29/09/2014
Đánh giá về chế độ tài sản giữa vợ và chồng trong thời kì hôn nhân của bộ quốc triều hình luật - 9 điểm
Bài tập học kỳ Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam có đáp án.

Trong suốt 360 năm dài tồn tại, triều đại nhà Lê đã để lại cho hậu thế những thành tựu to lớn trên lĩnh vực pháp luật và điển chế.


Trong suốt 360 năm dài tồn tại, triều đại nhà Lê đã để lại cho hậu thế những thành tựu to lớn trên lĩnh vực pháp luật và điển chế. Trong số các thành tựu đó phải kể đến Quốc triều hình luật – Bộ luật quan trọng, chính thống nhất của Triều Lê. Quốc triều hình luật cũng chính là bộ luật cổ xưa nhất mà chúng ta còn lưu giữ được đầy đủ cho đến ngày nay. Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết lí Nho giáo – hệ tư tưởng thống trị trong xã hội thời Lê cũng như ảnh hưởng của các bộ luật Trung Quốc (luật nhà Đường, luật nhà Minh) nhưng nhà làm luật thời Lê đã biết tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo pháp luật Trung Quốc đồng thời kết hợp với các phong tục, tập quán đặc thù của xã hội Việt Nam, hòa nhập chúng với hệ thống pháp luật, tạo nên nét riêng biệt độc đáo của bộ luật. Trong đó phải kể đến chế độ tài sản giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân – một chế định đặc sắc được quy định quy định tương đối cụ thể thể hiện gián tiếp thông qua các điều 374, 375, 376 ở chương Điền sản.


Theo như các quy định tại các điều 374, 375, 376 thì tài sản vợ chồng bao gồm tài sản riêng của mỗi người được thừa kế từ gia đình và tái sản chung vợ chồng cùng làm ra trong thời kỳ hôn nhân. Sự quy định rõ thành phần khối tài sản chung, riêng rõ ràng của vợ chồng là điểm rất tiến bộ và độc đáo của pháp luật nhà Lê và nó vẫn được tiếp thu trong việc xây dựng pháp luật hiện nay. Phản ánh một cách khá trung thực và điều chỉnh một cách hợp lí mối quan hệ giữa vợ và chồng phù hợp với thực tế xã hội Việt Nam, địa vị pháp lí của người vợ được cải thiện hơn hẳn so với các quan niệm Nho giáo qua việc thừa nhận quyền bình đẳng về tài sản giữa vợ và chồng. 

Lần đầu tiên, pháp luật công nhận công nhận công lao đóng góp vào vào việc tạo ra tài sản chung của vợ chồng (tài sản vợ chồng làm ra trong thời gian hôn nhân) từ đó công nhận quyền sở hữu của người vợ đối với một nửa tài sản hai vợ chồng làm ra thể hiện qua các quy định tại điều 374: “…Nếu điền sản là của chồng và vợ trước làm ra thì chia làm hai phần, vợ trước và chồng mỗi người một phần, phần của vợ trước thì để riêng cho con, còn phần chồng lại chia như trước. Nếu điền sản là của chồng và vợ sau làm ra, thì cũng chia làm hai phần, chồng và vợ sau mỗi người một phần, phần của chồng thì chia như trước, còn phần của vợ sau thì được nhận làm của riêng…”(1) và điều 375: “…còn điền sản của vợ chồng lẩm thì chia làm hai, vợ chồng mỗi người được một phần; phần của vợ được nhận làm của riêng…”(2). Việc chia đôi khối tài sản chung chứng tỏ rằng sự đóng góp của người vợ vào khối tài sản chung là ngang bằng với người chồng. Sự bình đẳng đó còn thể hiện ở quyền định đoạt tài sản chung. Việc đứng tên đồng chủ thể trong khối tài sản chung là cơ sở để tạo ra các năng lực pháp lý dân sự của người phụ nữ. Pháp luật đòi hỏi phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng trong việc chuyển nhượng tài sản chung cho người khác. “Điều đó được minh chứng qua các bằng chứng là các văn tự bán tài sản có chữ ký của cả vợ chồng hoặc các tờ mẫu văn tự về bán, câm cố, trao đổi các tài sản thực thụ và các điền nô ở thời nhà Lê bao giờ cũng đòi hỏi sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng”(1). 

Ta thấy rằng pháp luật triều Lê đã có quy định bảo vệ cho quyền lợi của người phụ nữ rất tiến bộ và gần với pháp luật hiện đại – Điều chưa từng có trong pháp luật phong kiến Việt Nam thời Lý – Trần trước đó cũng như triều Nguyễn sau này và cũng không có trong pháp luật phong kiến Trung Quốc mà đặc biệt là nhà Đường là triều đại thịnh trị nhất của Trung Quốc trong lịch sử. Phải thấy được rằng Quốc triều hình luật đã phản ánh một nét tư duy tân kỳ mới lạ chưa từng có trong lịch sử. Vậy tại sao mà một triều đại phong kiến chịu ảnh hưởng rất nhiều của phong kiến Trung Quốc với tư tưởng Nho giáo là chủ đạo lại có thể có những nét sáng tạo độc đáo và tân tiến đến vậy – Điều mà các nhà lập pháp phong kiến phương Đông cũng như phương Tây chưa bao giờ đạt tới được? Đây là một vấn đề thu hút các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa cũng như các nhà nghiên cứu pháp luật.  Thứ nhất, gia đình của người Việt là một nhân tố quan trọng quyết định. Nếu như ở Trung Quốc tồn tại các gia đình đa thế hệ với những dòng họ lớn mà quyền quyết định các việc trọng đại trong gia đình đều đặt trong tay người gia trưởng (thường là trưởng tộc hay người chồng, người cha trong gia đình), vợ chồng trẻ tuổi thường bị phụ thuộc thì ở Việt Nam trên nguyên tắc xây dựng những gia đình lớn nhưng chủ yếu là gia đình nhỏ (3 thế hệ: vợ chồng, các con, cha mẹ), hay gia đình hạt nhân chỉ gồm 2 thế hệ. Do vậy, trong gia đình truyền thống Việt Nam vợ chồng có thể độc lập quyết định những công việc quan trọng như các vấn đề phát sinh trong các quan hệ xã hội hàng ngày hay những vấn đề cần giải quyết bằng tiền bạc. Lúc này vợ chồng cùng đứng ra bàn bạc, cùng giải quyết. Trên cơ sở tôn trọng các tập quán đó của người Việt, pháp luật đã có những quy định thể hiện quyền của người vợ mà quan trọng nhất là quyền quyết định đối với tài sản chung của gia đình.

Thứ hai, chiến tranh cũng đóng vai trò đáng kể tác động đến việc điều chỉnh của pháp luật. Nước Việt ta là một nước nhỏ, thường xuyên phải đối mặt với các cuộc chiến tranh xâm lược từ các thế lực thù địch bên ngoài, đặc biệt là một nước lớn như Trung Quốc vấn thường xuyên dòm ngó mảnh đất Đại Việt màu mỡ. Do vậy, đàn ông phải đi lính bảo vệ đất nước. Số người chết, thương vong không phải là ít. Trong khi đó, chỉ còn phụ nữ, trẻ em và người già ở lại nhà chăm lo việc sản xuất cung cấp lương thảo gửi ra chiến trường đồng thời chăm lo cuộc sống gia đình. Vai trò của người phụ nữ Việt Nam thời kỳ này thật không nhỏ. Thấy được những điều đó, pháp luật triều Lê đã rất công bằng khi thừa nhận vai trò của người phụ nữ trong tài sản chung của gia đình mà có lẽ phần nhiều do họ làm ra.

Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định quyền sở hữu và định đoạt đối với tài sản riêng thể hiện tại điều 376: “vợ chồng đã có con, nếu một người chết trước sau đó con cũng lại chết thì điền sản thuộc về chồng hay vợ…”, nếu vợ chết trước thì “điền sản của vợ chia làm ba, để cho chồng hai phần, cho người họ (người thừa tự) một phần. Cha mẹ còn sống thì chia làm hai, thuộc về cha mẹ một phần, thuộc về chồng một phần, phần của vợ chỉ để nuôi một đời, không được nhận làm của riêng, chồng chết thì phần ấy thuộc về cha mẹ hay người thừa tự. Chồng chết trước thì vợ cũng thế, cải giá thì phải trả lại”.(1) Tài sản riêng của vợ chồng là những tài sản của mỗi bên vợ chồng có trước khi kết hôn, do được thừa kế từ gia đình mỗi người. Đối với những tài sản này, vợ, chồng đều có quyền sở hữu riêng rẽ, mặc dù những tài sản này được quản lí chung bởi vợ chồng và các lợi tức của nó là tài sản chung. Những tài sản này chỉ gộp vào để quản lí chung trong thời kỳ hôn nhân. Người chồng không có quyền chiếm dụng tài sản mà vợ thừa kế từ dòng họ mình và ngược lại. 


Sự thừa nhận quyền sở hữu tài sản riêng là một điểm tiến bộ của Quốc triều hình luật mà ta không thể tìm thấy trong pháp luật phong kiến Trung Quốc. Có sự khác biệt đó là do ở Trung Quốc con gái không có quyền thừa kế tài sản mà chỉ có của hồi môn khi đi lấy chồng còn ở Việt Nam thì quyền thừa kế của con tai và con gái là như nhau, thậm chí con gái có thể thừa kế hương hỏa. Để đảm bảo tài sản hương hỏa không bị chuyển giao cho dòng họ khác kho con gái đi lấy chồng, cách tốt nhất là thừa nhận quyền sở hữu đối với tài sản riêng của người vợ. Điều này hoàn toàn phù hợp với phong tục tập quán Việt Nam là tài sản hương hỏa chỉ dùng để thờ cúng tổ tiên nên không thể giao cho người khác họ. Ở thế kỷ 15 mà nhà lập pháp nước ta đã có tư duy pháp lý thật hợp tình, hợp lý, phù hợp với đạo đức của chế độ phong kiến thời bấy giờ. Theo Vũ Văn Mẫu thì “các tòa án ở Nam việt thường hay căn cứ vào các điều này để phân xử các vụ kiện liên quan đến tài sản của vợ chồng”. Tuy nhiên ta vẫn nhận thấy điểm hạn chế là Quốc triều hình luật đã không quy định cụ thể  về quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ và chồng. Do sự ảnh hưởng của chế độ gia đình phụ quyền và yếu tố gia đình gia trưởng của Nho giáo và tập quán mà người vợ không có toàn quyền định đoạt tài sản trong gia đình. Trong các giao dịch dân sự người vợ chỉ đứng tên cùng với chồng mà thôi. Việc định đoạt vấn chủ yếu do người chồng, người vợ chỉ được toàn quyền định đoạt khi có sự cho phép của chồng. Pháp luật không can thiệp, vì vậy không có cơ sở để giải quyết tranh chấp. Do đó khi cần thiết phải điều chỉnh bằng các chỉ dụ riêng lẻ, không có tính hệ thống và tính pháp điển hóa cao.  Mặc dù còn tồn tại nhiều hạn chế nhưng việc nhà Lê đã bắt đầu nhận thấy vai trò lớn lao của người phụ nữ trong sản xuất và trong cuộc sống thể hiện trong pháp luật là tấm gương cho việc học tập, nghiên cứu và xây dựng hệ thống pháp luật nước ta hiện nay. Đảm bảo các quyền sở hữu tài sản của người phụ nữ trong hôn nhân và suy rộng ra là đảm bảo các quyền lợi ích của người phụ nữ là yếu tố quan trọng quyết định tính dân chủ, bình đẳng trong xã hội. Uy tín, tinh thần những điều khoản luật Hồng Đức vẫn còn sống mãi trong dân gian. Tuy rằng bộ luật nhà Nguyễn ảnh hưởng sâu đậm ở luật nhà Thanh, nhưng thực tế cho thấy ở xã hội Việt Nam từ thời Lê cho đến về sau này, địa vị người phụ nữ vẫn được bảo vệ, như quyền thừa kế, quyền thờ cúng ông bà với tư cách người vợ, người con gái trong gia đình. Người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn luôn giữ được quyền bình đẳng đối với nam giới, tuy nhiều khi không được chính thức. Những quy định tương đối tiến bộ, công nhận cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến quyền định đoạt đối với tài sản của mình trong gia đình của bộ luật đã phần nào bảo vệ người phụ nữ trước thái độ “trọng nam khinh nữ”... tiền đề cho việc bảo đảm các quyền lợi của người phụ nữ trước đây và cả sau này nữa.

No comments:

Post a Comment