03/09/2014
Các quy định về đại diện trong Bộ luật Dân sự 2005 - Bài 1
Bài tập học kỳ Luật Dân sự I có đáp án.

A. PHẦN MỞ ĐẦU.

Cuộc sống ngày càng phát triển thì nhu cầu tham gia các giao dịch dân sự (GDDS) của các chủ thể cũng ngày càng đa dạng và mở rộng. Trong giao lưu dân sự, các chủ thể có thể tự mình xác lập, thực hiện GDDS nhưng trong những trường hợp nhất định, do hạn chế về mặt này mặt kia mà họ không thể tự mình xác lập, thực hiện các GDDS được, vì thế pháp luật dân sự đã đặt ra chế định đại diện. 

Đối với cá nhân, bên cạnh những người có đầy đủ năng lực hành vi (NLHV) có thể tham gia GDDS theo Điều 122 BLDS thì còn có các đối tượng khác như: người chưa thành niên, người bị hạn chế NLHV dân sự, người bị mất NLHV dân sự… những hạn chế về mặt nhận thức, hoàn cảnh đã cản trở họ, khiến họ không thể tự mình xác lập các giao dịch được thì chế định đại diện đã giúp họ tiến hành xác lập các giao dịch theo mong muốn hoặc vì lợi ích của họ. Đối với các chủ thể là pháp nhân, tổ hợp tác hay hộ gia đình mà quyền lợi mang tính cộng đồng, việc tham gia GDDS không thể xác lập thông qua tất cả mọi cá nhân thì chế định đại diện được đặt ra tạo điều kiện và đem lại lợi ích tốt nhất cho các chủ thể này. Như vậy đại diện là một công cụ pháp lí hữu hiệu để các chủ thể thực hiện được tất cả các quyền và nghĩa vụ dân sự của mình một cách linh hoạt và hiệu quả nhất. 

Vậy đại diện là gì, có những loại đại diện nào, chấm dứt đại diện ra sao…Bài viết của em xin đề cập về vấn đề đó.

B. PHẦN NỘI DUNG.

I. Khái niệm, đặc điểm của đại diện.

1. Khái niệm.

Đại diện là một chế định pháp lí theo đó người đại diện độc lập thực hiện sự thể hiện ý chí làm phát sinh hậu quả pháp lí trực tiếp đối với người được đại diện. Xét từ góc độ lí luận thì người thực hiện các hành vi pháp lí đồng thời là người tiếp nhận kết quả của các hành vi đó. Có thể thấy đại diện là một chế định pháp luật thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong cách thức tham gia vào giao dịch dân sự (GDDS) của các chủ thể.

Khoản 1 Điều 139 BLDS 2005 quy định: Đại diện là việc một người (sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi thẩm quyền đại diện. So với khoản 1 Điều 148 BLDS 1995 thì khoản 1 Điều 139 BLDS 2005 bổ sung thêm không lớn nhưng đã nhấn mạnh được trách nhiệm của người đại diện, phản ánh đúng bản chất của đại diện, từ đó có cơ sở pháp lý để giải quyết những trường hợp người đại diện xác lập, thực hiện các quan hệ dân sự không xuất phát từ lợi ích của người được đại diện. Ngoài ra Điều 139 BLDS 2005 còn thêm khoản 5 “người đại diện phải có NLHV dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 143 của bộ luật này”

Như vậy đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự. Chủ thể của quan hệ đại diện bao gồm người đại diện và người được đại diện. Người đại diện là người nhân danh người được đại diện xác lập quan hệ với người thứ ba, vì lợi ích của người được đại diện. Người được đại diện là người tiếp nhận các hậu quả pháp lý từ quan hệ do người đại diện xác lập, thực hiện đúng thẩm quyền đại diện. Quan hệ đại diện là căn cứ để phát sinh thêm một quan hệ (GDDS) tiếp theo là quan hệ giữa người đại diện với người thứ ba theo ý chí của người được đại diện. Mọi cá nhân đều được pháp luật bảo vệ quyền tham gia xác lập và thực hiện GDDS có thể trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người khác. Tuy nhiên, cá nhân không được để người khác đại diện cho mình trong trường hợp mà pháp luật quy định họ phải tự mình xác lập, thực hiện giao dịch đó (thông thường, đây là những giao dịch liên quan đến quyền nhân thân – vốn có đặc tính không thể chuyển giao cho người khác được. Ví dụ : một người chồng không thể ủy quyền cho một người khác đại diện để “làm chồng” đối với người vợ của mình !).

2. Đặc điểm của quan hệ đại diện.

* Quan hệ đại diện là một loại quan hệ pháp luật (QHPL) do vậy quan hệ đại diện cũng mang đầy đủ các đặc điểm chung của QHPL.

- Cũng như QHPL, quan hệ đại diện là loại quan hệ xã hội có ý chí, tức là xuất hiện do ý chí của con người. Quan hệ đại diện không ngẫu nhiên hình thành mà phải qua hành vi có ý chí của một hoặc cả hai bên chủ thể. Có những quan hệ đại diện mà sự hình thành đòi hỏi cả hai bên thể hiện ý chí (hợp đồng ủy quyền), có những quan hệ đại diện hình thành trên cơ sở ý chí của nhà nước (đại diện theo pháp luật).

- Cũng như QHPL, quan hệ đại diện xuất phát trên cơ sở các quy phạm pháp luật. Trong BLDS năm 2005 thì các chế định về đại diện được quy định tại chương VII, từ Điều 139 đến Điều 148.

- Cũng như QHPL, nội dung của quan hệ đại diện được cấu thành bởi các quyền và nghĩa vụ pháp lý mà việc thực hiện được đảm bảo bằng sự cưỡng chế nhà nước. Trong quan hệ đại diện khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ các QHPLDS, các bên không được áp đặt ý chí của mình để buộc bên kia thực hiện nghĩa vụ mà tạo cho họ điều kiện lựa chọn cách thức thực hiện các quyền và nghĩa vụ sao cho có lợi nhất cho các bên và này luôn phải đảm bảo nguyên tắc là không được trái với pháp luật.

* Ngoài các đặc điểm của QHPLDS nói chung, quan hệ đại diện còn có các đặc điểm riêng sau đây:

- Đại diện có 2 quan hệ pháp luật khác nhau là quan hệ bên trong và quan hệ bên ngoài.

+ Quan hệ hình thành giữa người đại diện và người được đại diện là quan hệ bên trong. Quan hệ này có thể được hình thành từ hợp đồng hay theo quy định của pháp luật. Ví dụ: Theo quy định tại Điều 21 BLDS thì mọi GDDS của người chưa đủ 6 tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Như vậy quan hệ giũa người đại diện và người được đại diện được xác lập theo pháp luật chứ không phải hợp đồng.

+ Quan hệ hình thành giữa người đại diện và người thứ ba  là quan hệ bên ngoài. Quan hệ bên trong là tiền đề, cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại của quan hệ bên ngoài. Quan hệ bên ngoài thực hiện vì quan hệ bên trong, vì vậy các quyền và nghĩa vụ do người đại diện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện với người thứ ba đều thuộc về người đại diện. Người đại diện có thể được hưởng những lợi ích nhất định từ người được đại diện do thực hiện hành vi với người thứ ba, chứ không được hưởng bất kỳ lợi ích gì với người thứ ba.

- Người đại diện xác lập quan hệ đại diện với người thứ ba là nhân danh người được  đại diện chứ không phải nhân danh chính họ. Do vậy người được đại diện phải giới thiệu tư cách pháp lí của mình với người thứ ba để người này hiểu được hai vấn đề cần thiết trước khi lập giao dịch.

- Mục đích của người đại diện xác lập quan hệ với người thứ 3 là vì lợi ích của người được đại diện, hay nói cách khác quyền và lợi ích trong quan hệ với người thứ ba được chuyển cho người đại diện. Trong quan hệ đại diện theo ủy quyền, họ có thể được hưởng tiền thù lao nếu có thỏa thuận; còn trong các quan hệ đại diện theo pháp luật thì chỉ có nghĩa vụ theo pháp luật chứ người đại diện sẽ không có được lợi ích vật chất cụ thể từ quan hệ đại diện này.

- Người đại diện tuy nhân danh người được đại diện và thẩm quyền của họ bị giới hạn trong phạm vi đại diện theo thỏa thuận hay theo quy đinh của pháp luật nhưng họ vẫn có sự chủ động khi tiến hành các công việc cần thiết để dạt mục đích và vì lợi ích của người được đại diện. Ví dụ: A đại diện theo ủy quyền mua ô tô cho B thì A vẫn được thể hiện ý chí của mình qua việc thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng với người thứ ba nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho B.

II. Phân loại đại diện.

Việc phát sinh quan hệ đại diện được xác lập theo hai hình thức : do pháp luật qui định hoặc theo sự uỷ quyền.

1. Đại diện theo pháp luật.

a. Khái niệm đại diện theo pháp luật.

Theo quy định tại Điều 140 BLDS 2005 thì “ Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật qui định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định”. 

Căn cứ để hình thành quan hệ đại diện này là do ý chí của nhà nước, pháp luật quy định mối quan hệ đại diện dựa trên các mối quan hệ tồn tại sẵn có chứ không phụ thuộc vào ý chí hay sự định đoạt của các chủ thể. Như vậy , đại diện được quy định theo pháp luật chung là đại diện mặc nhiên, ổn định về người đại diện. Các chủ thể trong quan hệ đại diện có thể là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác hoặc pháp nhân.

Ví dụ : Người đại diện của công ty là người mà công ty đăng ký với vị trí là “người đại diện theo pháp luật” – thể hiện trong Giấy đăng ký kinh doanh (thường là giám đốc) do Sở kế hoạch và đầu tư cấp. Đây là trường hợp đại diện mà pháp luật qui định.

b. Các trường hợp đại diện theo pháp luật.

Như đã nói, “đại diện theo pháp luật” là sự đại diện do pháp luật quy định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định. Điều 141 BLDS 2005 qui định “người đại diện theo pháp luật” trong một số trường hợp như sau:

1. Đối với con chưa thành niên (dưới 18 tuổi) - Cha, mẹ là người đại diện theo pháp luật.

2. Đối với người được giám hộ - Người giám hộ là người đại diện theo pháp luật.

3. Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự - Người được Toà án chỉ định là người đại diện theo pháp luật.

4. Đối với pháp nhân- Người đứng đầu pháp nhân theo qui định của điều lệ pháp nhân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền là người đại diện theo pháp luật.

5. Đối với hộ gia đình - Chủ hộ là người đại diện theo pháp luật.

6. Đối với tổ hợp tác - Tổ trưởng tổ hợp tác là người đại diện theo pháp luật.

7. Những người khác theo qui định của pháp luật. 

* Trường hợp thứ nhất đó là cha mẹ đối với con chưa thành niên. 

- Điều 39 Luật Hôn nhân gia đình năm 200 quy định: “Cha mẹ là người đại diện theo pháp luật của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, trừ trường hợp con có người khác làm giám hộ hoặc có người khác đại diện theo pháp luật”. Có thể thấy người chưa thành niên là người chưa có đủ khả năng nhân thức và điều khiển hành vi của mình nên họ không thể tham gia các giao dịch dân sự một cách độc lập, trừ những giao dịch nhỏ đảm bảo cho sinh hoạt hàng ngày. Trong những giao dịch quan trọng mà người chưa thành niên tham gia thì cha, mẹ của họ sẽ là người nhân danh, và vì lợi ích của họ xác lập và thực hiện các giao dịch đó với điều kiện cha, mẹ là người có đủ năng lực hành vi dân sự.

* Trường hợp thứ hai đó là người giám hộ đối với người được giám hộ.

- Điều 58 BLDS năm 2000 quy định: Giám hộ là việc một hoặc nhiều người (người giám hộ) thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một hay nhiều người khác (người được giám hộ). Một người có thể giám hộ cho nhiều người, nhưng một người chỉ có thể được một người giám hộ, trừ trường hợp người giám hộ là cha và mẹ hoặc ông và bà của người được giám hộ. Người giám hộ có thể là cá nhân hoặc tổ chức; nếu là cá nhân thì có thể là người giám hộ đương nhiên hoặc người được cử ra; trường hợp không cử được cá nhân giám hộ thì một tổ chức sẽ được đề nghị đảm nhận việc giám hộ. Cá nhân làm người giám hộ phải có đủ các điều kiện sau: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có tư cách đạo đức tốt; có điều kiện cần thiết bảo đảm thực hiện việc giám hộ.

- Pháp luật Việt Nam qui định về người được giám hộ như sau: Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu; người mất năng lực hành vi dân sự.

* Trường hợp thứ ba là người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế NLHVDS.

- NLHVDS của người đã thành niên có thể bị hạn chế trên cơ sở những điều kiện và thủ tục được quy định tại Điều 23 BLDS. Việc hạn chế NLHVDS phải thông qua Tòa án theo trình tự tố tụng dân sự và được áp dụng với những người nghiện ma túy và các chất kích thích dẫn tới hậu quả phá tán tài sản. Như vậy có thể thấy người bị hạn chế NLHVDS không có đầy đủ khả năng nhân thức và làm chủ hành vi của mình. Do là đối tượng cần được pháp luật bảo vệ bởi bản thân họ không thể trực tiếp tham gia vào bất kỳ giao dịch nào nên pháp luật phải quy định sẵn những chủ thể có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi cho họ trong việc xác lập và thực hiện các GDDS nên bắt buộc phải thông qua người đại diện cụ thể. Khoản 2 Điều 23 BLDS năm 2005 quy định: “Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện do Toà án quyết định. Giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày”.

* Trường hợp thứ tư là người đứng đầu pháp nhân theo qui định của điều lệ pháp nhân hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền là người đại diện theo pháp luật.

- Điều 84 BLDS năm 2005 mô tả: Pháp nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập hợp pháp, có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia váo các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Như vậy để tham gia vào các quan hệ pháp luật thì pháp nhân phải thông qua hoạt động của mình như là những chủ thể độc lập tham gia các quan hệ xã hội nói chung và các quan hệ dân sự nói riêng. Mọi hoạt động của pháp nhân được tiến hành thông qua hành vi những cá nhân- người đại diện của pháp nhân. Người đại diện của pháp nhân có quyền nhân danh pháp nhân thực hiện các hành vi nhằm duy trì sự hoạt động của pháp nhân trong khuôn khổ pháp luật và điều lệ quy định (ký kết các hợp đồng và thực hiện các giao dịch khác). 

- Theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005 thì đại diện theo pháp luật của các loại pháp nhân là:

+ Đối với Công ty cổ phần: Chủ tịch Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng Giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty được quy định tại Điều lệ công ty, người đại diện theo pháp luật phải thường trú tại Việt Nam. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty không được đồng thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác.

+ Công ty hợp danh: Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động hàng ngày của công ty.

+ Công ty trách nhiệm hữu hạn: Chủ tịch hội đồng thành viên hơcj Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại Điều lệ công ty, người đại diện theo pháp luật của công ty phải thường trú tại Việt Nam.

*Trường hợp thứ năm là chủ hộ gia đình đối với hộ gia đình:

- Tuy chưa có một khái niệm thống nhất về hộ gia đình nhưng chúng ta có thể hiểu hộ gia đình là tập hợp những người trong gia đình có các quan hệ huyết thống, nuôi dưỡng và hôn nhân. Để trở thành chủ thể trong quan hệ dân sự thì hộ gia đình phải có những điều kiện nhất định, đó là thành viên trong hộ gia đình có tài sản chung. Hộ gia đình hoạt động với tư cách chủ thể trong quan hệ dân sự phải thông qua đại diện của hộ gia đình mà pháp luật gọi là “chủ hộ”. Chủ hộ là người đại diện cho hộ trong các GDDS vì lợi ích chung của hộ ( chuyển quyền sử dụng đất, mua bán vật tư sản phẩm..). Khi tham gia vào giao dịch dân sự, chủ hộ đại diện cho hộ gia đình không cần có sự đồng ý của các thành viên nếu mục đích giao dịch phục vụ lợi ích chung của cả hộ.

* Trường hợp thứ sáu là tổ trưởng tổ hợp tác đối với tổ hợp tác:

- Theo Điều 111 BLDS, tổ hợp tác được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của UBND cấp cơ sở của từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng lợi và chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ pháp luật dân sự.

- Tổ hợp tác hoạt động thông qua đại diện của tổ. Đại diện của tổ là tổ trưởng do các tổ viên bầu ra.  Theo đó, tổ trưởng sẽ nhân danh tổ xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự phù hợp vơi mục đích hoạt động của tổ, trong phạm vi những công việc đã được ghi nhận trong hợp đồng hợp tác làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của cả tổ. Tuy nhiên khoản 2 Điều 114 BLDS quy định: “Việc định đoạt tài sản là tư liệu sản xuất của tổ hợp tác phải được toàn thể tổ viên đồng ý; đối với các loại tài sản khác phải được đa số tổ viên đồng ý” thì hành vi của người đại diện mới phát sinh quyền và nghĩa vụ cho cả tổ. Nhưng xét theo nguyên tắc chung về chủ thể, cũng như về đại diện theo pháp luật, thì tổ trưởng là người đại diện cho tổ thì họ có quyền thực hiện các giao dịch mà không cần sự đồng ý của đa số các thành viên, miễn là giao dịch đó phù hợp với công việc và lợi ích của tổ.

2. Đại diện theo ủy quyền.

a. Khái niệm:

Có rất nhiều lí do chủ quan hay khách quan khiến các chủ thể không tự mình xác lập GDDS mà thông qua hành vi của người khác, pháp luật cho phép họ có thể ủy quyền cho người khác thay mặt mình tham gia giao dịch. Ủy quyền là phương tiện pháp lí cần thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của QHDS, bằng nhiều hình thức khác nhau có thể tham gia vào GDDS một cách thuận lợi nhất, bảo đảm thỏa mãn nhanh chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể quan tâm.

Điều 142 BLDS 2005 quy định: Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người được đại diện và người đại diện. Hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận, trừ trường hợp pháp luật quy định việc ủy quyền phải được lập thành văn bản. Điều 142 BLDS 2005 có một sửa đổi nhỏ về hình thức ủy quyền. So với khoản 2 Điều 151 BLDS 1995 thì quy định về hình thức uỷ quyền ở Điều 142 BLDS 2005 rộng hơn, nó không bắt buộc “Việc uỷ quyền phải được lập thành văn bản” như khoản 2 Điều 151 BLDS 1995.

Như vậy quan hệ ủy quyền gồm hai bên: bên ủy quyền và bên được ủy quyền. Khi hai bên (bên ủy quyền và bên được ủy quyền) thiết lập một quan hệ ủy quyền đồng thời thiết lập một quan hệ hợp đồng với tính chất là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền. Bên ủy quyền phải trả thù lao nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Trong quan hệ ủy quyền, người được ủy quyền thay mặt người ủy quyền thực hiện một số hành vi nhất định làm phát sinh hậu quả pháp lý liên quan đến quyền lợi của các bên trong quan hệ hợp đồng hoặc lợi ích của người đã ủy quyền trong phạm vi ủy quyền. 

Ví dụ: Giám đốc công ty A ủy quyền cho một nhân viên là anh B đi dự họp tại cơ quan thuế – thì anh B sẽ trở thành người đại diện cho giám đốc công ty. Đây là trường hợp đại diện theo ủy quyền (do được ủy quyền mà có tư cách đại diện).

b. Các trường hợp đại diện theo ủy quyền.

Như đã nói, “đại diện theo ủy quyền” là sự đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa người đại diện và người được đại diện. Điều 143 BLDS 2005 qui định “người đại diện theo ủy quyền” trong một số trường hợp như sau:

- Khoản 1 Điều 143 BLDS 2005 quy định “Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”.

- Khoản 2 Điều 143 BLDS 2005 quy định “Người từ đủ muời lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện” thay cho quy định tại khoản 2 Điều 152 BLDS 1995 “người chưa thành niên, người mất NLHV dân sự hoặc bị hạn chế NLHV dân sự không được làm người đại diện theo uỷ quyền”. Từ 2 điều luật trên ta thấy, khoản 2 Điều 143 BLDS 2005 quy định những người được làm đại diện theo uỷ quyền, còn khoản 2 Điều 152 BLDS 1995 lại quy định những người không được làm đại diện theo uỷ quyền.

Điều 143 BLDS 2005 đã mở rộng phạm vi người được đại diện theo uỷ quyền. Người đại diện theo uỷ quyền không nhất thiết cứ phải là người đã thành niên như quy định tại Điều 152 BLDS 1995 mà cả những người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi trừ trường hợp những giao dịch dân sự pháp luật quy định bắt buộc phải do người đủ 18 tuổi trở lên xác lập. Quy định như Điều 143 BLDS 2005 là phù hợp với quy định về NLHV dân sự của người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến vừa đủ 18 tuổi (khoản 2 Điều 20 BLDS 2005).

III. Phạm vi thẩm quyền đại diện.

Người đại diện thực hiện hành vi nhân danh người được đại diện bởi vậy cần phải có một giới hạn nhất định cho hành vi đó. Giới hạn này là phạm vi thẩm quyền đại diện. Việc xác định phạm vi thẩm quyền có ý nghĩa sẽ mang lại những ý nghĩa pháp lý rất quan trọng, đó là: Khi người đại diện thực hiện hành vi trong phạm vi đại diện thì mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của người được đại diện với người thứ ba. Ngoài ra phạm vi đại diện còn là căn cứ để xem xét tính hiệu lực của một số giao dịch do người đại diện xác lập, nếu người đại diện vượt qua thẩm quyền cho phép thì họ phải tự chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Như vậy: Phạm vi thẩm quyền đại diện là giới hạn quyền, nghĩa vụ theo đó người đại diện nhân danh người được đại diện xác lập, thực hiện GDDS với người thứ ba. Tùy thuộc vào quan hệ đại diện là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền mà phạm vi thẩm quyền đại diện được xác định khác nhau (Khoản 1, 2 Điều 153 BLDS 2005).

* Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật.

- Đại diện theo pháp luật là đại diện do pháp luật qui định hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định nên thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật được pháp luật quy định hoặc thể hiện trong quyết định cử người đại diện của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc xác lập đại diện này thường không phụ thuộc vào ý chí của người được đại diện. Khoản 1 Điều 144 BLDS quy định: “Người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.  Như vậy pháp luật cho phép người đại diện theo pháp luật có quyền chủ động tối đa trong việc lựa chọn, xác lập và thực hiện các giao dịch liên quan đến người được đại diện nhưng phải xuất phát vì lợi ích của người được đại diện. 

- Trong trường hợp đại diện cho người bị hạn chế NLHVDS có một số nét đặc biệt riêng. Chính người bị hạn chế NLHVDS vẫn trực tiếp tham gia giao kết hợp đồng, nhưng với sự chấp thuận của người đại diện. Người đại diện chỉ đống vai trò giám sát, đồng ý hay không đồng ý cho việc xác lập giao dịch. Nếu giao dịch đó không làm ảnh hưởng đến lợi ích của chính người đại diện, của những người thân thích trong gia đình của người bị hạn chế NLHVDS thì người đại diện cho phép người bị hạn chế NLHVDS xác lập, thực hiện giao dịch.

* Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo ủy quyền.

- Đại diện theo uỷ quyền là đại diện được xác lập theo sự uỷ quyền giữa người được đại diện và người đại diện nên “phạm vi thẩm quyền đại diện theo ủy quyền được xác lập theo sự ủy quyền” ( Khoản 2 Điều 144 BLDS 2005) và phụ thuộc vào ý chí của hai bên: bên đại diện và bên được đại diện. So với phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo pháp luật thì  phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo ủy quyền bị hạn chế hơn bởi “người đại diện chỉ được thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện” (Khoản 3 Điều 144 BLDS 2005). Phạm vi của người đại diện theo ủy quyền được xác định trong văn bản ủy quyền và người đại diện theo ủy quyền chỉ được thực hiện phạm vi pháp lý trong khuôn khổ văn bản ủy quyền quy định. 

- Để bảo vệ lợi ích chính đáng cho người thứ ba, là người xác lập GDDS với người đại diện, pháp luật quy định “Người đại diện phải thông báo cho người thứ ba trong giao dịch dân sự về phạm vi đại diện của mình” (Khoản 4 Điều 144 BLDS 2005). Việc có một thông báo rõ ràng về việc đại diện cũng như phạm vi đại diện sẽ tránh được những rắc rối về sau trong quá trình thực hiện hợp đồng. Thông báo rõ ràng, đầy đủ về có đại diện trong giao kết là hành lang pháp lý an toàn cho người đại diện cũng như người uỷ quyền. Ngoài ra pháp luật còn quy định “ Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác” (Khoản 5 Điều 144 BLDS 2005). Quy định này nhằm ngăn ngừa và loại trừ những GDDS được xác lập , thực hiện có thể đem lại hậu quả bất lợi cho người được đại diện đồng thời làm cho người đại diện không còn cơ hội thự“lộng quyền”, lạm dụng vị trí để trục lợi.

* Trường hợp không có thẩm quyền đại diện và hậu quả giao dịch do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện.

Theo quy định tại Điều 145 BLDS 2005 thì:

-  Khi giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện không làm phát sinh, quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người đại diện hoặc người được đại diện đồng ý. Người giao dịch với người không có quyền đại diện phải thông báo cho người được đại diện hoặc người đại diện của người đó để trả lời trong thời hạn ấn định; nếu hết thời hạn này mà không trả lời thì giao dịch đó không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, nhưng người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện. 

-  Trách nhiệm cho người đã giao dịch với người không có quyền đại diện đó là: Người đã giao dịch với người không có quyền đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đã xác lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện mà vẫn giao dịch. 

* Trường hợp vượt quá thẩm quyền đại diện và hậu quả giao dịch do người vượt quá thẩm quyền đại diện xác lập, thực hiện.

Điều 146 BLDS 2005 quy định:

- Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người được đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối; nếu không được đồng ý thì người đại diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi đại diện. 

So với khoản 1 Điều 155 BLDS 1995, quy định này có một số sửa đổi bổ sung đó là: Thay cụm từ : “vượt quá thẩm quyền đại diện” bằng cụm từ “vượt quá phạm vi đại diện” và bổ sung thêm cụm từ “đối với phần giao dịch thực hiện quá phạm vi đại diện” mà Điều 155 BLDS 1995 không có. Theo Điều 153 BLDS 1995 và Điều 144 BLDS 2005 thì thẩm quyền đại diện (hay quyền đại diện) là thẩm quyền (hay quyền) xác lập thực hiện các giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện. Chỉ đối với đại diện theo uỷ quyền thì người đại diện mới phải thực hiện quyền đại diện trong phạm vi được uỷ quyền, nên dùng cụm từ vượt quá phạm vi được uỷ quyền là chính xác.

- Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch. 

Trong trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác lập thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện và gây thiệt hại cho người được đại diện thì phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại. 

Ví dụ: A là giám đốc do phải đi công tác nước ngoài nên uỷ quyền cho B một phó giám ký kết hợp đồng với một công ty Hàn Quốc. Trong giấy uỷ quyền ghi rõ B ký kết mua 10 tấn vải lụa của công ty phía hàn quốc. Khi tiến hành đàm phán ký kết B đã xuất trình giấy uỷ quyền cho phía bên đối tác kiểm tra. Hai bên thoả thuận mua bán 20 tấn vải lụa. Hợp đồng được ký và hai bên đã giao nhận hàng và tién hành thanh toán. A về nước mới vỡ lẽ là B đã mua 20 tấn vải nên xin tuyên bố hợp đồng vô hiệu và yêu cầu bên công ty hàn quốc nhận lại số hàng mà B ký vượt quá thầm quyền.

Trong ví dụ trên ta thấy rõ ràng B đã hành động vượt quá phạm vi thẩm quyền của mình (chỉ được kí kết hợp đồng mua 10 tấn vải lụa), phía đối tác Hàn Quốc khi xem giấy uỷ quyền phải biết rõ về việc này hoặc buộc phải biết thẩm quyền kí hợp đồng mua hàng của B cho nên phần nằm ngoài phạm vi uỷ quyền mà A uỷ quyền cho B không có hiệu lực ràng buộc đối với A. 

IV. Chấm dứt đại diện.

Cũng như các quan hệ pháp luật dân sự khác, quan hệ đại diện không tồn tại mãi mãi mà nó sẽ chấm dứt khi xảy ra những sự kiện pháp lý nhất định. Khi chấm dựt đại diện, mọi hậu quả pháp lý phát sinh từ GDDS do người đại diện xác lập, thực hiện đều không có giá trị pháp lý đối với người được đại diện.

a. Đối với cá nhân.

* Theo khoản 1 Điều 147 BLDS 2005 thì đại diện theo pháp luật của cá nhân chấm dứt trong các trường hợp sau:

- Người được đại diện đã thành niên hoặc NLHVDS đã khôi phục. Trong trường hợp này người đại diện đã đầy đủ NLHVDS để tự mình thực hiện quyền, nghĩa vụ và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật, quan hệ đại diện không cần phải tiếp tục tồn tại.

- Người đại diện hoặc người được đại diện chết làm chấm dứt tư cách chủ thể mọi quan hệ pháp luật của họ, trong đó có quan hệ đại diện.

- Các trường hợp khác do pháp luật quy định.

* Theo khoản 2 Điều 147 BLDS 2005 thì đại diện theo ủy quyền của cá nhân chấm dứt trong các trường hợp sau:

- Thời hạn ủy quyền đã hết hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành.

- Người ủy quyền hủy bỏ việc ủy ủy quyền hoặc người được ủy quyền từ chối việc ủy quyền . Trong trường hợp này quan hệ ủy quyền chấm dứt theo ý chí của các chủ thể khi xuất hiện điều kiện để họ hủy hoặc từ chối việc ủy quyền.

- Người ủy quyền hoặc người được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên bố mất NLHVDS, bị hạn chế NLHVDS, bị Tòa án tuyên bố mất tích hoặc tuyên bố chết. Mỗi sự kiện trong số các sự kiện này đều làm cho việc ủy quyền trở nên không thể thực hiện được, quan hệ đại diện phải chấm dứt.

Ví dụ: A uỷ quyền cho B tới đàm phán và ký kết hợp đồng về việc mua bán chiếc xe BMW 3.0 của C. Khi B và C đang đàm phán và chuẩn bị ký hợp đồng thì đột nhiên A chết do tai lạn giao thông. Ta thấy khi A chết thì hợp đồng uỷ quyền giữa A và B đương nhiên chấm dứt, nên cũng sẽ không có hợp đồng nào được giao kết giữa A và C . Ở đây khi mà A chết thì B giao kết hợp đồng mua bán xe với C sẽ chỉ có hiệu lực đối với B mà thôi.

Ngoài ra, xuất phát từ đặc điểm của đại diện theo ủy quyền là người xác lập, thực hiện GDDS vì lợi ích của người được đại diện, đem lại hậu quả pháp lý cho người được đại diện nên khoản 2 Điều 147 BLDS còn quy định khi chấm dứt đại diện theo ủy quyền, người đại diện phải thanh toán các nghĩa vụ với người được đại diện hoặc với người thừa kế của người này.

b. Đối với pháp nhân.

* Theo khoản 1 Điều 148 BLDS 2005 thì đại diện theo pháp luật của pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp sau:

- Hợp nhất pháp nhân, sáp nhập pháp nhân, chia pháp nhân, giải thể pháp nhân, pháp nhân bị tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản. Pháp nhân chấm dứt đồng thời làm chấm dứt đại diện theo pháp luật của pháp nhân.

* Theo khoản 2 Điều 148 BLDS 2005 thì đại diện theo ủy quyền của pháp nhân chấm dứt trong các trường hợp sau:

- Khi hết hạn ủy quyền hoặc công việc được ủy quyền đã hoàn thành.

- Khi người đại diện theo pháp luật của pháp nhân hủy bỏ việc ủy quyền hoặc người được ủy quyền từ chối việc ủy quyền.

- Khi pháp nhân chấm dứt hoặc người được ủy quyền chết, bị Tòa án tuyên bố mất NLHVDS, bị hạn chế NLHVDS, mất tích hoặc là đã chết.

- Khi chấm dứt đại diện theo ủy quyền, nguời đại diện phải thanh toán xong các nghĩa vụ tài sản với pháp nhân ủy quyền hoặc pháp nhân kế thừa.

V. Thực trạng áp dụng.

Đại diện quyền là phương tiện pháp lí cần thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của QHDS, bằng nhiều hình thức khác nhau có thể tham gia vào GDDS một cách thuận lợi nhất, bảo đảm thỏa mãn nhanh chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể quan tâm. Mặc dù pháp luật đã có quy định cụ thể về chế định đại diện, bên cạnh những trường hợp hiểu đúng, áp dụng đúng, đem lại nhiều lợi ích, thuận lợi cho các chủ thể tham gia quan hệ đại diện thì vẫn còn có nhiều trường hợp hiểu sai và áp dụng chưa đúng nhất là khi có tranh chấp xảy ra dẫn đến việc các bên khởi kiện.

- Trường hợp người đại diện theo pháp luật vì lợi ích của người được đại diện để khởi kiện, thì trong bản án phải xác định người được đại diện là nguyên đơn chứ không phải người đại diện là nguyên đơn. Trên thực tế không ít bản án đã xác định nguyên đơn là người đại diện. 

Ví dụ: Bà Nguyễn Thị S và ông Nguyễn Văn C có một con chung là cháu Nguyễn Thị D sinh năm 1988.  Năm 1990 ông C và bà S ly hôn.

Tháng 3/1995 ông C chết. Bảo hiểm tỉnh B đã giải quyết tiền mai táng phí cho anh Nguyễn Thế A (con riêng ông C và là người trực tiếp lo mai táng cho ông C) với số tiền bằng 8 tháng lương của ông C là 960.000đ và lập sổ trợ cấp hàng tháng cho cháu Nguyễn Thị D nhưng do anh A đứng tên trong sổ và lãnh tiền.

Bà S khởi kiện Bảo hiểm xã hội tỉnh B, yêu cầu được nhận số tiến hàng tháng của ông C mà cháu D được hưởng.

Với vụ án trên, người được hưởng quyền lợi là cháu D con bà S và ông C. Bà S là người đại diện cho D kiện Bảo hiểm xã hội tỉnh B để đòi quyền lợi, do đó trong bản án phải xác định cháu D là nguyên đơn do bà S - mẹ của cháu D là người đại diện. Song bản án sơ thẩm số 01/2004/LĐ-ST ngày 09/12/2004 của Toà án nhân dân tỉnh YB lại xác định: nguyên đơn là bà S, bị đơn là Bảo hiểm xã hội tỉnh B.

Do xác định sai tư cách đương sự (nguyên đơn) nên bản án đã quyết định: buộc Bảo hiểm xã hội tỉnh B trả cho bà S số tiền tuất hàng tháng mà cháu D được hưởng.

Quyết định như trên là không chính xác, vì quyết định như trên bà S sẽ là người được sở hữu số tiền mà cháu D được hưởng. Trường hợp này cần phải quyết định: buộc Bảo hiểm tỉnh B trả cho cháu D tiền tuất hàng tháng của ông C mà cháu D được hưởng đến khi 18 tuổi.

- Trường hợp người đại diện theo pháp luật của tổ chức khởi kiện hay bị khởi kiện thì bản án cũng phải xác định tổ chức đó là nguyên đơn hay bị đơn chứ không thể xác định người đại diện theo pháp luật của tổ chức đó là nguyên đơn hay bị đơn.

Thực tế, nhiều bản án đã xác định không đúng tư cách đương sự của các tổ chức khi các tổ chức này tham gia tố tụng.

Ví dụ: Bà Lê Thị Huỳnh M làm việc tại công ty dược phẩm y tế Cửu Long nay là công ty cổ phần Cửu Long từ tháng 10 năm 1979. Năm 1999 bà M xin nghỉ việc 3 tháng để điều trị bệnh. Hết 3 tháng bà M nghỉ luôn đến năm 2002. Bà M xin trở lại làm việc, nếu không bà xin nghỉ theo chính sách dôi dư.

Ngày 01/04/2003 Tổng giám đốc công ty cổ phần Cửu Long ra quyết định số 10/QĐNV cho bà M nghỉ việc theo đơn và được hưởng trợ cấp nghỉ việc 11,5 tháng lương cơ bản của công ty. Bà M khởi kiện cho rằng bà đã bị công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, vì bà M không có đơn xin nghỉ việc. Bà M yêu cầu được trở lại làm việc.

Với vụ án trên, bản án sơ thẩm số 01/2005/LĐST ngày 22/07/2005 của TAND thị xã VL và bản án phúc thẩm số 01/2005/LĐPT ngày 29/09/2005 của TAND tỉnh VL đều xác định:

Nguyên đơn: bà Lê Thị Huỳnh M

Bị đơn: ông Nguyễn Văn H - Tổng giám đốc công ty cổ phần dược phẩm Cửu Long

Người đại diện hợp pháp của bị đơn: ông Đỗ Thanh P – chuyên viên, theo văn bản uỷ quyền ngày 26/09/2003.

Việc xác định tư cách đương sự (bị đơn) trong vụ án trên là không đúng. Dù Tổng giám đốc công ty ra quyết định cho bà M nghỉ việc, xong việc tranh chấp lao động ở đây là tranh chấp giữa người lao động (bà M) với người sử dụng lao động (công ty), Tổng giám đốc chỉ là người đại diện theo pháp luật. Vì vậy phải xác định bị đơn là Công ty cổ phẩn dược phẩm Cửu Long do ông Nguyễn Văn H - Tổng giám đốc công ty đại diện

- Trường hợp đại diện không xác định rõ là đại diện theo pháp luật hay đại diện theo ủy quyền của văn phòng, chi nhánh của pháp nhân. 

Văn phòng, chi nhánh của pháp nhân tham gia các giao dịch dân sự, kinh tế, lao động một cách độc lập theo điều lệ hoặc được uỷ quyền trực tiếp, nhưng nếu xảy ra tranh chấp thì văn phòng, chi nhánh của pháp nhân không phải là đương sự, mà pháp nhân mới là đương sự và người đại diện hợp pháp của pháp nhân mới là người đại diện theo pháp luật, còn người đứng đầu văn phòng, chi nhánh của pháp nhân, nếu tham gia tố tụng chỉ là người đại diện theo uỷ quyền. Thực tế không ít bản án, trên cơ sở đơn khởi kiện của đương sự để xác định tư cách đương sự và tư cách người đại diện mà không làm rõ tổ chức bị kiện đó có tư cách đương sự hay không, từ đó để xác định tư cách người đại diện theo pháp luật hay người đại diện theo uỷ quyền.

Ví dụ: Công ty kim khí vật tư tổng hợp miền Trung (gọi tắt là bên B) do ông Huỳnh Trung Q chức vụ giám đốc làm đại diện đã ký hợp đồng kinh tế số 31/HĐ mua bán thép với Công ty xây lắp vật tư thiết bị sông Đà 16 Quy Nhơn thuộc Tổng công ty xây dựng sông Đà (gọi tắt là bên A) do ông Đặng Văn H chức vụ giám đốc làm đại diện.

Trong quá trình thực hiện hợp đồng, 2 bên phát sinh tranh chấp, bên B kiện bên A ra toà.

Bản án sơ thẩm và phúc thẩm đều xác định: 

Nguyên đơn: Công ty kim khí vật tư tổng hợp miền Trung do ông Huỳnh Trung Q – giám đốc đại diện

Bị đơn: Công ty thiết bị sông Đà 16 do ông Đặng Văn H - giám đốc đại diện

Trong vụ án trên, mặc dù Công ty kim khí vật tư tổng hợp miền Trung khởi kiện Công ty thiết bị sông Đà 16 là người trực tiếp giao kết hợp đồng kinh tế, nhưng công ty này là đơn vị trực thuộc của Tổng công ty xây dựng sông Đà vì vậy, phải xác định Tổng công ty xây dựng sông Đà là bị đơn mới đúng. Giám đốc Công ty thiết bị sông Đà 16 tham gia tố tụng chỉ với tư cách là người đại diện theo uỷ quyền, đòi hỏi phải có giấy uỷ quyền của Tổng giám đốc Tổng công ty xây dựng sông Đà.

VI.  Một số kiến nghị.

- Khi có tranh chấp xảy ra dẫn đến các bên khởi kiện thì cần xác định rõ người đại diện hay người được đại diện là bị đơn hay nguyên đơn để bảo đảm thỏa mãn đúng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể quan tâm.

- Cần có quy định ủy quyền trực tiếp và quy định thời hạn cụ thể cho việc ủy quyền. Thực tế, có những trường hợp không phải ủy quyền trực tiếp 1 lần mà là ủy quyền kế tiếp nhiều lần. Ví dụ: A ủy quyền cho B, sau đó B lại ủy quyền cho C…Thực ra A có thể ủy quyền cho C nhưng trước đó phải chấm dứt uỷ quyền với B. Việc quy định thời hạn chung cho việc ủy quyền nhằm thống nhất quyền và nghĩa vụ của các chủ thể dân sự. Nhiều trường hợp, yếu tố thời gian trong ủy quyền mang tính quyết định về quyền, nghĩa vụ của chủ thể. Ví dụ: Nếu A ủy quyền vô thời hạn cho B sử dụng căn nhà thì rõ ràng ủy quyền này đã biến dạng thành việc chuyển quyền sở hữu căn nhà từ A sang B, hoặc nói cách khác, ủy quyền như vậy không khác là một hợp đồng tặng cho bất động sản giữa A và B. Trong khoản 2 điều 147 và 148  BLDS đã quy định về việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền trong trường hợp “hết thời hạn uỷ quyền”. Quy định như vậy là chưa cụ thể mà cần bổ sung thêm quy định về thời hạn chung cho việc ủy quyền nhiều nhất là 3 năm, nếu trong giấy ủy quyền không ghi uỷ quyền thì chỉ được coi việc ủy quyền này có thời hạn 1 năm.

C. KẾT LUẬN

Từ những phân tích trên ta thấy đại diện là phương tiện pháp lí cần thiết tạo điều kiện cho cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác của QHDS, bằng nhiều hình thức khác nhau có thể tham gia vào GDDS một cách thuận lợi nhất, bảo đảm thỏa mãn nhanh chóng các lợi ích vật chất, tinh thần mà chủ thể quan tâm. Mặc dù pháp luật cho phép mọi cá nhân khi sinh ra đều có khả năng hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ do nhà nước quy đinh, tuy nhiên do những nguyên nhân khách quan, họ không có khả năng biến quyền năng này thành hiện thực thì đại diện sẽ là một trong những giải pháp giúp họ vẫn được hưởng mọi lợi ích từ các giao dịch thông qua người đại diện của mình. Trong đời sống pháp luật dân sự với giao lưu dân sự rất phong phú và đa dạng thì đại diện được coi như là một công cụ hỗ trợ cho các giao lưu này ngày càng phát triển an toàn và hiệu quả. Chế định đại diện không những thỏa mãn quyền , lợi ích hợp pháp giữa các chủ thể mà còn là công cụ pháp lí hữu hiệu để nhà nước kiểm soát quan hệ đại diện theo một trật tự ổn định.

TÀI LIỆU THAM KHÁO

1. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam. Trường Đại học Luật Hà Nội. NXB Công an nhân dân.
2. Lê Đình Nghị (chủ biên). Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 1. NXB Giáo dục, Hà Nội, 2009.
3. Khóa luận tốt nghiệp: Pháp luật về đại diện. Một số vấn đề lí luận và thực tiến. Tác giả: Lê Thị Minh.
4. Bộ luật dân sự năm 2005.
5. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

6. Và các trang web.

No comments:

Post a Comment