11. TỘI ĐÀO NHIỆM
Điều 288. Tội đào nhiệm
1. Người nào là cán bộ, công chức mà cố ý từ bỏ nhiệm vụ công tác gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Lôi kéo người khác đào nhiệm;
b) Phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai hoặc trong những trường hợp khó khăn đặc biệt khác của xã hội;
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm.
Định nghĩa: Đào nhiệm là cố ý từ bỏ nhiệm vụ công tác của cán bộ, công chức gây hậu quả nghiêm trọng
Tội đào nhiệm là tội phạm đã được quy định tại Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy hành vi phạm tội này cũng xảy ra nhiều, nhưng chủ yếu xử lý bằng biện pháp hành chính, rất ít trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự, vì các trường hợp đào nhiệm chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng hoặc việc định hậu quả nghiêm trọng do hành vi này gây ra không được.
So với tội đào nhiệm quy định tại Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985, thì về cơ bản tội đào nhiệm quy định tại Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 không có sửa đổi bổ sung nhiều mà chỉ sửa đổi, bổ sung một số nội dung có tính chất học thuật cho chính xác hơn và phù hợp với Pháp lệnh cán bộ, công chức như:
- Nếu Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “ nhân viên Nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội” thì Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “ cán bộ, công chức”; nếu Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “cố ý rời bỏ nhiệm vụ” thì Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “ cố ý từ bỏ nhiệm vụ công tác”.
- Nếu khoản 1 Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến một năm thì khoản 1 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm;
- Nếu điểm b khoản 2 Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “ phạm tội trong thời chiến” thì diểm b khoản 2 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai, hoặc trong những trường hợp khó khăn đặc biệt khác của xã hội”;
- Nếu điểm c khoản 2 Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định: “ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” thì điểm c khoản 2 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng”;
Hình phạt bổ sung được quy định ngay trong cùng một điều luật.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
Tội đào nhiệm cũng tương tự như tội đào ngũ quy định tại Điều 325 Bộ luật hình sự chỉ khác ở chỗ người phạm tội đào ngũ là quân nhân, còn người phạm tội đào nhiệm là cán bộ, công chức. Tuy nhiên, hành vi đào nhiệm rộng hơn hành vi đào ngũ. Đào ngũ là bỏ hẳn đơn vị, còn đào nhiệm có thể bỏ hẳn cơ quan, tổ chức nhưng cũng có thể chỉ bỏ nhiệm vụ được giao trong một thời gian nhất định.
1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội phạm
Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ khác, chủ thể của tội “ đào nhiệm” cũng là chủ thể đặc biệt, chỉ có cán bộ, công chức mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
Theo Điều 1 Pháp lệnh Công chức của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 26-2-1998, thì cán bộ, công chức gồm:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ nhất định theo nhiệm kỳ trong các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước; mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng;
- Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
Để cụ thể hoá Pháp lệnh Công chức trên, ngày 17-11-1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 95-1998/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức và tại Điều 1 của Nghị định quy định định: Công chức bao gồm những người đã được quy định tại khoản 3 và khoản 5 Điều 1 Pháp lệnh Cán bộ, công chức. Cụ thể là:
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, làm việc trong các cơ quan: Văn phòng Chủ tịch nước; Văn phòng Quốc hội; Cơ quan hành chính Nhà nước ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Toà án nhân dân, Viện Kiểm sat nhân dân các cấp; Cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; Trường học, bệnh viện, cơ quan nghiên cứu khoa học của Nhà nước; Cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của Nhà nước; Thư viện, bảo tàng, nhà văn hoá của Nhà nước; Các tổ chức sự nghiệp khác của Nhà nước.
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên quốc phòng làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội đào nhiệm là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức liên quan đến việc quản lý cán bộ, công chức; làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức; gây ra hậu quả nghiêm trọng cho chính các cơ quan, tổ chức có người đào nhiệm và cho xã hội.
3. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Có thể nói, tội phạm này chỉ có một hành vi khách quan duy nhất là “từ bỏ nhiệm vụ công tác”; biểu hiện của hành vi này cũng đa dạng như: Bỏ hẳn cơ quan, tổ chức mà mình là cán bộ, công chức; không thực hiện nhiệm vụ được giao và những hành vi khác từ bỏ nhiệm vụ công tác của mình.
Bỏ cơ quan, tổ chức mà mình là cán bộ, công chức là tự ý bỏ việc để đến làm việc ở cơ quan, tổ chức khác không được sự đồng ý của người có thẩm quyền. Thông thường trường hợp này, người phạm tội từ bỏ luôn chức danh “cán bộ, công chức” để làm một việc có thu nhập cao hơn như: bỏ cơ quan Nhà nước để làm kinh tế tư nhân; bỏ Bệnh viện ra thành lập trung tâm khám chữa bệnh tư nhân.v.v.. Hành vi này tương tự như hành vi đào ngũ trong tội đào ngũ, tức là bỏ luôn cơ quan, tổ chức và không công tác ở cơ quan, tổ chức mà mình là cán bộ, công chức nữa. Loại hành vi này dễ xác định. Tuy nhiên, trong trường hợp cán bộ, công chức đã làm đơn xin nghỉ việc hoặc đã thông báo xin nghỉ việc cho người có trách nhiệm trong cơ quan, tổ chức mà mình công tác nhưng đã hết thời hạn giải quyết mà cơ quan, tổ chức không trả lời cho cán bộ, công chức mà cán bộ, công chức đó tự bỏ việc thì không coi là đào nhiệm. Nếu đã có thông báo của cơ quan, tổ chức không đồng ý cho cán bộ, công chức nghỉ việc mà cố tình bỏ việc gây hậu quả nghiêm trọng thì vẫn có thể coi là đào nhiệm.
Hành vi không thực hiện nhiệm vụ được giao là hành vi từ bỏ nhiệm vụ công tác mà theo quy định thì người cán bộ, công chức này phải có trách nhiệm thực hiện như: Một giáo viên dạy toán được phân công lên vùng cao công tác, nhưng được một năm, người giáo viên này đã bỏ về quê vì không chịu được khó khăn dẫn đến thiếu giáo viên phải cho 4 lớp 9 phải nghỉ học môn toán ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng học tập, cả 4 lớp 9 của trường không đủ điều kiện thi tốt nghiệp phổ thông cơ sở.
Khi xác định hành vi từ bỏ nhiệm vụ ở dạng không thực hiện nhiệm vụ được giao cần chú ý phân biệt với hành vi thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng của những người có chức vụ, quyền hạn vì nhất thời bỏ vị trí công tác nên gây ra hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ: Một bác sĩ trực đã bỏ vị trí đi chơi nên dẫn đến hậu quả có một bệnh nhân cấp cứu không được cứu chữa kịp thời đã tử vong, người bác sĩ này tuy có hành vi từ bỏ nhiệm vụ công tác nhưng không phải là hành vi đào nhiệm mà chỉ là hành vi thiéu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.
Nhiệm vụ công tác mà người phạm tội cố ý từ bỏ là nhiệm vụ mà theo pháp luật hoặc theo điều lệ của cơ quan, tổ chức giao thường xuyên hoặc đột xuất. Dù là thường xuyên hay nhiệm vụ đột xuất thì nhiệm vụ đó phải là nhiệm vụ công (công vụ). Đây là dấu hiệu rất quan trọng để xác định người từ bỏ nhiệm vụ có phải là người đào nhiệm hay không. Nếu nhiệm vụ mà người từ bỏ không phải là nhiệm vụ công thì người có hành vi từ bỏ không phải là đào nhiệm mà tuỳ trường hợp cụ thể người đó chỉ vi phạm luật lao động.
b. Hậu quả
Hậu quả của hành vi đào nhiệm là những thiệt hại về vật chất và phi vật chất cho cơ quan, tổ chức và cho con người.
Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này, nếu đào nhiệm mà chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng, thì chưa cấu thành tội phạm. Nếu gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 2 của điều luật.
Cũng như đối với các tội phạm về chức vụ, chưa có hướng dẫn thế nào là hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra, nên việc xác định thiệt hại tới mức nào là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra cũng là một vấn đề rất phức tạp. Tuy nhiên, trong khi chưa có hướng dẫn cụ thể, chúng ta cũng có thể vận dụng Thông tư liên tịch số Số: 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 về các trường hợp hậu quả nghiêm trọng để xác định trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đối với hành vi đào nhiệm. Tuy nhiên, trong từng trường hợp cụ thể, việc xác định hậu quả nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra, nhất là đối với những thiệt hại phi vật chất, cần phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể trong một trường hợp cụ thể để xác định hậu quả nghiêm trọng.
4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm
Tuy điều văn của điều luật quy định người phạm tội cố ý từ bỏ nhiệm vụ công tác, nhưng hậu quả nghiêm trọng gây ra người phạm tội không mong muốn, họ có thể bỏ mặc hoặc không quan tâm đến hậu quả, họ chỉ cố ý thực hiện hành vi (từ bỏ nhiệm vụ ) còn hậu quả như thế nào họ không quan tâm, có trường hợp người phạm tội không biết hậu quả xảy ra hay không, tức là người phạm tội tuy thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xẩy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, hoặc không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Như vậy, người phạm tội đào nhiệm thực hiện hành vi do cố ý nhưng tội phạm này được thực hiện do cố ý hay vô ý là một vấn đề cần trao đổi.
Có ý kiến cho rằng, người phạm tội đào nhiệm thực hiện hành vi của mình do cố ý vì trước hết người phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi đào nhiệm, mặc dù người phạm tội không mong muốn cho hậu quả xảy ra nhưng chí ít cũng bỏ mặc cho hậu quả xảy ra.
Có ý kiến khác cho rằng, tuy người phạm tội cố ý thực hiện hành vi nhưng không mong muốn và cũng không bỏ mặc cho hậu quả xảy ra nên không phải là cố ý phạm tội, trường hợp phạm tội này cũng như trường hợp người lái xe cố ý đi vào đường ngược chiều gây tai nạn làm chết người.
Có thể còn ý kiến khác nhau về lỗi của người phạm tội đào nhiệm, nhưng dù sao chúng ta có thể khẳng định rằng, người phạm tội đã cố ý thực hiện hành vi đào nhiệm, còn thái độ của người phạm tội đối với hậu quả là bàng quang bỏ mặc, do đó theo chúng tôi, người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội này là do cố ý (cố ý gián tiếp).
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội đào nhiệm không có các tình tiết định khung hình phạt
Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 288 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội đào nhiệm. So với tội đào nhiệm quy định tại khoản 1 Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 1 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 nặng hơn, vì khoản 1 Điều 288 quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm, trong khi đó khoản 1 Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 chỉ quy định hình phạt cải tạo không giam giữ đến một năm. Mặt khác, nếu so sánh Điều 225 Bộ luật hình sự năm 1985 với Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999, thì Điều 288 cũng là điều luật nặng hơn. Vì vậy, đối với hành vi đào nhiệm xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới phát hiện, xử lý thì không áp dụng khoản 1 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
Khi áp dụng khoản 1 Điều 288 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ. Nếu không đủ điều kiện áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo hoặc áp dụng mức thấp nhất của khung hình phạt ( ba tháng tù). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới ba năm tù.
2. Phạm tội đào nhiệm thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 288 Bộ luật hình sự
a. Lôi kéo người khác đào nhiệm
Lôi kéo người khác đào nhiệm là bằng mọi cách để người khác nghe theo và đứng về phía mình, cùng mình đào nhiệm.
Cách thức mà người phạm tội sử dụng có thể là hăm doạ, dụ dỗ, mua chuộc... để người khác cùng đào nhiệm với mình.
Nếu người phạm tội dùng vũ lực, khống chế làm cho người khác tê liệt ý chí, không có khả năng kháng cự phải cùng đào nhiệm với mình thì không phải là lôi kéo, mà tuỳ trường hợp người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội bắt người trái pháp luật hoặc các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người.
Nếu người phạm tội đã thực hiện hành vi lôi kéo, nhưng người bị lôi kéo không nghe theo và không đào nhiệm, thì về nguyên tắc, người phạm tội vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tình tiết “lôi kéo người khác đào nhiệm” nhưng ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.
b. Phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai hoặc trong những trường hợp khó khăn đặc biệt khác của xã hội
Điểm b khoản 2 của điều luật quy định ba tình tiết là yếu tố định khung hình phạt, đó là: Phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh; phạm tội trong hoàn cảnh thiên tai và phạm tội trong những trường hợp khó khăn đặc biệt khác. Do đó, khi áp dụng điểm b khoản 2 của điều luật cần chú ý:
Chỉ cần người phạm tội có một trong ba tình tiết là yếu tố định khung hình phạt nêu trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 2 Điều 288 Bộ luật hình sự.
Người phạm tội trong hoàn cảnh nào, thì xác định trong hoàn cảnh đó, không xác định một cách chung chung; trong bản án cần xác định rõ người phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh, thiên tai hay trong hoàn cảnh đặc biệt khác của xã hội.
Điểm b khoản 2 của điều luật quy định “phạm tội trong hoàn cảnh...” nên khi xác định tình tiết này cần phân biệt với một số trường hợp đối với một số tội phạm khác có quy định tình tiết: “lợi dụng hoàn cảnh...”. Người phạm tội đào nhiệm không đòi hỏi họ phải “lợi dụng hoàn cảnh”, mà chỉ cần xác định họ đào nhiệm “trong hoàn cảnh...” là thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 288 Bộ luật hình sự.
Phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh
Đào nhiệm trong hoàn cảnh chiến tranh là trường hợp cán bộ, công chức đang thực hiện nhiệm vụ ở nơi có chiến sự xảy ra đã từ bỏ nhiệm vụ của mình. Người phạm tội có thể bỏ nơi đang có chiến sự về nơi không có chiến sự hoặc tuy vẫn ở nơi có chiến sự nhưng từ bỏ nhiệm vụ được giao.
Hiện nay đất nước không có chiến tranh, nên tình tiết này nhà làm luật quy định có tính chất dự phòng. Tuy nhiên, nếu cán bộ, công chức được nhận nhiệm vụ làm chuyên gia cho nước bạn, mà nước đó có chiến tranh xảy ra, chưa được sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền mà người cán bộ, công chức đó từ bỏ nhiệm vụ để về nước hoặc chạy sang nước khác, thì vẫn bị coi là đào nhiệm trong hoàn cảnh chiến tranh.
Phạm tội trong hoàn cảnh thiên tai
Đào nhiệm trong hoàn cảnh thiên tai là trường hợp cán bộ, công chức đang thực hiện nhiệm vụ ở nơi có thiên tai đã từ bỏ nhiệm vụ của mình.
Thiên tai là nhưng tai hoạ do thiên nhiên gây ra, thiên tai bao giờ cũng gây ra nhưng khó khăn cho xã hội. Những khó khăn này phải đáng kể nếu không nói là đặc biệt, như bị bão lụt, bị động đất. Trong lúc Nhà nước đang cần sức người, sức của để giả quyết những hậu quả do thiên tai gây ra thì cán bộ, công chức lại từ bỏ nhiệm vụ của mình ở nơi có thiên tai, càng làm cho tình hình gặp khó khăn hơn.
Phạm tội trong những trường hợp khó khăn đặc biệt khác của xã hội
Ngoài khó khăn do thiên tai, địch hoạ, gây nên, còn có những khó khăn đặc biệt khác. Những khó khăn này, có thể xảy ra ở từng nơi, vào từng lúc. Có thể xảy ra ở một địa bàn rộng, nhưng cũng có thể xảy ra ở một làng, một xã, một cơ quan, xí nghiệp trường học v.v... Ví dụ: Nguyễn Xuân K là bác sỹ bệnh viện B được phân công cùng với Đoàn cán bộ y tế đến khắc phục hậu quả do dịch bệnh gây nên ở huyện M tỉnh H, nhưng do không chịu được khó khăn, nên K đã bỏ về, gây khó khăn cho việc cứu chữa các bệnh nhân bị dịch bệnh.
Khó khăn đặc biệt, thể hiện ở mức độ và phạm vi gây thiệt hại đến người và tài sản. Việc khắc phục đòi hỏi phải tập trung sức người, sức của và phải kịp thời, cấp bách như: Dịch bệnh, tai nạn máy bay, tàu biển, tàu hoả gây chết nhiều người, hư hại nhiều tài sản, những khó khăn đặc biệt do công tác quản lý Nhà nước, quản lý xã hội gây nên mà nhà làm luật chưa dự tính được.
c. Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng
Đào nhiệm gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng là trường hợp do đào nhiệm mà đã gây ra những thiệt hại rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội. Những thiệt hại này có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; thiệt hại về tài sản và những thiệt hại khác.
Điểm c khoản 2 của điều luật cũng quy định hai tình tiết là yếu tố định khung hình phạt nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm khác nhau. Nếu xét về kỹ thuật lập pháp thì cách quy định này chưa thật khoa học. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cần phân biệt hai trường hợp phạm tội này để quyết định hình phạt cho chính xác.
Cũng như trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra, chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra. Mặt khác, thực tiễn xét xử cũng chưa có trường hợp đào nhiệm nào gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để chúng ta có thể tham khảo. Tuy nhiên, như đối với trường hợp đào nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, khi chưa có hướng dẫn chính thức thế nào là gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra, chúng ta có thể tham khảo Thông tư liên tịch số Số: 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu" của Bộ luật hình sự năm 1999 về các trường hợp hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng để xác định trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng đối với hành vi đào nhiệm. Tuy nhiên, trong từng trường hợp cụ thể, việc xác định hậu quả rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do hành vi đào nhiệm gây ra, nhất là đối với những thiệt hại phi vật chất, cần phải căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể trong một trường hợp cụ thể để xác định hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Khi áp dụng khoản 2 Điều 288 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng, phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt ( dưới hai năm tù). Nếu không đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì có thể cho người phạm tội được hưởng án treo. Nếu thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 của điều luật, người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể thì có thể bị phạt tới bảy năm tù.
3. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội đào nhiệm
Ngoài hình phạt chính người phạm tội Người phạm tội đào nhiệm còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.
So với quy định tại Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt bổ sung đối với tội phạm này, thì hình phạt bổ sung đối với tội đào nhiệm quy định tại khoản 3 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi, bổ sung như sau:
- Nếu Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “có thể bị cấm đảm nhiệm những chức vụ nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 3 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm”.
- Nếu căn cứ vào mức hình phạt thì khoản 3 Điều 288 nhẹ hơn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng căn cứ vào nguyên tắc áp dụng hình phạt này thì khoản 3 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định không có lợi cho người phạm tội vì việc áp dụng hình phạt cấm đảm chức vụ đối với người phạm tội là bắt buộc “bị cấm”, còn Điều 229 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định không bắt buộc Toà án phải áp dụng “có thể bị cấm”.
Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 3 Điều 288 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội
No comments:
Post a Comment