài lãnh thổ Việt Nam thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm chỉ thuộc về Tòa án nhân dân cấp tỉnh hoặc Tòa án quân sự cấp quân khu. Đối với những vụ án mà tội phạm được thực hiện tại nước ngoài thì việc điều tra, truy tố, xét xử sẽ gặp phải một số trở ngại mà có thể Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự cấp khu vực không đủ điều kiện thực hiện xét xử. Vì vậy quy định chỉ trao thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu đối với những vụ án như vậy là hoàn toàn hợp lý.

- Ngoài ra, một trường hợp đặc biệt khác mà việc phân định thẩm quyền xét xử có liên quan tới dấu hiệu lãnh thổ đó là trường hợp của những vụ án xảy ra trên tàu bay, tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải Việt Nam. Trong trường hợp này thẩm quyền xét xử được quy định tại Điều 172 BLTTHS năm 2003. Những vụ án này luôn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam. Tòa án nơi có sân bay, bến cảng mà tàu bay, tàu biển đó trở về đầu tiên trên lãnh thổ Việt Nam hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng kí có thẩm quyền xét xử.

Nhìn chung với các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự theo lãnh thổ trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã cụ thể, chặt chẽ và phù hợp với thực tiễn xét xử trong giai đoạn hiện nay. Các tranh chấp về thẩm quyền hoặc tình trạng các tòa án đùn đẩy việc cho nhau tuy vẫn còn xảy ra nhưng về cơ bản đã được khắc phục.

4. Tranh chấp thẩm quyền:

Do sự đa dạng của các tình huống trong thực tế nên mặc dù đã có quy định của pháp luật phân định thẩm quyền xét xử tương đối rõ ràng nhưng vẫn tồn tại hiện tượng tranh chấp thẩm quyền xét xử giữa Tòa án các cấp, giữa hai hệ thống Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự. Để tháo gỡ vấn đề này pháp luật tố tụng hình sự đã xây dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử quy định tại Điều 175 BLTTHS 2003:

“1. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử do Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp quyết định.

2. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau, do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi kết thúc việc điều tra quyết định.

3. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử giữa Toà án nhân dân và Tòa án quân sự do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao quyết định.”

- Khoản 1 Điều 175 BLTTHS xét xử trong phạm vi truy tố và quyết định đưa vụ án ra xét xử: Giải quyết tình trạng tranh chấp thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và tranh chấp thẩm quyền giữa các Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Theo đó, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định tranh chấp thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện trực thuộc tỉnh đó. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao sẽ quyết định tranh chấp thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tương tự, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giữa các Tòa án quân sự cấp khu vực. Chánh án Tòa án quân sự trung ương giải quyết tranh chấp thẩm quyền giữa các Tòa án quân sự cấp quân khu.

- Khoản 2 Điều 175 BLTTHS: Quy định cho trường hợp về tranh chấp thẩm quyền giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khác nhau. Lúc này, Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi kết thúc việc điều tra là người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nói trên.

Trong trường hợp có sự tranh chấp thẩm quyền giữa hai hệ thống Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc về Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Quy định của pháp luật đã bao quát được hết các loại tranh chấp về thẩm quyền xét xử xảy ra trong thực tế. Tương ứng với từng loại tranh chấp là một biện pháp giải quyết cụ thể. Tuy nhiên cần phải vận dụng linh hoạt các quy định của pháp luật đối với từng trường hợp để việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét xử đạt hiệu quả.

5. Chuyển vụ án:

Trong thực tế không chỉ xảy ra tình trạng tranh chấp thẩm quyền xét xử giữa các Tòa án mà còn có hiện tượng chuyển vụ án giữa các Tòa án khi nhận thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình. Pháp luật tố tụng hình sự cũng quy định cho các Tòa án quyền chuyển vụ án, cụ thể tại Điều 174 BLTTHS 2003 đã quy định: “ Khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử. Việc chuyển vụ án cho Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định.

Chỉ được chuyển vụ án cho Tòa án khác khi vụ án chưa được xét xử. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án Tòa án quyết định. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự hoặc Tòa án cấp trên thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Hội đồng xét xử quyết định.

Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định chuyển vụ án, Tòa án phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp, báo cho bị cáo và những người có liên quan trong vụ án.”

a) Chuyển vụ án trước khi mở phiên tòa:

Nếu Tòa án xét thấy một vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình căn cứ theo dấu hiệu lãnh thổ thì có thể chuyển vụ án cho Tòa án khác có thẩm quyền xét xử vụ án đó trước khi vụ án được xét xử. Việc chuyển vụ án cho Tòa án trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc trong phạm vi quân khu do Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự cấp khu vực quyết định. Việc chuyển vụ án cho Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định. Chánh án Tòa án ra quyết định về việc chuyển vụ án.

b) Chuyển vụ án tại phiên tòa:

Tại phiên tòa việc quyết định chuyển vụ án do Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án quân sự hoặc tòa án cấp trên. Do đó TAND vẫn tiếp tục xét xử trong trường hợp thuộc thẩm quyền xét xử của TAND khác cùng cấp và tương tự, tòa án quân sự vẫn tiếp tục xét xử trong trường hợp vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự khác cùng cấp. Như vậy trong giai đoạn này pháp luật cho phép có sự vi phạm thẩm quyền xét xử theo lãnh thổ, nhưng không cho phép tòa án cấp dưới vi phạm  thẩm quyền xét xử của tòa án cấp trên và không cho phép TAND vi phạm thẩm quyền xét xử của tòa án quân sự. Như vậy việc thực hiện đúng thẩm quyền xét xử theo đối tượng và thẩm quyền xét xử theo sự việc là rất quan trọng và luôn phải được đảm bảo..

III. Thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự - Một số kiến nghị và giải pháp:

1. Thực tiễn thực hiện thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Tòa án các cấp:

a) Kết quả đạt được:

So với Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự 2003 đã quy định theo hướng mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Tòa án nhân dân cấp huyện từ chỗ chỉ xét xử sơ thẩm những vụ án có mức cao nhất của khung hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự đến 7 năm lên mức cao nhất của khung hình phạt đến 15 năm tù. Việc tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm của Toà án cấp huyện là một bước thay đổi lớn có ý nghĩa đột phá trong tiến trình cải cách tư pháp. Có lẽ bức xúc về thực trạng dồn án, đọng án ở các Toà án cấp tỉnh và Toà án nhân dân tối cao đã dẫn đến những đòi hỏi cần thiết phải tăng thẩm quyền cho Toà án cấp huyện và hình thành ý tưởng thiết lập hệ thống toà án theo mô hình sơ thẩm – phúc thẩm – giám đốc thẩm tương ứng với Toà án cấp huyện – Toà án cấp tỉnh – Toà án nhân dân tối cao. Để đáp ứng việc thực hiện thẩm quyền xét xử theo quy định mới, các Tòa án nhân dân cấp huyện đã đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ thẩm phán. Về nghiệp vụ xét xử, kinh nghiệm, chuyên môn của các thẩm phán đã được cải thiện đáng kể và đồng đều hơn ở các địa phương trong cả nước. Hiện nay hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các Tòa án nhân dân huyện sau khi được tăng thẩm quyền đã có nhiều cố gắng trong việc đảm bảo đưa các vụ án ra xét xử đúng thời hạn theo quy định của pháp luật. Tình trạng tồn đọng án cơ bản được giải quyết, đảm bảo hoạt động tố tụng hình sự diễn ra thông suốt, đạt hiệu quả. Đến nay trình độ, năng lực xét xử ở các Tòa án cấp huyện đã được nâng cao nên tỉ lệ bản án, quyết định giải quyết các vụ án hình sự bị sửa, hủy giảm hơn nhiều so với trước đây.

Về trình độ của cán bộ Tòa án nhân dân cấp huyện đã được nâng lên cả về chất lượng và số lượng. Cùng với việc mở rộng số lượng biên chế trong các Tòa án nhân dân cấp huyện là việc chú trọng nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ đang làm việc cũng như chú trọng công tác đào tạo thế hệ cán bộ kế tục có trình độ, chuyên môn.

Về cơ sở vật chất, các Tòa án nhân dân cấp huyện đã nhận được sự đầu tư thích đáng, dần dần đáp ứng yêu cầu về trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho Tòa án nhân dân cấp huyện với mục tiêu phục vụ tốt nhất cho hoạt động xét xử.

Những sự thay đổi tích cực trên đây mang lại nhiều hi vọng đối với việc tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp huyện sẽ đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng và chống tội phạm trong giai đoạn mới, đảm bảo quyền dân chủ của công dân trong tố tụng hình sự, tạo điều kiện cho các Toà án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác có khả năng nâng cao hiệu quả hoạt động.

b) Bất cập, vướng mắc:

Ngoài những kết quả đã đạt được kể trên thì không thể phủ nhận những vấn đề còn chưa được giải quyết. 

Thứ nhất, việc tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện đòi hỏi một số lượng lớn thẩm phán cho cấp toà này, không chỉ số lượng thẩm phán đang tại nhiệm mà còn đòi hỏi đội ngũ kế cận luôn ổn định. Một thực tế là ở một số Toà án nhân dân cấp huyện có tình trạng thiếu thẩm phán, chưa tìm được người đủ tiêu chuẩn để bổ sung cho một vài năm tới. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp cấp huyện nhiều nơi còn thiếu thốn và lạc hậu. Tất nhiên những cản trở trên có thể được giải quyết trong khoảng thời gian nhất định nhưng cần được giải quyết nhanh chóng.

Thứ hai, việc tăng thẩm quyền xét xử cũng dẫn đến việc Tòa án cấp huyện và cấp khu vực sẽ xét xử những vụ án lớn, phức tạp trong khi trình độ của đội ngũ cán bộ thẩm phán cấp huyện hiện nay có nhiều bất cập, chênh lệch giữa khả năng trình độ và nhiệm vụ được giao. Tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện đòi hỏi sự đồng bộ với các cơ quan tư pháp khác nhưng thực tế khía cạnh này cũng chưa được quan tâm đáp ứng đầy đủ.

Thứ ba, hiệu quả vận hành của hệ thống tố tụng và hiệu quả kinh tế nói chung cũng đặt ra yêu cầu cần cân nhắc. Sự phân bố không đồng đều các cấp toà do đặc điểm gắn với hệ thống hành chính dẫn đến tình trạng là án của một tỉnh nhỏ chưa bằng số án phải giải quyết của một quận ở nội thành Hà Nội hay thành phố Hồ Chí Minh. Trong khi rất nhiều thẩm phán ở Toà án huyện, tỉnh không có việc hay đủ việc để làm thì ở nơi khác số án quá nhiều gây tình trạng tồn đọng… và đi theo đó là những vi phạm trong tố tụng. Tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện dẫn đến phải đầu tư cơ sở vật chất, tăng cường đội ngũ cán bộ nhưng quy mô của một toà án cấp huyện không thể xây dựng như một toà án cấp tỉnh. Tình trạng tương tự như vậy cũng diễn ra ở cơ quan tư pháp cấp huyện khác như viện kiểm sát, cơ quan điều tra. Xét đến hiệu quả vận hành của hệ thống tố tụng trong tổng thể và hiệu quả kinh tế có thể thấy rõ có những điểm chưa hợp lý.

Thứ tư, việc tăng thẩm quyền cho toà án cấp huyện không giải quyết triệt để được tình trạng dồn án, đọng án ở toà án các cấp. Thậm chi nếu không giải quyết tốt những vấn đề liên quan như cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ sẽ tạo ra sức ép về số lượng án phải giải quyết cùng với hàng loạt các vấn đề phát sinh ở toà án cấp huyện, nhất là ở những địa bàn trọng điểm ở thành phố lớn. Điều này có thể khiến chất lượng xét xử sở thẩm ở cấp tòa này không được đảm bảo. Khi đó sẽ dẫn đến hiện tượng tiêu cực là Toà án cấp tỉnh tuy giảm được một số lượng án xử sơ thẩm nhưng lại phải xử nhiều án phúc thẩm hơn. Toà án tối cao có thể giảm số án xét xử phúc thẩm nhưng thực tế đây không phải là vấn đề tồn tại chính của Toà án tối cao mà ở số đơn kiến nghị các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm. Hơn nữa nếu tỉ lệ án phải xử phúc thẩm quá lớn và số lượng lớn đơn kiến nghị xem xét lại các bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm đặt ra những câu hỏi, suy nghĩ về chất lượng xét xử và thủ tục phúc thẩm, cơ chế giám đốc thẩm, tái thẩm cũng như hiệu quả của hoạt động điều tra, truy tố xét xử hiện nay.

2. Một số kiến nghị và giải pháp hoàn thiện các quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.

a) Đối với hệ thống pháp luật: 

Theo sự phân tích tình hình thực tế, ý tưởng tăng thẩm quyền xét xử cho Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự cấp khu vực tỏ ra phù hợp với thực tế khách quan nhưng còn tồn tại những bất cập trong hệ thống tư pháp hình sự ở nước ta khiến hiệu quả thực tế không được như mong đợi. Nếu so sánh với các hệ thống pháp luật tiến bộ trên thế giới có thể thấy tất cả các toà án ở cấp thấp nhất trong các hệ thống tố tụng của các quốc gia phát triển đều không có thẩm quyền xử những vụ án lớn, phức tạp mà chỉ xử những vụ án vi cảnh, đơn giản, nhỏ mà hình phạt tù áp dụng thường không quá 5 năm. 

Việc tăng thẩm quyền cấp huyện và biến toà án cấp huyện trở thành những pháo đài trong tố tụng hình sự để hình thành mô hình xét xử sơ thẩm – phúc thẩm – giám đốc thẩm trong hệ thống tư pháp sẽ dẫn đến một loạt các vấn đề khó có thể dự đoán hết. Theo đó không nên xây dựng Tòa án cấp huyện và cấp khu vực thành trung tâm xét xử sơ thẩm số lượng lớn các vụ án hình sự (theo tính toán là chiếm khoảng 80% số lượng vụ án). Điều này kết hợp với việc phân cấp hệ thống cơ quan tư pháp gắn với hệ thống cơ quan hành pháp như hiện nay càng làm vấn đề trở nên trầm trọng. Việc dàn trải đội ngũ cán bộ thẩm phán ở tất cả các Tòa án cấp thấp sẽ không đảm bảo năng lực chuyên môn đồng bộ giữa các Tòa án của các địa phương. Những Tòa án cấp huyện của những tỉnh, thành phố lớn trực thuộc trung ương vẫn không thoát khỏi tình trạng quá tải vì án sơ thẩm. Như vậy cần cơ cấu lại hệ thống cơ quan tư pháp cho phù hợp với đặc điểm của hoạt động tư pháp. Sau đó tập trung thẩm quyền xét xử tại một cấp tòa án nhất định (không phải cấp tòa án thấp nhất). 

Hoàn thiện quy định về chuyển vụ án: để tránh trường hợp sau khi thụ lý thấy không thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án mình nhưng ngại không chuyển cho Tòa án có thẩm quyền. Do vậy cần sửa Điều 174 BLTTHS theo hướng quy định sau khi thụ lý nếu xét thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền xét xử. 

Thêm vào đó, sự phân định thẩm quyền xét xử theo đối tượng còn chưa chú ý đến đối tượng phạm tội là người chưa thành niên. Ở một số quốc gia trên thế giới có tòa án riêng xét xử những trường hợp người chưa thành niên phạm tội xuất phát từ những yếu tố đặc biệt của vụ án hình sự có bị cáo là người chưa thành niên. Đây là một điểm chúng ta nên tham khảo trong tương lai.

b) Đối với công tác bồi dưỡng đội ngũ thẩm phán:

Đây là công tác cần chú ý đặc biệt. Dù hệ thống cơ quan tư pháp được tổ chức theo cách nào thì cũng luôn đòi hỏi những thẩm phán có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm xét xử. Việc củng cố, xây dựng đội ngũ thẩm phán không phải là công việc một sớm một chiều mà cần sự đầu tư kỹ lưỡng trong thời gian dài. Tầm quan trọng của việc đào tạo các chức danh tư pháp nên được nhìn nhận đúng đắn.

KẾT LUẬN

Như vậy, Thẩm quyền xét xử sơ thẩm của TAND các cấp là một chế định quan trọng trong tố tụng hình sự. Việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng về khía cạnh chính trị xã hội cũng như có ý nghĩa về mặt pháp lý. Ngoài những kết quả tích cực đã đạt được vẫn còn tồn tại những điểm chưa thật hợp lý. Việc hoàn thiện những quy định của pháp luật về thẩm quyền xét xử nên được cân nhắc trong thời gian tới.

Trên đây là phần trình bày nội dung về đề tài: “Các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về thẩm quyền xét xử sơ thẩm và việc hoàn thiện các quy định này”. Trong bài làm còn nhiều thiếu sót do kiến thức còn hạn chế và kĩ năng lập luận chưa vững vàng, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài làm của em được hoàn thiện hơn. 

Em xin chân thành cảm ơn!

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tố tụng Hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà nội, 2006.
2. Bộ luật tố tụng hình sự 2003.
3. Pháp lệnh về tổ chức Điều tra hình sự năm 2004.
4. Pháp lệnh tổ chức tòa án quân sự năm 2002.
5. Thông tư số 02/ TTLN ngày 12/01/1989 của TANDTC – VKSNDTC – Bộ tư pháp – Bộ nội vụ hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
6. PGS.TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2006. 
7. Mai Thanh Hiếu, Nguyễn Chí Công, Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án hình sự, Nhà xuất bản Lao động - xã hội, Hà Nội, 2006.

8. Trần Thị Lê Na, Hoàn thiện quy định về thẩm quyền xét xử sơ thẩm hình sự của tòa án các cấp, Hà nội, 2009.

No comments:

Post a Comment