19/08/2015
Điều kiện nuôi con nuôi của người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi
Bài tập học kỳ Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam.

A. MỞ ĐẦU.

Pháp luật Việt Nam ghi nhận và khuyến khích việc nuôi con nuôi trong nước giữa công dân Việt Nam với nhau và đặc biệt Nhà nước ta đã đưa ra nhiều giải pháp để đảm bảo cho trẻ em được nuôi dưỡng trong môi trường tốt nhất. Giải pháp nuôi con nuôi được áp dụng trong trường hợp cha mẹ đẻ không có đủ điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc con cái hay cơ sở nuôi dưỡng, các trung tâm nuôi trẻ mồ côi ở trong nước không đáp ứng được ( quá tải,…). Nếu chọn giải pháp nuôi con nuôi, trước tiên cần phải ưu tiên cho giải pháp nuôi con nuôi trong nước, vì như vậy về cơ bản trẻ em vẫn được sinh sống tại môi trường văn hóa của mình ( ngôn ngữ, hoàn cảnh địa lí, tâm lí dân tộc…). Nếu giải pháp nuôi con nuôi quốc gia cũng không thực hiện được ( không có hoặc không thể tìm được gia đình nuôi thích hợp ngay tại nước mình ) thì mới xem xét, tính đến giải pháp nuôi con nuôi quốc tế. Bởi vì, việc dịch chuyển trẻ em đến một môi trường khác lạ về văn hóa, ngôn ngữ, điều kiện sống… không phải là việc làm tốt cho sự phát triển về tâm sinh lí của trẻ em, nhất là đối với những trẻ em lớn tuổi.

Như vậy, giải pháp nuôi con nuôi quốc tế là giải pháp cuối cùng và giải pháp này có lợi là đem lại một gia đình ổn định cho trẻ em trong trường hợp không thể tìm được gia đình thích hợp cho trẻ em ngay tại nước mình. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã xây dựng các quy phạm pháp luật để giải quyết một số vấn đề trong lĩnh vực nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trong đó có vấn đề về điều kiện nhận nuôi con nuôi. Bài viết dưới đây xin được trình bày về vấn đề này và một số vấn đề còn tồn tại, hướng khắc phục.

B. NỘI DUNG

I. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, khoản 14 Điều 8 quy định: 

“Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:

a) Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;

b) Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;

c) Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoai”. 

Từ khái niệm quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài nêu trên có thể đưa ra khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như sau:

“Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.” 

II. Cơ sở pháp lí.

Vấn đề nuôi con nuôi nói chung là vấn đề mang tính xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc mà mục đích cơ bản là nhằm tạo cho những đứa trẻ thiệt thòi thiếu vắng tình thương yêu của cha mẹ và những người thân một mái ấm gia đình thay thế. Dưới góc độ pháp lí, đây là vấn đề được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam đặc biệt quan tâm. Chế định nuôi con nuôi nói chung, quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, chính vì thế được quy định trong các văn bản pháp luật quan trọng của Việt Nam. Tuy nhiên, quy định về điều kiện của người nước ngoài được nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi cũng không phải là trường hợp ngoại lệ mà được quy định tại các văn bản pháp luật cụ thể sau:

1. Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm2000 ( Điều 69, điều 105).

2. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ Hôn nhân và gia đìnhcó yếu tố nước ngoài. 

3. Nghị định của Chính phủ số 69/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2006 sửa đổi, bổ sung một số điềucủa. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ Hôn nhân và gia đìnhcó yếu tố nước ngoài. 

III. Điều kiện của người nước ngoài được nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi theo quy định của pháp luật Việt Nam. 

Từ những văn bản pháp luật trêncó thể đưa ra một số điều kiện sau :

1. Người nhận nuôi phải đáp ứng được điều kiện pháp luật của nước mà người đó là công dân. 

Khoản 1 Điều 105 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định: “ Người nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam hoặc nhận trẻ em nước ngoài thường trú tại Việt Nam làm con nuôi phải tuân theo quy định của Luật này và quy định trong pháp luật của nước mà người đó là công dân về điều kiện nhận nuôi con nuôi”.

Theo quy định này, người nước ngoài có quốc tịch của một nước thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ áp dụng Luật quốc tịch để xác định điều kiện nhận nuôi con nuôi. Nhưng nếu người nước ngoài là người có hai hay nhiều quốc tịch hoặc người không quốc tịch thì trong trường hợp này cần chọn pháp luật áp dung đối với họ để xác định điều kiện nhận nuôi con nuôi. 

- Theo pháp luật Việt Nam, căn cứ chọn pháp luật áp dụng đối với người nước ngoài có nhiều quốc tịch nước ngoài trong quan hệ nuôi con nuôi được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 80 Nghị định số 68/CP ( quy định về giấy tờ đối với người không quốc tịch, người có hai hay nhiều quốc tịch). Theo đó pháp luật áp dụng đối với người có hai hay nhiều quốc tịch nước ngoài là pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch đồng thời thường trú, nếu người đó không thường trú tại một trong các nước có quốc tịch thì theo pháp luật của nước mà người đó mang hộ chiếu. Cách giải quyết của pháp luật Việt Nam đối với người nhiều quốc tịch có thể được đánh giá là phù hợp với pháp luật một số nước trên thế giới.

- Đối với người nước ngoài không quốc tịch, căn cứ chọn pháp luật điều chỉnh đối với người không quốc tịch trong quan hệ nuôi con nuôi được quy định tại khoản 3 Điều 80 Nghị định số 68/CP. Theo đó, việc người không quốc tịch thường trú tại Việt Nam xin nhận trẻ em Việt Nam hoặc trẻ em không quốc tịch thường trú tại Việt Nam làm con nuôi sẽ theo các quy định về nuôi con nuôi trong nghị định số 68/CP. Các loại giấy tờ để họ sử dụng trong việc đăng kí nuôi con nuôi, sẽ do cơ quan có thẩm quyền của nước nơi người đó thường trú cấp. Đồng thời, Nghị định số 68/CP chỉ rõ: “Người không quốc tịch là người không cs quốc tịch Việt Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài, đang làm an và sinh sống ổn định lâu dài tại Việt Nam” ( khoản 4 Điều 9). 

Về điều kiện đối với người nhận nuôi theo khoản 1 Điều 105 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, điều kiện đối với người nhận nuôi phải tuân theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và theo quy định trong pháp luật của nước mà người đó là công dân. Như vậy, pháp luật Việt Nam đã kết hợp giữa nguyên tác nơi cư trú và nguyên tác quốctịch để điều chỉnh điều kiện của người nhận nuôi.

2. Người nhận nuôi phải tuân theo điều kiện của pháp luật nước gốc ( pháp luật mà nơi đứa trẻ sinh sống _Việt Nam).

Điều 69 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi.

Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:

1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

2. Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;

3. Có tư cách đạo đức tốt;

4. Có điều kiện thực tế bảo đảm việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;

5. Không phải là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý sâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc, hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối vơis trẻ em có hành vi xúi dục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. 

Qua điều này có thể thấy đây là những quy định hết sức cần thiết nhằm khẳng định tư cách đạo đức, ý thức pháp luật, điều kiện về thời gian, về kinh tế của người nuôi con nuôi, đảm bảo cho con nuôi được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt nhất, được lớn lên trong môi trường gia đình lành mạnh.Vì vậy, về nguyên tắc, khi nhận nuôi con nuôi người nhận nuôi phải có đủ các điều kiện đó. Nếu vợ, chồng cùng nhận nuôi con thì cả vợ và chồng đều phải có đủ các điều kiện theo luật quy định (Điều 70 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, khoản 2 Điều 37 nghị định số 68/CP ).

3. Người nhận nuôi phải thường trú tại nước mà nước đó đã có quan hệ hợp tác với Việt Nam về nuôi con nuôi.

Theo Nghị định số 69/CP sửa đổi, bổ sung Điều 35 nghị định số 68/CP quy định:

Khoản 2: “Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi được xem xét giải quyết, nếu Việt Nam và nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú cùng là thành viên của điều ước quốc tế hai bên hoặc điều ước quốc tế nhiều bên về hợp tác nuôi con nuôi ”.

Việc cho người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận trẻ em có quốc tịch Việt Nam làm con nuôi chỉ được xem xét giải quyết nếu Việt Nam và nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú đã kí kết hoặc cùng gia nhập điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi. Việc đề ra nguyên tắc này nhằm tạo ra cơ sở pháp lý quốc tế cho vấn đề bảo vệ trẻ em sau khi được cho làm con nuôi ở nước ngoài, qua đó góp phần hạn chế các hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra liên quan tới việc cho và nhận con nuôi. Theo nguyên tắc này hiện nay Việt Nam đã tham gia kí kết Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi với một số nước nhưPháp, Đan Mạch, Italia, Iceland, Thụy Điển và Canada…..

Tuy nhiên đối với người nước ngoài thường trú tại nước chưa kí kết hoặc chưa cùng gia nhập với Việt Nam điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi thì cũng có thể nhận trẻ emViệt Nam làm con nuôi trong trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 35 nghị định 68/CP đã sửa đổi trong nghị định 69/CP như sau:

Khoản 3: “Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, mà nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú và Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế hai bên hoặc điều ước quốc tế nhiều bên về hợp tác nuôi con nuôi thì cũng được xem xét giải quyết, nếu người đó thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Có thời gian công tác, học tập, làm việc tại Việt Nam từ 06 tháng trở lên;

b) Có vợ, chồng, cha, mẹ là công dân Việt Nam hoặc người gốc Việt Nam;

c) Có quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ em được xin nhận làm con nuôi hoặc đang có con nuôi là anh, chị, em ruột của trẻ em được xin nhận làm con nuôi; 

d) Đối với người nước ngoài tuy không thuộc một trong các trường hợpquy định tại các điểm a, b và c khoản này, nhưng xin nhận trẻ em khuyết tật, tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, nạn nhân của chất độc hoá học, nhiễm HIV/AIDS, mắc các bệnh hiểm nghèo khác đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp và trẻ em quy định tại khoản 3 Điều 36 Nghị định này làm con nuôi thì cũng được xem xét giải quyết;

đ) Các trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định." 

Khoản 3 Điều 36:

3. Trẻ em đang sống tại gia đình cũng được xem xét giải quyết cho làm con nuôi người nước ngoài, nếu thuộc trường hợp trẻ em mồ côi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em mất năng lực hành vi dân sự; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo khác; trẻ em là nạn nhân của chất độc hoá học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS; trẻ em có quan hệ họ hàng, thân thích với người xin nhận con nuôi hoặc có anh, chị, em ruột đang làm con nuôi của người xin nhận con nuôi.

Những quy định này nhằm tạo sự bình đẳng về mặt pháp lí giữa pháp luật Việt Nam và Hiệp định hợp tác nuôi con nuôi cũng như thiết lập trật tự trong việc cho và nhận con nuôi.

IV. Những vấn đề còn tồn tại và khắc phục hiện nay về điều kiện nuôi con nuôi của người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.

Vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong thời gian qua ở nước ta tăng nhanh về số lượng. Trước thực trạng này, pháp luật Hôn nhân và gia đình đã có sự điều chỉnh khá kịp thời nhằm đáp ứng mục đích khá kịp thời của hoạt động mang tính nhân đạo này. Thực tế cho thấy, việc người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi diễn ra phổ biến hơn cả. Số lượng trẻ em Việt Nam được nhận làm con nuôi người nước ngoài từ năm 2003 – 2008 là 5.876 trường hợp, chưa kể các trường hợp cho nhận trẻ em có quan hệ họ hàng, thân thích với những người nhận con nuôi hiện đang thường trú tại nước chưa kí kết hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam. Tổng số trẻ em được nhận làm con nuôi trong và ngoài nước trong giai đoạn từ năm 2003 – 2008 là 19.599 trường hợp. Tổng số trẻ em được nhận làm con nuôi trong nước trong giai đoạn từ năm 2003 - 2008 nhiều hơn số lượng trẻ em được cho làm con nuôi người nước ngoài là 7.876 trường hợp. trình tự, thủ tục giải quyết cho và nhận trẻ em 
Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài bước đàu đã đáp ứng với cơ chế quốc tế trong lĩnh vực này, góp phần để cơ quan nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Bên cạnh đó có thể thấy một số khó khăn, bất cập trong việc cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, cụ thể là về điều kiện của người nước ngoài được nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi như sau:

* Điều kiện người nhận nuôi theo luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000.

Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi được quy định tại Điều 69 Luật Hôn nhân và gia đình. Các điều kiện đó phần nào thể hiện được những yêu cầu cần phải có của người nhận nuôi con nuôi, song các quy định này chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, cần được sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hơn. 

- Về khoảng cách độ tuổi giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi phải từ 20 tuổi trở lên ( khoản 2 Điều 69 ). Quy định như vậy có phần chưa phù hợp với thực tế bởi việc nuôi con nuôi chủ yếu hình thành trên cơ sở tình cảm của các bên. Trong trường hợp vợ, chồng nhận con riêng của nhau làm con nuôi mà phải đảm bảo khoảng cách tuổi tối thiểu giữa người nhận nuôi và con nuôi sẽ hạn chế việc thiết lập quan hệ cha mẹ - con giữa hai bên, ảnh hưởng đến lợi ích của các thành viên.

=> Luật không nên bắt buộc giữa người nhận nuôi và con nuôi phải cách nhau tối thiểu là từ 20 tuổi trở lên trong trường hợp vợ, chồng nhận con riêng của nhau làm con nuôi. Cần quy định độ tuổi tối thiểu của người nuôi một cách rõ ràng, cụ thể hơn, và có thể quy định độ tuổi đó là từ 25 tuổi trở lên, kết hợp với khoảng cách tuổi tối thiểu giữa người nuôi và con nuôi là 20 tuổi. Pháp luật của các nước, bên cạnh quy định về khoảng cách tuổi tối thiểu giữa người nhận nuôi và con nuôi, đều quy định độ tuổi tối thiểu của người nhận nuôi con nuôi. Tuy nhiên, độ tuổi tối thiểu để có thể nhận nuôi con của các nước rất khác nhau : ở Hàn Quốc quy định là người thành niên có thể nhận nuôi con nuôi; Trung Quốc quy định người từ 35 tuổi trở lên có thể nhận con nuôi; Thụy Điển, Phần Lan quy định người từ 25 tuổi trở lên có thể nhận con nuôi...

Song mặt khác, việc quy định giới hạn tuổi tối đa của cha mẹ nuôi cũng có ý nghĩa không nhỏ. Việc nhận nuôi con nuôi là nhằm đem lại một gia đình cho đứa trẻ, gia đình đó càng giống, càng tương hợp với gia đình tự nhiên của trẻ thì càng tốt, vì vậy “sẽ không hợp với tự nhiên chút nào nếu trẻ ở với các cặp vợ chồng đã quá tuổi sinh nở” . Hơn nữa, khi tuổi đã quá cao thì khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi sẽ giảm dần theo tuổi tác và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của trẻ được nhận nuôi. Vì vậy, để phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi và có tính khả thi, pháp luật nên quy định hạn chế tuổi tối đa của người nhận nuôi con nuôi, chẳng hạn người nhận nuôi con nuôi là người không quá 60 tuổi

- Luật chưa quy định cụ thể “ điều kiện thực tế” của người nhận nuôi là gì để đảm bảo cho việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi “ khoản 4 Điều 69”. 

=> Việc cần thiết đề cập đến điều kiện sức khỏe của người nhận nuôi: Luật nên quy định không cho phép những người mắc các bệnh hiểm nghèo, bệnh có nguy cơ lây nhiễm cao được nhận con nuôi. Những người này thường không đủ điều kiện về kinh tế, sức khỏe và thời gian để chăm lo cho cuộc sống của con nuôi một cách lâu dài. Mặt khác, đối với trẻ em chưa thành niên được nhận làm con nuôi không có khả năng để tự bảo vệ mình trước các bệnh truyền nhiễm. Như vậy, mục đích của việc nuôi con nuôi không đạt được, lợi ích lâu dài của người được nhận nuôi không được đảm bảo.

- Luật cũng yêu cầu người nhận nuôi phải có tư cách đạo đức tốt. Đây là quy định rất chung chung, khó xác định, khó đưa ra các cơ sở, căn cứ thống nhất để xác định tư cách đạo đức của một người.

Khoản 5, Điều 69 trong luật Hôn nhân và gia đình quy định : người chưa được xóa án tích về một trong các tội như xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm người khác, ngược đãi ông bà, cha mẹ v.v... ép buộc dụ dỗ trẻ vị thành niên phạm tội và mua bán đánh tráo trẻ em thì không được nhận nuôi con nuôi. Hiểu rằng quy định như thế có nghĩa là ai đã được xóa án tích thì được nuôi con nuôi, tôi cho là điều này không nên. Bởi vì một người đã phạm những tội như thế, nhất là dụ dỗ, ép buộc người vị thành niên phạm tội rồi mua bán, chiếm đoạt, đánh tráo trẻ em thì chỉ sau một vài năm tòa án xử không tái phạm là được xóa án tích, liệu người ta có thay đổi được bản chất hay không? => cho rằng không nên để những người này nuôi con nuôi.

Luật con nuôi đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2011. Mặc dù trong luật này cũng có xem xét và xây dựng trên cơ sở các văn bản pháp luật có liên quan tuy nhiên về tư cách đạo đức của người nhận nuôi vẫn còn một vài vướng mắc cần phải được xem xét.

* Bên cạnh đó luật hôn nhân và gia đình cần có những quy phạm xung đột quy định thống nhất việc lựa chọn pháp luật áp dụng đối với việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Trong việc xác định điều kiện nuôi con nuôi, sửa đổi theo hướng phù hợp với công ước Lahaye là áp dụng pháp luật của nước nơi cha mẹ nuôi cư trú; đối với việc điều chỉnh hệ quả pháp lí của việc nuôi con nuôi quốc tế nên được xác định theo pháp luật của nước nơi tiến hành việc nuôi con nuôi, nếu việc nuôi con nuôi được tiến hành ở nước ngoài thì hệ quả pháp lí của nó được xác định theo pháp luật nước ngoài, nếu tiến hành tại Việt Nam thì áp dụng pháp luật Việt Nam. Quy định này sẽ đảm bảo được quyền và lợi ích của trẻ em.

C. KẾT LUẬN.

Hiện nay, Việt Nam đang xem xét kí và phê chuẩn công ước Lahaye về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Việc gia nhập này sẽ là bước quan trọng, đánh dấu sự hòa nhập của Việt Nam vào cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực tư pháp quốc tế/ lĩnh vực ngày càng trở nên quan trọng đối với Việt Nam trong thời kì đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế.

Hoàn thiện cơ sở pháp lí để điều chỉnh quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài đòi hỏi phải có sự nỗ lực rất lớn từ phía Nhà nước để giải quyết các vấn đề khác nhau. Tất cả các vấn đề sửa đổi, bổ xung văn bản pháp luật trong nước và kí kết, gia nhập Điều ước quốc tế điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố nước ngoài phải được giải quyết một chách kịp thời để đáp ứng xu thế hội nhập hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000. Nhà xuất bản lao động – xã hội.

2. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ Hôn nhân và gia đìnhcó yếu tố nước ngoài. 

3. Nghị định của Chính phủ số 69/2006/NĐ-CP ngày 21 tháng 7 năm 2006 sửa đổi, bổ sung một số điềucủa. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ Hôn nhân và gia đìnhcó yếu tố nước ngoài. 

4. Giáo trình Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam_ 2009, Nhà xuất bản công an nhân dân. 

5. Bộ tư pháp (2009) báo cáo đánh giá tác động của dự thảo luật nuôi con nuôi.

6. Nguyễn Phương Lan, cơ sở lí luận và thực tiễn của chế định pháp lí về nuôi con nuôi ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, trường Đại học Luật Hà Nội, 2007. 

7. Bộ Luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sửa đổi bổ xung 2009.

No comments:

Post a Comment