10/09/2014
Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật - ĐH Luật Hà Nội năm 2013 - Chương V - Nhà nước và cá nhân
CHƯƠNG V

NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN


I. CÁ NHÂN


Con người là sản phẩm của việc tái tạo giống nòi của loài người, có lí trí có tiếng nói. Mỗi người là một cá thể có khả năng tư duy, khả năng tạo ra và sử dụng được các công cụ lao động nhằm phụ vụ những mục đích của bản thân và cộng đồng. Trong mỗi con người vừa chứa đựng những đặc tính chung của loài người (có hình dáng và cấu tạo của một con người), của giống (giới tính) vừa có những cái riêng của mỗi con người như cấu tạo cơ thể, những đặc tính cá nhân về tính cách, sự quan tâm, ham muốn, sự thông minh, năng khiếu… Bao quanh con người là môi trường tự nhiên và xã hội với rất nhiều mối quan hệ phức tạp, do vậy, con người luôn chịu sự ảnh hưởng của môi trường và ngược lại, con người cũng có ảnh hưởng, tác động trở lại tới môi trường xung quanh, thậm chí họ có thể thay đổi được cả môi trường. Vì thế, có thể nói rằng lịch sử nhân loại “không có gì khác hơn là sự thay đổi liên tục môi trường sống của con người”. Như vậy, có thể nói con người là sự thống nhất của cái sinh học và cái xã hội trong quá trình vận động, biến đổi không ngừng của hoạt động thực tiễn.



Cá nhân là con người xã hội với những tính cách, phẩm chất xã hội nhất định, được hình thành trong quá trình tác động qua lại giữa con người với xã hội. Do nhu cầu tồn tại và phát triển con người luôn phải liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành các nhóm, cộng đồng xã hội. Xã hội là khái niệm phức tạp, ở nghĩa chung hất thì xã hội là hình thức sinh hoạt chung có tổ chức của loài người ở trình độ phát triển nhất định của lịch sử, được xây dựng trên cơ sở của phương thức sản xuất nhất định. Nói cách khác, xã hội là cộng đồng người có quan hệ sinh hoạt chung, liên hệ với nhau bằng phương thức sản xuất ở một trình độ phát triển của lịch sử, do những quan hệ sản xuất quy định. Xã hội và cá nhân luôn tồn tại trong sự thống nhất và là những hiện tượng có tính chất điều kiện của nhau, nếu không có cá nhân thì không có xã hội, ngược lại nếu không có xã hội thì cũng không có cá nhân với đúng bản chất. Mỗi cá nhân luôn gắn bó chặt chẽ với những cộng đồng, xã hội nhất định, có thể nói cộng đồng xã hội là môi trường tồn tại, phát triển của mỗi cá nhân. Cá nhân được cộng đồng, xã hội bảo vệ, tạo điều kiện để phát triển, họ có các quyền, họ có nghĩa vụ và trách nhiệm nhất định đối với cộng đồng,  xã hội vì lợi ích của cả cộng đồng, xã hội cũng như bản thân. Mức độ ảnh hưởng nhiều hay ít của con người tới môi trường xung quanh là phụ thuộc vào năng lực, sự nhận thức và những cố gắng của họ. Sự ảnh hưởng và tác động qua lại của con người với môi trường sống có thể là tích cực và cũng có thể là không tích cực tùy theo từng trường hợp và từng giai đoạn khác nhau.

Mỗi cá nhân là đơn nhất, không lặp lại, cá nhân có cuộc sống riêng song do phải gắn chặt chẽ với nhóm,cộng đồng, xã hội nên thường phải mang những đặc điểm nhất định của nhóm, cộng đồng, xã hội ấy. Xã hội luôn tác động mạnh mẽ lên cá nhân, hình thành những mẫu người gắn với tâng lớp xã hội và mỗi thời đại nhất định nên mỗi cá nhân thường mang những đặc điểm riêng của thành phần xã hội của mình. Có thể nói mỗi xã hội thường tạo ra những mẫu người nhất định với những tính cách, đặc trưng nhất định. Thông qua những đặc điểm ấy của cá nhân có thể biết được họ thuộc thành phần xã hội nào và sống ở thời đại, xã hội nào. Như vậy, nếu con người là sản phẩm của cả tự nhiên và xã hội thì cá nhân chỉ là sản phẩm của xã hội. Trong mỗi cá nhân vừa có những đặc tính của xã hội, của thời đại, vừa có những đặc tính của riêng mình, nói cách khác, cá nhân là tổng thể những đặc tính của xã hội riêng biệt, xác định của một con người trong mối quan hệ với những người khác. Vì thế C.Mác đã nhận định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”.

Mỗi cá nhân có các mối quan hệ xã hội khác nhau, có cách xử lí những mối quan hệ đó khác nhau, vì thế, mỗi cá nhân cũng có vị thế khác nhau trong cộng đồng, xã hội và do vậy, mỗi cá nhân có ảnh hưởng tới cộng đồng và chịu sự ảnh hưởng của cộng đồng đó sẽ khác nhau. Vai trò của mỗi cá nhân trong xã hội thể hiện mức độ tác động thực tế của cá nhân đó đối với những người khác trong và ngoài xã hội ấy. Vai trò đó được tạo ra một phần nhờ vào những danh, vị mà họ có được trong xã hội, một phần khác được tạo ra bằng khả năng và hiệu quả thực tế của họ mang lại. Vị trí, vai trò mà cá nhân có được trong xã hội được xã hội thừa nhận và tuân thủ. Mỗi xã hội có những cấu trúc thang bậc về địa vị của cá nhân khác nhau nên quyền hạn, lợi ích và trách nhiệm mà họ nhận được cũng khác nhau, tùy thuộc địa vị của họ trong xã hội. Nói cách khác, địa vị của mỗi cá nhân trong các cộng đồng khác nhau thì khác nhau, trong các xã hội khác nhau cũng khác nhau.

Khi xã hội chưa phát triển, nó được tổ chức dưới những hình thức như thị tộc, bộ lạc…, khi phát triển đến một giai đoạn nhất định xã hội buộc phải tổ chức dưới hình thức nhà nước. Nhà nước không chỉ là tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị mà còn là hình thức tổ chức đặc biệt của xã hội loài người. Nhà nước là tổ chức đại diện hợp pháp, chính thức cho toàn thể xã hội, có nhiệm vụ thay mặt xã hội để quản lí xã hội, giải quyết tất cả các vấn đề quan trọng nảy sinh trong xã hội. Nhà nước thực hiện quản lí hầu hết các lĩnh vực quan trọng của xã hội, quản lí tất cả các tổ chức và cá nhân trong xã hội, do vậy, nhà nước có sự tác động mạnh mẽ tới sự phát triển mọi mặt của xã hội (nếu tổ chức và quản lí tốt nhà nước có thể giữ cho xã hội ổn định tạo điều kiện và thúc đẩy xã hội phát triển nhanh, đúng hướng; nếu tổ chức và quản lí không tốt nhà nước có thể làm cho xã hội rối ren, mất ổn định, các hiện tượng tiêu cực và các tệ nạn xã hội xảy ra nhiều làm xã hội chậm phát triển). Như vậy, khi xuất hiện nhà nước thì quan hệ giữa xã hội với cá nhân được thể hiện tập trung và quan trọng hơn cả là mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân. Với sự phân định chủ quyền quốc gia, mỗi cá nhân sẽ thuộc quyền quản lí của nhà nước cụ thể nào đó, do vậy, khi xuất hiện nhà nước và pháp luật thì ngoài khái niệm cá nhân còn xuất hiện khái niệm công dân. Công dân là khái niệm để chỉ cá nhân trong mối quan hệ cơ bản, quan trọng và bền vững đối với một nhà nước nhất định. Khái niệm công dân luôn gắn liền với vấn đề quốc tịch, thể hiện mối quan hệ chính trị-pháp lí bền vững đối với một nhà nước nhất định. Khái niệm chính trị-pháp lí bền vững giữa cá nhân và nhà nước, xác định sự phụ thuộc của cá nhân vào nhà nước cụ thể. Giữa công dân và nhà nước luôn tồn tại một hệ thống các quyền và nghĩa vụ pháp lý qua lại, cá nhân là công dân của nhà nước nào đó thì chịu sự quản lí và có nghĩa vụ đối với nhà nước đó.


II. QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN.


Tính chất của mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và cá nhân luôn là một trong những biểu hiện quan trọng về tình trạng và mục đích phát triển của xã hội. Việc xác định đúng đắn mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không những về mặt lí luận mà còn liên quan đến các hoạt động thực tiễn của nhà nước từ việc xây dựng pháp luật đến việc tổ chức thực hiện và bảo vệ pháp luật liên quan trực tiếp đến lợi ích nhà nước, xã hội và mỗi cá nhân.


1. Quan hệ giữa nhà nước và cá nhân là mối quan hệ qua lại.


Trong đời sống xã hội, con người luôn ở trong rất nhiều những mối quan hệ xã hội khác nhau. Những quan hệ xã hội đó do chính con người tạo ra nhưng trong quá trình hoạt động của mình chúng lại có ảnh hưởng rất lớn đối với con người, chúng xác định vị trí, địa vị của con người trong xã hội. Giữ vai trò quan trọng trong những quan hệ xã hội đó là quan hệ qua lại giữa nhà nước và cá nhân, bởi chúng có liên quan tới các quyền, tự do dân chủ, nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi cá nhân. Mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân là mối quan hệ cơ bản, quan trọng, tương đối ổn định và bền vững, đó là mối quan hệ qua lại từ hai phía nhưng không ngang bằng nhau mà phụ thuộc vào ý chí nhà nước.

Trong quan hệ của nà nước với cá nhân, đặc biệt là công dân thì nhà nước là tổ chức công quyền thực hiện việc quản lí cá nhân bằng pháp luật, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân được thực hiện và không bị xâm hại. Nhà nước có quyền quy định các quyền và nghĩa vụ của cá nhân trong pháp luật , đòi hỏi cá nhân phải thực hiện chính xác và đầy đủ các quyền, nghĩa vụ đó, Nhà nước còn kiểm tra, giám sát các cá nhân trong việc sử dụng quyền và thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình, xử lí những cá nhân vi phạm pháp luật. Không chỉ có quyền, nhà nước còn có nghĩa vụ đối với các cá nhân, nhà nước phải tôn trọng và thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh, thống nhất các quy định pháp luật mà mình đã ban hành, bảo đảm cho các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cá nhân khi chúng bị xâm hại, ghi nhận ngày càng nhiều các quyền, tự do, lợi ích chính đáng của cá nhân, phù hợp với sự phát triển của xã hội.

Trong quan hệ với nhà nước, cá nhân – công dân vừa là chủ thể của quyền lực nhà nước, vừa là đối tượng tác động của quyền lực nhà nước. Công dân phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước như đóng thuế và lao động công ích, bảo vệ đất nước… Đồng thời công dân cũng có quyền yêu cầu, đòi hỏi nhà nước bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình.

Mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân luôn phản ảnh tình trạng phát triển của nền dân chủ xã hội, nó là hiện tượng chính trị - pháp lí gắn liền với xã hội có giai cấp, mang tính giai cấp nên cần được xem xét trong mối tương quan với chế độ nhà nước. Trong nhà nước quân chủ chuyên chế không tồn tại dân chủ nên mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân chủ yếu do người đứng đầu nhà nước quyết định. Trong các nhà nước cộng hòa, mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân được xác định bởi những nguyên tắc nhất định của nền dân chủ xã hội của xã hội đó.


2. Nhà nước với quy chế pháp lí của cá nhân.


Mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân thể hiện tập trung ở quy chế pháp lí của cá nhân. Quy chế pháp lí của cá nhân là sự ghi nhận bằng pháp luật địa vị của các cá nhân trong xã hội, nghĩa là địa vị pháp lí mà các cá nhân có được do nhà nước quy định trong pháp luật. Quy chế pháp lí của cá nhân là một bộ phận của pháp luật, trong đó gồm những quy phạm pháp luật quy định về các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lí của cá nhân, các bảo đảm cho việc thực hiện chúng… Quy chế pháp lí của cá nhân luôn thể hiện ý chí, thái độ của nhà nước với các cá nhân, do nhà nước xác lập và bảo đảm thực hiện. Quy chế pháp lí ghi nhận và củng cố địa vị thực tế của con người trong hệ thống các quan hệ xã hội. Nó xác định về mặt pháp lí phạm vi hoạt động của các cá nhân, hệ thống các quyền và nghĩa vụ pháp lí của họ, những biện pháp bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lí đó, trách nhiệm của cá nhân đối với cộng đồng, nhà nước và xã hội. Việc nhà nước ghi nhận bằng pháp luật địa vị của các cá nhân trong xã hội có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó góp phần củng cố địa vị thực tế của các cá nhân đồng thời nó buộc các cá nhân và tổ chức khác phải thừa nhận các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lí của các cá nhân và không được phép can thiệp hoặc xâm hại.

Nội dung và cấu tạo của quy chế pháp lí cá nhân thường bao gồm: các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lí của cá nhân; năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân; các bảo đảm quyền và nghĩa vụ pháp lí của cá nhân…

Quyền pháp lí của cá nhân là những khả năng có thể xử sự của cá nhân được nhà nước thừa nhận và quy định trong pháp luật. Giữ vai trò quan trọng trong quy chế pháp lí của cá nhân là các quyền và tự do thuộc các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Như một nguyên tắc, không xã hội nào lại thừa nhận cho cá nhân được làm tất cả những gì mà họ mong muốn, do vậy, quyền của cá nhân cần phải có giới hạn, bởi sống trong một xã hội mà lại thoát khỏi xã hội ấy để được tự do, đó là điều không thể được.

Nghĩa vụ pháp lí của cá nhân là những biện pháp cần phải xử sự của cá nhân do nhà nước quy định trong pháp luật. Đó chính là những đòi hỏi của nhà nước và xã hội đối với cá nhân nhằm thỏa mãn những quyền lợi chung của cộng đồng và những cá nhân khác.

Trách nhiệm pháp lí của cá nhân là trách nhiệm của cá nhân trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lí của mình do nhà nước quy định. Trong đó bao gồm: a. Phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nếu không thực hiện đúng những đòi hỏi của các quy định pháp luật (trách nhiệm tiêu cực); b. Có ý thức thực hiện một cách tự giác những chỉ dẫn, mệnh lệnh của pháp luật vì lợi ích của xã hội và những chủ thể khác, trong đó có việc sử dụng các quyền và tự giác thực hiện những nghĩa vụ pháp lí của mình (trách nhiệm tích cực).

Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của cá nhân được nhà nước thừa nhận cho cá nhân phụ thuộc vào sự phát triển thể lực và trí lực của họ. Sự khác nhau về năng lực pháp luật và năng lực hành vi của các cá nhân dẫn đến sự khác nhau về số lượng các quyền, nghĩa vụ pháp lí mà họ có thể có được từ quy chế pháp lí chung của cá nhân.

Nhà nước không chỉ tuyên bố các quyền và nghĩa vụ cho cá nhân mà còn đưa ra các biện pháp để bảo vệ và đảm bảo cho chúng được thực hiện trên thực tế. Tất cả các biện pháp, điều kiện và phương tiện bảo đảm cho cá nhân khả năng thực tế sử dụng và bảo vệ các quyền tự do của mình thì gọi là bảo đảm quyền, nghĩa vụ pháp lí của cá nhân. Chúng thường bao gồm các bảo đảm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và pháp lí. Tuy nhiên, không phải khi nào những khả năng pháp lí của cá nhân cũng được thực hiện hóa. Một số quyền, tự do pháp lí trong quy chế pháp lí của cá nhân có thể không có khả năng thực hiện trên thực tế. Điều này có thể là do các điều kiện thực tế khác quan không cho phép hoặc bản thân cá nhân không có điều kiện để thực hiện chúng, Trong những trường hợp đó, việc tuyên bố một số quyền, tự do pháp lí cho cá nhân đôi khi mang tính hình thức. Bản chất của chế độ chính trị - xã hội, mục đích, nhiệm vụ, những tư tưởng và nguyên lí cơ bản của chế độ chính trị - xã hội là những yếu tố quyết định giá trị, vị trí, vai trò thật sự của các cá nhân trong xã hội.

Liên quan chặt chẽ với địa vị pháp lí của cá nhân là vấn đề quốc tịch của cá nhân. Quốc tịch của cá nhân là sự thể hiện về mặt chính trị - pháp lí mối quan hệ qua lại có tính chất ổn định, bền vững giữa cá nhân với một nhà nước nào đó (về mặt thời gian mối quan hệ này chỉ chấm dứt khi nhà nước hoặc cá nhân cụ thể nào đó không còn hoặc vì lí do nào đó cá nhân không còn là công dân của nhà nước đó nữa; về không gian cũng không bị giới hạn, dù công dân ở bất kì đâu, ở trong nước hay nước ngoài thì quốc tịch của cá nhân vẫn không chấm dứt). Quốc tịch chính là sợi dây pháp lí bền vững nối giữa nhà nước với cá nhân cụ thể, nó xác định sự tồn tại giữa nhà nước và cá nhân các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm qua lại với nhau. Nhà nước có nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ tính mạng, tài sản, quyền, lợi ích của công dân, tạo điều kiện cho công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân, sinh sống và phát triển. Còn công dân là đối tượng chịu sự quản lí của nhà nước, phải thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh các nghĩa vụ pháp lí của mình đối với nhà nước.Ở những chừng mực nhất định công dân cũng có quyền yêu cầu nhà nước phục vụ lợi ích cho mình. Như vậy, có thể nói công dân chính là cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước cụ thể nào đó. Không phải người nào cũng là công dân mà chỉ những người có những tiêu chuẩn nhất định theo các quy định pháp luật của mỗi nhà nước cụ thể mới có thể trở thành công dân của nhà nước đó. Để xác định cá nhân là công dân của nhà nước nào đó người ta thường dựa vào hai nguyên tắc cơ bản là huyết thống và lãnh thổ. Như vậy, trong các quốc gia hiện đại cá nhân được dùng để chỉ công dân (những người mang quốc tịch của nhà nước, nơi mà họ đang sinh sống), người nước ngoài (người mang quốc tịch của các nhà nước khác), người không quốc tịch (những người không mang quốc tịch của nước nào cả).

Đối với những cá nhân không phải là công dân (người nước ngoài, người không quốc tịch) nhà nước thường quy định quy chế pháp lí đối với họ có những điểm khác biệt nhất định so với cá nhân công dân. Thông thường họ không được hưởng một số quyền và không phải thực hiện một số nghĩa vụ pháp lí nhất định. Đối với những cá nhân mang quốc tịch nước ngoài còn có thể có những thỏa thuận giữa các nhà nước với nhau về quy chế pháp lí của họ.

Quy chế pháp lí cá nhân luôn phản ánh trình độ phát triển của một xã hội, thông qua nội dung của nó có thể đánh giá được mức độ dân chủ, nhân đạo, tiến bộ và xu hướng phát triển của một xã hội cũng như mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và cá nhân.


3. Nhà nước với quyền con người, quyền công dân.


3.1. Nhà nước với quyền con người

Gắn liền với mỗi cá nhân là quyền con người – đó là những khả năng tự nhiên vốn có tối thiểu mà mỗi cá nhân sinh ra phải có, không do ai ban phát, trao tặng và không tổ chức hay cá nhân nào được phép xâm hại. Các quyền con người như quyền sống, quyền tự do cá nhân, quyền kết hôn, quyền mưu cầu hạnh phúc… đã được các cuộc cách mạng tư sản đề cao và lần đầu tiên được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và quyền công dân của Pháp năm 1791. Việc nhận thức và thực hiện các quyền con người là quá trình đấu tranh khó khăn, phức tạp giữa các quốc gia và các dân tộc. Cuộc đấu tranh không ngừng của nhân loại về quyền con người thời gian gần đây đã đạt được những thành tựu rất đáng kể trong việc tạo ra những điều kiện tối thiểu cho sự tồn tại và phát triển tự do của con người. Trong đó thành tựu đáng kể nhất trong lĩnh vực quyền con người là việc thừa nhân có tính chất quốc tế về các quyền, tự do tối thiểu của mỗi cá nhân con người ở bất kì quốc gia nào trong các văn kiện chính trị - pháp lí. Văn kiện đầu tiên phải kể đến là Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945, trong đó đã tuyên bố một trong những mục đích của tổ chức này là sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực nhân đạo nhằm mang lại sự tôn trọng đối với quyền, tự do cho tất cả mọi người không có sự phân biệt đối xử. Đây là văn kiện chính trị - pháp lí có tính chất nền tảng cho việc hợp tác sau này của các quốc gia, các dân tộc trong lĩnh vực bảo vệ quyền, tự do của con người. Văn kiện có tính chất quốc tế quan trọng nữa là Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc. Trên cơ sở sự phát triển của văn minh nhân loại, Tuyên ngôn đã xác định số lượng tối thiểu về các quyền, tự do mà mỗi cá nhân con người phải có trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Mặc dù Tuyên ngôn không phải văn kiện pháp lí có tính bắt buộc mà có tính chất khuyến cáo đối với các quốc gia, các dân tộc song nó đã có ý nghĩa thực tế vô cùng to lớn. Trên cơ sở của Tuyên ngôn, một loạt các văn kiện pháp lí quốc tế có tính chất bắt buộc về quyền con người đã được soạn thảo và thông qua. Điển hình là Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội của con người đã được thông qua vào năm 1966 và có hiệu lực vào năm 1976. Ngoài ra còn có rất nhiều văn kiện và các thỏa thuận quốc tế khác về quyền con người được soạn thảo và thông qua. Các văn kiện có tính chất quốc tế về quyền con người đã được nhiều quốc gia trên thế giới thừa nhận, tham gia và thực hiện bằng cách chuyển hóa chúng thành các quy định của pháp luật quóc nội và tạo ra những điều kiện cần thiết cho chúng được thực hiện trên thực tế. Chẳng hạn, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo quy định của pháp luật hiện hành thì các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và pháp luật.

Quyền con người có liên quan chặt chẽ với tự do cá nhân. Tự do cá nhân là khả năng tự lựa chọn cho mình các cách xử sự khác nhau của mỗi cá nhân trong lĩnh vực quan hệ tình cảm, lĩnh vực đời sống riêng tư của con người, nếu những cách xử sự đó không trái với các quy định của pháp luật và các thể chế khác trong xã hội. Tự do cá nhân liên quan đến đời sống riêng tư của mỗi người, nó được thể hiện ở chỗ: Đời sống riêng tư của mỗi người do họ tự quyết định mà không có sự kiểm tra hay lên kế hoạch từ phái nhà nước và các chủ thể khác; không có sự can thiệp hoặc quấy rầy, cản trở từ các tổ chức hay các cá nhân khác; tự do sáng tác, sáng tạo những giá trị tinh thần, phát triển những khả năng, những khuynh hướng và đặc tính của bản thân cá nhân trong lĩnh vực đời sống riêng tư… Tuy nhiên, tự do cá nhân cũng có những giới hạn nhất định, nó không được trái pháp luật, đạo đức, và các thể chế xã hội khác trong xã hội. Tự do cá nhân phải luôn trả lời cho câu hỏi: tự do cho ai, tự do để làm gì, tự do khỏi cái gì. Tự do không có nghĩa là muốn làm cái gì cũng được, như V.I. Lênin đã khẳng định: “Sống trong một xã hội mà lại thoát khỏi xã hội ấy để được tự do, đó là điều không thể được”.( ) Cá nhân được quyền tự do lựa chọn cho mình cách xử sự từ những cách có thể có trong những tình hướng nhất định, do vậy, họ có thể và cần phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình, và những hậu quả có thể có từ sự lựa chọn đó.

Trong xã hội có nhà nước và pháp luật thì tự do cá nhân cũng được nhà nước ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Liên quan đến vấn đề tự do cá nhân, nhà nước thường quy định cho cá nhân quyền bất khả xâm phạm đối với một số lĩnh vực như thân thể, chỗ ở, thư tín, điện thoại, điện tín… của cá nhân, quyền được nhà nước bảo vệ một số quyền và tự do cá nhân như tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản, sở hữu và đời sống riêng tư không bị quấy rầy, can thiệp một cách bất hợp pháp. Tự do cá nhân luôn không ngừng phát triển cũng với sự phát triển của xã hội.Tuy vậy, trong các chế độ xã hội khác nhau thì tự do cá nhân được quy định và bảo đảm thực hiện khác nhau.

Quyền con người và tự do cá nhân luôn liên quan mật thiết với lối sống của con người. Lối sống là những hoạt động sống thường lệ trên các lĩnh vực của đời sống, trong lao động, hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt văn hóa, tinh thần hàng ngày (riêng của một người, một nhóm, cộng đồng người….) được thực hành trong đời sống con người, thể hiện đặc trưng riêng của từng cá nhân, nhóm, cộng đồng người. Lối sống vừa có tính khách quan (phụ thuộc vào môi trường sống: các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, các chuẩn mực và giá trị xã hội…), vừa có tính chủ quan (phụ thuộc ý thức con người trong việc lựa chọn cho mình một một cách sống dựa trên cơ sở lẽ sống, thái độ sống cụ thể mà con người đặt ra: mỗi cá nhân có tính cách, lí tưởng sống khác nhau do họ tự lựa chọn hoặc học tập, chịu ảnh hưởng từ những người khác…). Lối sống luôn được bộc lộ qua hành vi của các chủ thể sống và được đo bằng các chuẩn giá trị xã hội, luôn có sự biến đổi và thích nghi với điều kiện sống và môi trường sống. Lối sống vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội và là một trong những biểu hiện của văn hóa xã hội. Nó thường có tính chất lặp đi, lặp lại một cách thường xuyên, có hệ thống trong những thời gian khá dài. 

 Trong xã hội có nhà nước và pháp luật thì lối sống theo pháp luật là quan trọng nhất. Đó là những hành vi thực tế thường ngày của con người trong xã lĩnh vực lao động, sản xuất, sinh hoạt, tiêu dùng các giá trị vật chất và tinh thần phù hợp với các quy định của pháp luật. Lối sống theo pháp luật được hình thành và phát triển trên cơ sở các chuẩn mực pháp luật, luôn gắn với quy chế pháp lí của cá nhân và được biểu hiện thông qua các hoạt động pháp luật của các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Thông qua hoạt động xây dựng pháp luật của các tổ chức và cá nhân trong xã hội, tạo ra những khuôn mẫu hoạt động sống cho họ khi gặp phải những tình huống phổ biến, điển hình trong cuộc sống. Thông qua pháp luật, nhà nước thông báo cho các tổ chức, cá nhân về tính hợp pháp hay không hợp pháp, về các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lí của họ trong các hoạt động xã hội, về các hình thức liên hệ tương hỗ trong gia đình, tập thể, xã hội, về nghĩa vụ giai cấp, nghĩa vụ quốc tế… Lối sống theo pháp luật không chỉ chịu sự tác động của pháp luật mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác như truyền thống, tập quán, văn hóa…

Trong xã hội hiện đại, quyền con người ngày càng được tôn trọng, tự do cá nhân được củng cố, mở rộng, lối sống của con người ngày càng được văn minh, hiện đại hơn, đòi hỏi việc ghi nhận, củng cố, bảo vệ tự do cá nhân và lối sống con người bằng pháp luật phải chặt chẽ, khoa học, dân chủ hơn. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để mỗi cá nhân có thể phát triển toàn diện, phát huy được tối đa tài năng sáng tạo, cống hiến của bản thân đồng thời phải giáo dục ý thức công dân, xây dựng lối sống tốt đẹp, ý thức và thói quen sống, làm việc theo pháp luật. Tuy nhiên, việc mở rộng tự do cá nhân, xây dựng lối sống mới không chỉ dựa trên cơ sở pháp luật mà cần chú ý tới cả mức sống, những thói quen, phong tục, tập quán, những quy ước của đoàn thể, cộng đồng dân cư, đặc biệt là sự ý thức của mỗi cá nhân về bản thân trong các mối quan hệ xã hội.

3.2. Nhà nước với quyền công dân.

 Trong các quốc gia hiện đại, cùng với việc tôn trọng và thực hiện quyền con người, các nhà nước còn đưa ra khái niệm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Khái niệm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được xây dựng trên cơ sở khái niệm quyền con người song không đồng nhất hoàn toàn với khái niệm quyền con người vì nó gắn liền với vấn đề quốc tịch của con người xuất phát từ vấn đề chủ quyền quốc gia. Nếu quyền con người được coi là hình thành một cách tự nhiên ở mỗi con người thì quyền và nghĩa vụ công dân lại do nhà nước quy định bằng pháp luật. Nếu quyền con người bất kì cá nhân nào cũng được thụ hưởng thì quyền công dân chỉ liên quan đến những ai là công dân mà không liên quan đến những ai là công dân mà không liên quan đến những người không phải là công dân, những người không có quốc tịch hoặc mang quốc tịch nước ngoài.

Hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân thường được quy định trong hiến pháp và các văn bản luật quan trọng của đất nước, chúng thường bao gồm:

- Các quyền tự do và chính trị của công dân: Đây là những khả năng cho cá nhân trong đời sống nhà nước và chính trị - xã hội, bảo đảm cho công dân tham gia vào các hoạt động quản lí nhà nước và xã hội, tự quyết định vận mệnh chính trị của mình. Các quyền, tự do chính trị của công dân thường bao gồm: Quyền lập hội; quyền mít tinh, biểu tình; quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội; quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại diện của nhà nước; quyền bỏ phiếu khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân….

- Các quyền, tự do kinh tế, xã hội của công dân: Đây là những khả năng của công dân trong lĩnh vực sản xuất, phân phối những lợi ích xã hội, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân khả năng tham gia vào việc sáng tạo và hưởng thụ những lợi ích vật chất nhằm thỏa mãn những nhu cầu vậy chất của mỗi người và của cả cộng đồng. Các quyền, tự do kinh tế, xã hội của công dân thường bao gồm: Quyền sống; quyền lao động; quyền kinh doanh; quyền nghỉ ngơi; quyền được hưởng chế độ bảo vệ sức khỏe; quyền xây dựng nhà ở…


- Các quyền, tự do văn hóa của công dân: Đây là những khả năng của con người trong việc sử dụng những thành tựu và những lợi ích văn hóa, tinh thần và tham gia vào việc sáng tạo ra chúng phù hợp với khuynh hướng và tài năng của mình. Các quyền, tự do văn hóa của công dân thường bao gồm: Quyền hưởng thụ và sử dụng các thành tựu văn hóa; quyền học tập; quyền nghiên cứu khoa học, kĩ thuật; quyền phát minh, sáng chế; quyền sáng tác nghệ thuật, văn học…

- Các quyền và tự do cá nhân của công dân: Đây là những khả năng của công dân không bị quấy rầy, can thiệp một cách bất hợp pháp hoặc không mong muốn vào đời sống có tính chất riêng tư của mình. Các quyền, tự do cá nhân của công dân bảo đảm cho công dân khả năng tự do lựa chọn những cách xử sự trong lĩnh vực tình cảm, tự quyết định đối với đời sống riêng tư của mình nếu những hành vi đó không đi ngược với các quy định của pháp luật và nguyên tắc của đạo đức. Các quyền và tự do cá nhân của công dân thường bao gồm: Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền tự do tín ngưỡng; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền tự do cư trí và tự do đi lại…

- Các nghĩa vụ của công dân: Đây là những cách xử sự bắt buộc phải thực hiện của công dân, là những yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước và xã hội đối với họ nhằm đáp ứng nhu cầu và lợi ích chung của cả xã hội và của các chủ thể khác. Các nghĩa vụ của công dân thường bao gồm: Nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc; nghĩa vụ tuân theo pháp luật; nghĩa vụ bảo vệ môi trường; nghĩa vụ lao động; nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích…


Các quyền và nghĩa vụ cơ bản mà nhà nước quy định cho công dân ở mỗi nhà nước khác nhau có sự khác nhau, thậm chí đối với một nhà nước nhưng trong các thời kì phát triển khác nhau cũng có sự quy định khác nhau.

Ngày nay trong phạm vi quốc gia cũng như phạm vi quốc tế, vấn đề quyền con người, quyền công dân luôn là những vấn đề mang tính thời sự và nhạy cảm. Để bảo vệ và thực hiện chúng đòi hỏi phải có sự cố gắng của cả hệ thống chính trị trong đất nước mà quan trọng nhất là nhà nước. Đó không chỉ là công việc của mỗi quốc gia mà còn là sự cố gắng chung, sự hợp tác có hiệu quả của các quốc gia, các tổ chức quốc tế và toàn thể thế giới nói chung. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng việc bảo vệ và thực hiện các quyền con người, quyền công dân ở mỗi quốc gia có sự phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm của các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và những điều kiện khác của mỗi quốc gia.


III. QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC VÀ CÁ NHÂN Ở CÁC XÃ HỘI KHÁC NHAU.


Không thể nhận thức đầy đủ, chính xác về xã hội và con người hiện nay nếu không nghiên cứu mối quan hệ đa dạng của cá nhân với nhà nước trong lịch sử. Mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân trong các xã hội khác nhau thì khác nhau.


1. Quan hệ giữa nhà nước chủ nô và cá nhân.


Trong chế độ cộng sản nguyên thủy tất cả đều thấp kém, mông muội nên con người phải dựa vào nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình sinh sống vì sự tồn tại của mỗi người cũng như của cả cộng đồng vì vậy tính cộng đồng của con người rất cao. Trong những điều kiện như vậy tính cách, vai trò của mỗi cá nhân rất mờ nhạt ngoại trừ một số người có vị trí, địa vị quan trọng trong xã hội như già làng, tộc trưởng hay thủ lĩnh quân sự… Khi chuyển sang xã hội chiếm hữu nô lệ thì tính cách, vai trò của cá nhân được khắc họa rõ nét hơn, đặc biệt đối với giai cấp chủ nô. Chủ nô do có ưu thế về các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội… nên cũng có điều kiện để thể hiện mình, còn nô lệ do không được coi là con người mà chỉ là “những công cụ lao động biết nói” nên tính cách cá nhân của nô lệ không có điều kiện để thể hiện.

Trong điều kiện như vậy, quan hệ giữa nhà nước chủ nô với cá nhân chủ nô và nô lệ là rất khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Nhà nước chủ nô quy định cho chủ nô quyền chiếm hữu đối với toàn bộ tư liệu sản xuất và cả người sản xuất là nô lệ. Chủ nô có tất cả, là chủ sở hữu đối với đất đai, tư liệu sản xuất, đối với nô lệ, chủ nô có tự do cá nhân và toàn quyền thống trị đối với nô lệ Nô lệ chiếm số đông trong xã hội nhưng không có tư liệu sản xuất, không có quyền, họ phụ thuộc gần như hoàn toàn vào chủ nô, họ bị coi như tài sản của chủ nô, tính mạng, số phận cũng như các hoạt động xã hội của họ đều do chủ nô quyết định. Họ bị bóc lột rất tàn nhẫn và pháo phục tùng một cách vô điều kiện những ý muốn của chủ nô. Mối quan hệ giữa nhà nước chủ nô với nô lệ là quan hệ thù địch, đối lập nhau: Nô lệ luôn mong muốn đấu tranh  để xóa bỏ nhà nước chủ nô, còn nhà nước chủ nô thì luôn tìm mọi cách để duy trì sự thống trị về mọi mặt của chủ nô đối với nô lệ và những người lao động khác. Nhà nước chủ nô bao giờ cũng là “một bộ máy đem lại cho chủ nô quyền lực và khả năng cai trị tất cả những người nô lệ… là một bộ máy để duy trì những người nô lệ trong địa vị nô lệ và cho phép một bộ phận này của xã hội cưỡng bức và đàn áp bộ phận kia”.


2. Quan hệ giữa nhà nước phong kiến và cá nhân.


Trong chế độ phong kiến người nông dân đã phần nào được tự do hơn, đã có điều kiện thể hiện sự sáng tạo của mình hơn so với nô lệ. Tuy nhiên, giai cấp nông dân, những người chân lấm tay bùn vẫn phụ thuộc về kinh tế, chính trị, tư tưởng… vào giai cấp địa chủ phong kiến nên vai trò, tính cách cá nhân của nông dân vẫn rất mờ nhạt. Ngoài ra do chế độ đẳng cấp, cục bộ địa phương chủ nghĩa nặng nề và nền dân chủ lãng xã thường làm cho người nông dân bị “phân thân” nghĩ giả, nói giả, bị cái làng, cái gia đình, cái cộng đồng làm lu mờ đi “cái tôi”. Chỉ có “cái tôi” của địa chủ phong kiến là được khẳng định đậm nét trong xã hội, nhất là của các vua, chúa, quý tộc phong kiến, các chủ gia đình (gia trưởng). Còn đối với người nông dân mặc dù ít nhiều đã được khẳng định mình nhưng với sự khinh miệt con người của xã hội phong kiến đã làm cho cá nhân người nông dân khó có điều kiện thể hiện được mình, tất cả dường như phụ thuộc vào các tầng lớp và đẳng cấp trên theo nguyên tắc chỉ “bề trên” mới có quyền và “bề trên” bao giờ cũng đúng.

Mối quan hệ giữa nhà nước phong kiến và cá nhân thể hiện theo tinh thần: dân là của nhà nước, nên nhà nước ban phát lộc hoặc họa cho ai thì người đó được hưởng hoặc phải chịu. Việc ban phát này được thực hiện phụ thuộc ý chí của vua, chúa và các tầng lớp trên của xã hội phong kiến. Các cá nhân trong xã hội phong kiến được chia thành nhiều đẳng cấp khác nhau phụ thuộc địa vị, thứ bậc, tôn giáo, giới tính và rất nhiều những đặc tính khác của mỗi người cộng đồng, xã hội. Do vậy, mối quan hệ của nhà nước phong kiến với các cá nhân thuộc mỗi đẳng cấp, thứ bậc luôn có sự phân biệt đối xử khác nhau. Mỗi đẳng cấp, thứ bậc sẽ được nhà nước phong kiến cho hưởng những đặc quyền, đặc lợi khác nhau. Thông qua pháp luật nhà nước phong kiến quy định vua có toàn quyền, vua ban hành luật, tổ chức và thi hành luật và là người xét xử cao nhất, vua cho ai sống người đó được sống, bắt ai chết người đó phải chết. Các chúa đất, địa chủ, tăng lữ có rất nhiều quyền trong phạm vi cai quản của mình. Tầng lớp thị dân và những người khác có một ít quyền còn nông dân hầu như không có quyền gì đáng kể. Nhà nước phong kiến còn thực hiện việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản của những người thuộc các đẳng cấp, tầng lớp trên một cách chặt chẽ hơn, tốt hơn, và nếu họ có vi phạm pháp luật thì sự trừng phạt luôn nhẹ hơn so với đẳng cấp, tầng lớp thấp hơn. Đúng là “Lễ nghi không tới thứ dân, hình phạt không tới trường phu”.


3. Quan hệ giữa nhà nước tư sản và cá nhân.


Sự ra đời của xã hội tư sản là bước tiến dài của loài người về phía trước trên tất cả các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội… Chế độ đẳng cấp, đặc quyền và các trật tự xã hội phong kiến từng bước bị xóa bỏ, con người được giải phóng, vai trò của cá nhân và sự tự do cá nhân được đề cao đã tạo động lực cho sự phát triển của xã hội trên tất cả các lĩnh vực. Trong những điều kiện như vậy, mối quan hệ giữa nhà nước tư sản và cá nhân đã có sự thay đổi cơ bản. Nhà nước tư sản đã đưa người dân từ địa vị “thần dân” sang địa vị “công dân”, tuyên bố tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tuyen bố sự bình quyền cho tát cả. Cùng với việc tuyên bố một hệ thống rộng lớn các quyền, nghĩa vụ cho công dân, nhà nước tư sản còn đề cao pháp chế, hạn chế sự tùy tiện, lạm quyền của các tổ chức và cá nhân trong xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền, tạo điều kiện cho các tầng lớp nhân dân tham gia vào các hoạt động xây dựng, thực hiện pháp luật. Như vậy, so với xã hội phong kiến thì mối quan hệ giữa nhà nước tư sản với cá nhân trở nên dân chủ hơn, vì nhau hơn. Tuy nhiên, do sự tồn tại chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất nên giai cấp vô sản – lực lượng dân cư đông đảo trong xã hội không có các điều kiện để phát triểntự do cá nhân như giai cấp tư sản. Do vậy, mối quan hệ dân chủ giữa nhà nước tư sản với cá nhân chỉ thực sự được thực hiện đối với những ai có nhiều tài sản, còn đối với đa số người dân lao động thì vẫn còn mang tính hình thức. Bởi, về mặt pháp lí thì các quyền tự do dân chủ của cá nhân được pháp luật tư sản ghi nhận song các bảo đảm thực tế cho việc thực hiện các quyền tự do dân chủ đó lại bị hạn chế. Đúng như V.I.Leenin đã khẳng định: “Khi giai cấp chưa bị xóa bỏ, trong mọi lí lẽ về tự do, bình đẳng tất phải đặt ra câu hỏi tự do cho giai cấp nào? Nhằm mục đích gì? Bình đẳng của giai cấp nào đối với giai cấp nào và trong quan hệ nào?”. Không thể có tự do, công bằng và dân chủ thực sự cho người lao động trong những xã hội mà ở đó giá trị của con người được đánh giá không phải bằng sự lao động, cống hiện của họ mà bằng số lượng tài sản mà họ có được, nơi mà quyền lực nhà nước thực chất chỉ nằm trong tay một nhóm người có tài sản. Trong những xã hội như thế việc tuyên bố các quyền tự do dân chủ cho nhân dân thường mang tính chất hình thức, bởi vì, về thực chất sở hữu tư nhân đã mang lại cho chủ của nó tất cả những lợi ích, sự tự do, những gì mà chủ nó mong muốn đồng thời về mặt thực tế cũng lấy đi tất cả những cái đó ở những người không có nó.


4. Quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa và cá nhân.


Chủ nghĩa xã hội là xã hội nhân đạo và tự do thực sự đã tạo ra những tiền đề về kinh tế, chính trị, tư tưởng, xã hội cho sự phát triển toàn diện của mỗi cá nhân theo tinh thần tự do của mỗi con người là điều kiện phát triển tự do của tất cả mọi người. Nếu như trong các xã hội trước đây chỉ những cá nhân thuộc các giai cấp bóc lột mới có điều kiện thể hiện mình thì trong chủ nghĩa xã hội cá nhân người lao động đã được quan tâm hơn, đã có điều kiện phát huy sức lực, tài năng, trí tuệ của mình và được xã hội ghi nhận, đánh giá cao. Do vậy, Ph. Ăngghen đã khẳng định: “… chỉ từ lúc đo, con người mới bắt đầu tự mình làm ra lịch sử của chính mình một cách hoàn toàn tự giác, chỉ từ lúc đó, những nguyên nhân xã hội mà con người làm cho phát huy tác dụng, mới đưa lại, với một mức độ chiếm ưu thế và không ngừng tăng lên, những kết quả mà con người mong muốn. Đó là bước nhảy của nhân loại từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do”. ( )

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, với bản chất dân chủ, nhân đạo thực sự, nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn tạo điều  kiện cho sự phát triển toàn diện của mỗi người, vì vậy, mối quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với cá nhân đã có sự thay đổi về chất để giải quyết những nhiệm vụ xã hội quan trọng vì lợi ích nhà nước, xã hội và mỗi cá nhân, phấn đấu để xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột và bất công.

Quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với cá nhân công dân được xây dựng trên các nguyên tắc: Tôn trọng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau; bảo đảm sự thống nhất và hài hòa về lợi ích của cả hai bên; công bằng, bình đẳng của các công dân trong quan hệ với nhà nước; thực hiện sự nhân đạo xã hội chủ nghĩa; bảo đảm pháp chế; không ngừng củng cố, mở rộng các quyền, tự do và nâng cao đời sống cho công dân;…

Chỉ trong chủ nghĩa xã hội tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản tự tổ chức thành nhà nước. nhà nước được thành lập là để phục vụ lợi ích của nhân dân, do vậy, cá nhân công dân luôn thực hiện các công việc nhà nước, bảo vệ nhà nước, làm cho nhà nước ngày càng lớn mạnh. Có thể nói, mối quan hệ giữa các cá nhân và nhà nước xã hội chủ nghĩa luôn thể hiện tinh thần tôn trọng, hợp tác với nhau và vì nhau dựa trên các nguyên tắc của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa và cá nhân công dân luôn có chung lợi ích nên có sự thống nhất về quyền và nghĩa vụ pháp lí của các bên, nghĩa là giữa nhà nước với công dân đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau, được ghi nhận, bảo đảm thực hiện bằng hiến phpas và pháp luật. Trong mối quan hệ đó các giá trị của cá nhân người lao động luôn được đề cao, được tôn trọng, các quyền, tự do của người lao động thuộc các lĩnh vực khác nhau ngày càng được mở rộng, được nhà nước và xã hội ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Chẳng hạn, công dân có quyền không bị bóc lột, quyền có việc làm, quyền được bảo trợ xã hội khi già yếu, khi bị ốm đau, tàn tật; công dân có quyền bầu cử để lập ra các cơ quan quyền lực nhà nước, cơ quan đại biểu, quyền tham gia quản lí nhà nước và xã hội, thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương; quyền kiến nghị với cơ quan nhà nước, biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân; quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước, yêu cầu các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước phải tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của mình và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho công dân được hưởng các quyền và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước; quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những việc làm sai, trái của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hay bất cứ cá nhân nào…

Không chỉ quy định quyền, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng quy định các nghĩa vụ, trách nhiệm quan trọng của công dân trước nhà nước và xã hội như nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc, nghĩa vụ lao động , nghĩa vụ đống thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật… Ngoài việc ghi nhận một hệ thống rộng lớn các quyền và tự do cho cá nhân công dân, nhà nước xã hội chủ nghĩa còn quan tâm tới việc tạo ra các điều kiện thực tế bảo đảm cho các quyền, nghĩa vụ của công dân được thực hiện.

Tuy vậy, mối quan hệ giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa với cá nhân không phải khi nào cũng được nhận thức và thực hiện đúng đắn. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, trước đây có những giai đoạn ở Việt Nam cũng như ở các nước xã hội chủ nghĩa khác  “có tình trạng cá nhân con người bị: dập khuôn theo một mẫu hình xác định, xuất phát từ ý muốn chủ quan, duy ý chí. Trong mối quan hệ với nhà nước, lợi ích và ý chí của giai cấp, của nhà nước nhiều lúc được đưa lên hàng đầu, lấn át hoặc thủ tiêu lợi ích và ý chí của cá nhân con người. Vì thế những thuộc tính tự nhiên với tư cách là con người sáng tạo còn nằm bên ngoài pháp luật của nhà nước. Có tình trạng đó là do chưa xác định đúng vị trí của cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước”. ( )
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác đã và đang tiến hành đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đòi hỏi phải có sự nhận thức và thực hiện đúng đắn hơn mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước, Trong mối quan hệ với nhà nước phải kết hợp hài hòa giữa các thuộc tính tự nhiên và xã hội của các cá nhân, quy định hài hòa giữa các thuộc tính tự nhiên và xã hội của các cá nhân, quy định hài hòa giữa lợi ích nhà nước và lợi ích cá nhân có như vậy mới tạo động lực cho sự cống hiến, lao động sáng tạo của mỗi cá nhân.

Mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân trong chủ nghĩa xã hội luôn không ngừng được phát triển, củng cố và hoàn thiện theo tinh thần dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong mối quan hệ đó, nhà nước là một bên nhưng lại là chủ thể có quyền ban hành pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thực hiện, là chủ thể thực hiện việc xét xử, phán quyết mỗi khi có tranh chấp, vi phạm, do vậy, nhà nước phải bị ràng buộc bởi chính pháp luật đã được nhà nước ban hành từ trước. Tranh chấp giữa nhà nước và công dân phải do tòa án độc lập, vô tư giải quyết. Mọi hoạt động, cố gắng của nhà nước đều phải vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân.


5. Xu hướng phát triển của mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân.


Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, sự cạnh tranh giữa các nền kinh tế, các quốc gia và giữa các cá nhân ngày càng trở nên quyết liệt hơn, khi này giá trị cá nhân là sức mạnh cạnh tranh và sức mạnh cạnh tranh chính là nhân tố quan trọng nhất của mỗi quốc gia. Do vậy, mỗi quốc gia phải tìm mọi cách huy động, giải phóng giá trị cá nhân một cách tối đa, tạo mọi điều kiện tốt nhất để mỗi cá nhân tự lao động, sáng tạo. Khi này mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân ngày càng gắn bó chặt chẽ, tùy thuộc vào nhau nhiều hơn song ngày càng dân chủ hơn, tôn trọng lẫn nhau trên cơ sở pháp luật và các chuẩn mực xã hội.

Mối quan hệ này luôn được phát triển theo hướng nhà nước ngày càng chăm lo nhiều hơn, tốt hơn cho lợi ích cá nhân, tôn trọng họ, bảo vệ tự do cá nhân của họ, tạo điều kiện để mỗi cá nhân có thể phát triển toàn diện, phát huy được tài năng, trí tuệ và sức lực của mình vì hạnh phúc của bản thân, của cộng đồng và xã hội nói chung. Cá nhân ngày càng phải có trách nhiệm với nhà nước, củng cố, chăm lo cho nhà nước thêm vững mạnh, hết lòng bảo vệ nhà nước, thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật mà nhà nước đã ban hành.

Mối quan hệ giữa nhà nước và cá nhân không chỉ được quan tâm, giải quyết theo điều kiện của mỗi quốc gia, dân tộc cho ngày một tốt hơn mà còn có sự hợp tấc quốc tế giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế trong việc đấu tranh vì quyền con người, vì sự tự do cá nhân, hạnh phúc của tất cả mọi người trên quy mô toàn cầu. Việc quốc tế hóa vấn đề quan hệ giữa nhà nước và cá nhân không thể thay thế được việc chủ động giải quyết nó một cách tốt nhất trong mỗi quốc gia, dân tộc. Vì vậy, đòi hỏi mỗi quốc gia, dân tộc cần phải nỗ lực cố gắng nhiều hơn nữa, nâng cao trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm, bảo vệ các quyền con người, quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân vì một xã hội ngày càng công bằng, dân chủ, văn minh hơn.





No comments:

Post a Comment