3. TỘI LẠM DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Điều 280. Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
1. Người nào lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định tại Mục A Chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ một năm đến sáu năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
c) Phạm tội nhiều lần;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
e) Gây hậu quả nghiêm trọng khác.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác.
5. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.
Định Nghĩa: Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn và đã lạm dụng chức vụ, quyền hạn đó để chiếm đoạt tài sản của người khác.
Khác với tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn là tội phạm không được Nhà nước ta quy định sớm mà tội phạm này lần đầu tiên được quy định tai Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản của công dân ngày 21-10-1970 với tội danh là: “Tội lạm dụng chức quyền để chiếm đoạt tài sản của công dân” (Điều 8).
Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội phạm này tại chương: “các tội xâm phạm sở hữu của công dân” (Điều 156). Khi pháp lệnh chống tham nhũng ra đời thì tội phạm này được coi là một trong những tội tham nhũng và được sửa đổi theo Luật sửa đổi, bổ xung một số điều của Bộ luật hình sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 10-5-1997. Cùng với tội tham ô tài sản, Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trong chương các tội phạm về tham nhũng mà không quy định tại chương các tội phạm xâm phạm sở hữu là đáp ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong tình hình hiện nay.
A. CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm cũng là các dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội; là dấu hiệu phân biệt sự khác nhau giữa tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản với các tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt.
Cũng như chủ thể của các tội phạm khác, chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản cũng phải đảm bảo các yếu tố (điều kiện) cần và đủ như: độ tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự quy định tại các Điều 12, 13 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản, chỉ những người sau đây mới có thể là chủ thể của tội phạm này:
Trước hết, người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản phải là người có chức vụ, quyền hạn.
Người có chức vụ, quyền hạn là người đã được nêu ở phần khái niệm các tội phạm về chức vụ.
Nếu so sánh với tội tham ô tài sản, thì người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác không phải là người có liên quan đến việc quản lý tài sản; còn nếu so sánh với tội nhận hối lộ, thì người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản cũng tương tự như người phạm tội nhận hối lộ ở chỗ: Phạm vi chức vụ, quyền hạn của người phạm tội rộng hơn, chỉ khác nhau ở chỗ: Người phạm tội nhận hối lộ lại không có hành vi chiếm đoạt tài sản mà là lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của người đưa hối lộ.
Nếu chỉ xét về yếu tố chủ thể thì tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác và tội nhận hối lộ có nhiều điểm tương đồng, chỉ cần căn cứ vào Điều 1 Pháp lệnh cán bộ, công chức và Nghị định số 95-1998/NĐ-CP ngày 17-11-1998 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức như đã phân tích ở phần thứ nhất để xác định thế nào là cán bộ, công chức.
Cũng như chủ thể của tội tham ô tài sản và chủ thể của tội nhận hối lộ, chủ thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác là chủ thể đặc biệt, tức là chỉ chỉ có những người có chức vụ, quyền hạn mới chiếm đoạt được tài sản của người khác. Tuy nhiên, khẳng định này chỉ đúng đối với trường hợp vụ án không có đồng phạm, còn trong vụ án có đồng phạm thì có thể có cả những người không có chức vụ, quyền hạn nhưng họ chỉ có thể là người tổ chức, người xúi dục, người giúp sức, còn người thực hành, thì nhất thiết phải là người có chức vụ, quyền hạn.
Tương tự như đối với tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ, nếu người phạm tội chỉ có ý định chiếm đoạt dưới 500.000 đồng thì phải là người trước đó đã bị xử lý kỷ luật về hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác bằng một trong những hình thức kỷ luật theo quy định của Nhà nước hoặc theo quy định trong Điều lệ của tổ chức và chưa hết thời hạn được xoá kỷ luật, nay lại có hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác.
Nếu trước đó người phạm tội tuy có bị xử lý kỷ luật, nhưng về hành vi khác không phải là hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thì cũng chưa cấu thành tội phạm này.
Nếu người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị dưới 500.000 đồng nhưng đã bị két án về một trong các tội quy định tại mục A chương XXI, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác đã cấu thành tội phạm và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác.
Đã bị kết án về tội quy định tại mục A chương này chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, người phạm tội đã bị Toà án kết án về một trong các tội: Tội tham ô tài sản ( Điều 278); tội nhận hối lộ ( Điều 279); tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ( Điều 280); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ ( Điều 281); tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ ( Điều 282); tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi ( Điều 283) và tội giả mạo trong công tác (Điều 284), nhưng chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự. Nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác (không phải là một trong 7 tội phạm trên) hoặc tuy đã bị kết án về một trong 7 tội phạm trên nhưng đã được xoá án tích thì cũng chưa cấu thành tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác.
Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người đồng phạm khác trong vụ án thì họ cũng chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 2. khoản 3 và khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại các khoản trên là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, đối với những người này họ chỉ có thể là đồng phạm trong vụ án lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác với vai trò giúp sức, vì những người này chưa thể trở thành cán bộ, công chức. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cũng có trường hợp người dưới 16 tuổi lại là người chủ mưu, khởi xướng, giúp sức trong vụ án có đồng phạm như: Được người có chức vụ, quyền hạn giao cho đi nhận tiền của người bị hại; chuyển các yêu cầu của người có chức vụ, quyền hạn đến người bị hại; hứa hẹn chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản cho người có chức vụ, quyền hạn...
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này theo khoản 1 của Điều 280 Bộ luật hình sự, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng.
2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm này là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chính quyền; cao hơn là chính thể bị sụp đổ. Vì vậy, tham ô hối lộ, lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác là đối tượng phải đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi.
Tuy nhiên, cũng như đối với tội tham ô tài sản, tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại chương các tội phạm xâm phạm sở hữu của công dân (Chương VI phần tội phạm, Bộ luật hình sự năm 1985), nên khách thể của tội phạm này là chế độ sở hữu của công dân. Nay tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác được quy định tại Chương các tội phạm về chức vụ thì khách thể của tội phạm không còn là chế độ sở hữu nữa. Do đó, có ý kiến cho rằng, khách thể của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác vẫn là quan hệ sở hữu, vì nó trực tiếp xâm phạm đến quan hệ sở hữu.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, các dấu hiệu thuộc mặt khác quan cũng là những dấu hiệu rất quan trọng để xác định hành vi phạm tội cũng như để phân biệt tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác với các tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt hoặc do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện.
a. Hành vi khách quan
Trước hết, người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, phải là người có hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn của mình.
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi vượt quá quyền hạn của mình, làm trái công vụ để chiếm đoạt tài sản của người khác.
Theo điều văn của điều luật thì người có chức vụ, quyền hạn chỉ là chủ thể của tội phạm này khi họ lạm dụng chức vụ, quyền hạn mà họ có. Vậy nếu họ không lạm dụng mà chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản của người khác thì có phạm tội này không ? Nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản do mình có trách nhiệm quản lý là hành vi tham ô, nhưng nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản do người khác quản lý thì có phạm tội không, nếu có thì đó là tội gì ?
Lợi dụng và lạm dụng là hai thuật ngữ khác nhau, mặc dù trước đây được giải thích là một. Tuy nhiên, ranh giới giữa hành vi lợi dụng với hành vi lạm dụng không phải bao giờ cũng phân biệt được một cách rạch ròi. Ví dụ: Một cán bộ cảnh sát làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự đường phố đã thu toàn bộ số vé xổ số của người bán vé số trên vỉa hè và chiếm đoạt luôn số hàng đó. Trong trường hợp này, khó có thể xác định người cảnh sát lạm dụng hay lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. Nếu cho rằng người cảnh sát lạm dụng chức vụ, quyền hạn thì cũng không sai, bởi lẽ: Theo quy định của pháp luật thì Cán bộ cảnh sát làm nhiệm vụ bảo vệ trật tự đường phố không có chức năng thu giữ tài sản, việc thu giữ tài sản là vượt quá quyền hạn mà người cảnh sát có. Nhưng nếu cho rằng người cảnh sát này lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì cũng không có gì sai, vì nếu không là cảnh sát thì không được làm nhiệm vụ, mà không được làm nhiệm vụ thì làm sao thu giữ được vé số của người bán vé số trên vỉa hè.
Có thể có trong thực tế có những trường hợp khó phân biệt giữa lạm dụng với lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nhưng không vì thế mà cho rằng hai khái niệm là một. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn là hành vi vượt quá giới hạn cho phép. Giới hạn cho phép chính là quyền hạn mà người có chức vụ có; quyền hạn này do pháp luật quy định, thường là do luật tổ chức cơ quan, tổ chức quy định; trong một số trường hợp quyền hạn này do một ngành luật đặc trưng cho nghề nghiệp quy định như: Quyền hạn của những người tiến hành tố tụng trong các vụ án hình sự là do Bộ luật tố tụng hình sự quy định; quyền hạn của cán bộ Hải quan do Pháp lệnh về hải quan quy định. Ví dụ: Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì Thẩm phán Toà án các cấp không có quyền ra lệnh bắt bị cáo tạm giam, cũng như không có quyền trả tự do cho bị cáo đang tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử mà chỉ có Chánh án, Phó chánh án mới có quyền này; Chỉ có Thẩm phán từ cấp tỉnh trở lên chủ toạ phiên toà mới có quyền bắt người để tạm giam.
Vì vậy, khi xác định một người có lạm dụng chức vụ, quyền hạn hay không, trước hết phải căn cứ vào chức vụ họ đang giữ và theo pháp luật thì họ có những quyền gì ? Nếu trong khi thi hành công vụ họ đã thực hiện vượt quá giới hạn cho phép là lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn với hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong nhiều tội phạm có dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn và lạm dụng chức vụ, quyền hạn.
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trước đây được quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 thuộc nhóm tội có tính chất chiếm đoạt, nay quy định tại chương các tội phạm về chức vụ nhưng tính chất chiếm đoạt của hành vi phạm tội này vẫn không có gì thay đổi. Tuy nhiên, thủ đoạn chiếm đoạt của người phạm tội chủ yếu bằng hình thức công khai trắng trợn, tức là hành vi chiếm đoạt gần như đối với trường hợp cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự, cũng chính vì vậy mà tội cưỡng đoạt tài sản quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự, nhà làm luật không quy định tình tiết “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” hay “lạm dụng chức vụ, quyền hạn” là yếu tố định khung hình phạt.
Người có chức vụ, quyền hạn, lạm dụng chức vụ, quyền hạn phải chiếm đoạt tài sản của người khác thì mới cấu thành tội phạm này. Nếu không có hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, mà chỉ gây thiệt hại đến lợi ích của người khác thì tuỳ trường hợp mà người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ theo Điều 282 Bộ luật hình sự; tội nhận hối lộ theo điểm b khoản 2 Điều 279 Bộ luật hình sự hoặc tội tha trái pháp luật người đang bị tạm giam, giữ theo Điều 302 Bộ luật hình sự .v.v... Ví dụ: Vũ Quốc H là kỹ sư vẽ thiết kế chỉ giới mở đường đã cố tình thay đổi chỉ giới mở đường để người bị hại tin rằng nhà của mình bị giải toả nên họ đã vội bán với rất rẻ, rồi sau đó lại thay đổi chỉ giới theo đúng thiết kế ban đầu.
Cũng như hành vi chiếm đoạt trong các tội có tính chất chiếm đoạt khác, hành vi chiếm đoạt trong tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi chuyển dịch trái phép tài sản thuộc sở hữu hoặc quyền quản lý hợp pháp thành của mình hoặc của người khác mà mình quan tâm. Hành vi chiếm đoạt tài sản vừa là hệ quả vừa là mục đích của hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn của người phạm tội. Mối quan hệ giữa hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn với hành vi chiếm đoạt là mối quan hệ nhân quả, trong đó hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn là nguyên nhân còn hành vi chiếm đoạt là hậu quả.
Mặc dù điều văn của điều luật quy định: “chiếm đoạt tài sản của người khác” nhưng không vì thế mà cho rằng đó chỉ là tài sản của công dân, mà phải hiểu người khác bao gồm: Nhà nước, tổ chức và mọi công dân. Như vậy, người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác không chỉ bao gồm tài sản của công dân mà bao gồm cả tài sản của Nhà nước, của tổ chức. Đây là đặc điểm khác với tội phạm lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985.
Tuy nhiên, về lý luận, cũng như thực tiễn xét xử có trường hợp người phạm tội không lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản do chính mình quản lý thì hành vi của người phạm tội cấu thành tội tham ô tài sản hay tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác ?
Nếu xác định hành vi của người phạm tội là hành vi tham ô tài sản thì không thoả mãn dấu hiệu “lợi dụng chức vụ, quyền hạn”, còn nếu xác định hành vi của người phạm tội là hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản thì lại không thoả mãn dấu hiệu “chiếm đoạt tài sản của người khác”. Có ý kiến cho rằng, không thể có trường hợp người phạm tội tham ô tài sản có hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản do chính mình có trách nhiệm quản lý; nếu có thì hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn của họ cũng không có ý nghĩa vì trên thực tế họ chỉ lợi dụng chức vụ, quyền hạn là đủ, còn nếu trong khi lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà họ vượt quá quyền hạn của mình để chiếm đoạt tài sản do chính mình có trách nhiệm quản lý thì cũng không vì thế mà cho rằng, họ không lợi dụng chức vụ, quyền hạn; chẳng qua là do họ lợi dụng một cách thái quá mà thôi. Hơn nữa dấu hiệu chiếm đoạt tài sản là chiếm đoạt tài sản do chính người phạm tội có trách nhiệm quản lý nên họ vẫn phạm tội tham ô tài sản. Theo chúng tôi, có thể còn ý kiến khác nhau về trường hợp này, nhưng ý kiến trên có nhân tố hợp lý của nó và có như vậy, thì mới lý giải được những vướng mắc khi mà pháp luật quy định còn những điểm còn mâu thuẫn. Nếu tội tham ô tài sản cũng quy định tình tiết lạm dụng chức vụ, quyền hạn là yếu tố định khung hình phạt như đối với tội nhận hối lộ thì vẫn đề sẽ đơn giản hơn. Hy vọng rằng, khi có điều kiện, Quốc hội sẽ bổ sung tình tiết lạm dụng chức vụ, quyền hạn là yếu tố định khung hình phạt đối với tội tham ô tài sản.
b. Hậu quả
Cũng như hậu quả của các tội phạm về chức vụ khác, hậu quả của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác là những thiệt hại vật chất hoặc phi vật chất cho xã hội.
Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, thiệt hại trước hết là thiệt hại về tài sản, ngoài ra còn có những thiệt hại khác phi vật chất.
Hậu quả của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, xét về phương diện các yếu tố cấu thành tội phạm thì không phải là dấu hiệu bắt buộc, tức là, dù hậu quả chưa xảy ra nhưng hành vi vẫn cấu thành tội phạm.
Trong Bộ luật hình sự, không chỉ đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, mà đối với nhiều tội phạm khác, nhà làm luật quy định giá trị tài sản bị chiếm đoạt làm ranh giới phân biệt tội phạm với hành vi vi phạm, nên có quan điểm cho rằng, thiệt hại về tài sản của các tội phạm này là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm nếu chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc đã chiếm đoạt được nhưng giá trị tài sản dưới mức quy định của điều luật thì chưa cấu thành tội phạm. Sự nhầm lẫn này xuất phát từ sự nhầm lẫn về lý luận, giữa hậu quả của tội phạm với thiệt hại thực tế đã xảy ra, bời vì hậu quả của tội phạm không chỉ là những thiệt hại do tội phạm đã gây ra mà còn đe doạ gây ra cho xã hội, tức là thiệt hại vật chất chưa xảy ra nhưng cũng đã gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, nhà làm luật quy định chiếm đoạt từ 500.000 đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn nếu chiếm đoạt dưới 500.000 đồng thì phải có thêm những điều kiện như: Gây hậu quả nghiêm trọng; đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm; đã bị kết án về một trong các tội quy định tại mục A chương này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm. Quy định này không có nghĩa là trong mọi trường hợp người phạm tội phải chiếm đoạt được 500.000 đồng hoặc dưới 500.000 đồng có kèm theo điều kiện thì mới cấu thành tội phạm, mà quy định này chỉ đối với trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt 500.000 đồng hoặc dưới 500.000 đồng và ngay cả với hai trường hợp này nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản thì hành vi của họ vẫn cấu thành tội phạm nhưng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
Hậu quả nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra là những thiệt hại nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, gây ra:
- Làm chết một người;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
- Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa.
Tuy nhiên, hướng dẫn trên là hướng dẫn đối với các tội xâm phạm sở hữu, nhưng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, cũng là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên trong khi chưa có hướng dẫn chính thức về trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, có thể áp dụng Thông tư liên tịch này để xác định trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng.
4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội phạm
Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, cũng là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cũng như đối với tội có tính chất chiếm đoạt khác, người phạm tội thực hiện hành vi của mình là cố ý (cố ý trực tiếp), tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; không có trường hợp lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác nào được thực hiện do cố ý gián tiếp, vì người phạm tội bao giờ cũng mong muốn chiếm đoạt được tài sản.
Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội bao giờ cũng có trước khi thực hiện hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn. Vì vậy, có thể nói mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Nếu mục đích của người phạm tội chưa đạt được (chưa chiếm đoạt được tài sản), thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Tuy nhiên, ngoài mục đích chiếm đoạt, người phạm tội còn có thể có những mục đích khác cùng với mục đích chiếm đoạt hoặc chấp nhận mục đích chiếm đoạt của người đồng phạm khác thì người phạm tội cũng chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, nếu mục đích đó không cấu thành một tội phạm độc lập.
B. CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ
1. Phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, không có các tình tiết định khung hình phạt
Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, có khung hình phạt từ một năm đến sáu năm tù. So với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của công dân quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985, nếu chỉ căn cứ vào khung hình phạt, thì khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 không nặng hơn và cũng không nhẹ hơn, nhưng căn cứ vào các dấu hiệu quy định tại khoản 1 của Điều 280 thì không có lợi cho người phạm tội, vì khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định chiếm đoạt 5.000.000 đồng trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự, còn khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định chiếm đoạt 500.000 đồng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, nếu so sánh tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 thì tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tai Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985, vì hình phạt cao nhất quy định tại Điều 280 là tù chung thân, còn hình phạt cao nhất quy định tại Điều 156 là tử hình, nên hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999. Nhưng để xác định các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì phải căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 đối với hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác được thực hiện trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác theo khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự, Toà án cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54).18 Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, thì có thể được áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới một năm tù), nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 60 Bộ luật hình sự thì được hưởng án treo. Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc tuy có nhưng mức độ giảm nhẹ không đáng kể, thì có thể bị phạt đến sáu năm tù.
2. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự
b.Có tổ chức.
Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành thì mới là phạm tội có tổ chức. Các yếu tố để xác định phạm tội có tổ chức được quy định tại Điều 20 Bộ luật hình sự.
Các vụ án lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có tổ chức, thường kèm theo các hành vi phạm tội khác xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân như: Khám người, khám chỗ ở trái phép; bắt người trái phép...
b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm.
Dùng thủ đoạn xảo quyệt khi thực hiện hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác là trường hợp người phạm tội có những mánh khoé, cách thức thâm hiểm làm cho cơ quan, tổ chức, người quản lý tài sản và những người khác khó lường trước để đề phòng như: Tạo dựng ra một sự việc vu khống cho người bị hại để chiếm đoạt tài sản của họ hoặc dùng thủ đoạn tinh vi làm cho người bị hại không lường được buộc phải giao tài sản cho người phạm tội.
Dùng thủ đoạn nguy hiểm khi thực hiện hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác là trường hợp người phạm tội có những thủ đoạn chiếm đoạt tài sản hoặc thủ đoạn che giấu hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của con người như:
c. Phạm tội nhiều lần
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác nhiều lần là có từ hai lần lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trở lên và mỗi lần đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội nhiều lần nếu tất cả những lần phạm tội đó chưa bị xử lý ( xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự). Nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác nhiều lần.
d. Tái phạm nguy hiểm
Tái phạm nguy hiểm là trường hợp đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội dặc biệt nghiêm trọng do cố ý, hoặc tái phạm, chưa được xoá án mà lại phạm tội do cố ý (điểm a và điểm b khoản 2 Điều 49 Bộ luật hình sự năm 1999).
So với trường hợp tái phạm nguy hiểm được quy định tại điểm a và điểm b khoản 2 Điêu 40 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tái phạm nguy hiểm có một số điểm khác như sau:
- Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: "đã bị phạt tù về tội nghiêm trọng" thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng".
- Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: "mà lại phạm tội nghiêm trọng", thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng".
- Nếu Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: "mà lại phạm tội ít nghiêm trọng do cố ý hoặc tội nghiêm trọng", thì Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: "mà lại phạm tội do cố".
Như vậy, tái phạm nguy hiểm theo Bộ luật hình sự năm 1999 có đặc điểm sau:
- Đã hai lần phạm tội đều là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, hoặc một trong hai lần đó là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, trong đó có một lần đã bị kết án. Ví dụ: Đã bị kết án về tội giết người theo khoản 2 Điều 93, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội cố ý gây thương tích theo khoản 3 Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999.
- Đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội do cố ý, không phân biệt tội đó là tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hay tội đặc biệt nghiêm trọng.
- Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 1999 đều không quy định: "đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mới" thì có bị coi là tái phạm nguy hiểm hay không ? Đây cũng là vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn xét xử còn ý kiến trái ngược nhau. Có ý kiến cho rằng, Bộ luật hình sự không quy định thì không được áp dụng vì nếu áp dụng là làm xấu đi tình trạng của người phạm tội. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, một người đã tái phạm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mới còn bị coi là tái phạm nguy hiểm huống hồ người đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội mới thì càng phải coi họ là tái phạm nguy hiểm. Chúng tôi cho rằng, chỉ coi là tái phạm nguy hiểm đối với trường hợp mà Bộ luật hình sự quy định "đã tái phạm...", tức là đã tái phạm nguy hiểm, chưa được xoá án tích mà còn phạm tội do cố ý thì mới bị coi là tái phạm nguy hiểm, còn nếu phạm tội do vô ý dù là tội đó là tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng, thì cũng không coi là tái phạm nguy hiểm. Ví dụ: A đã bị án về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác và trong bản án đó, Toà án đã xác định A phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, chưa được xoá án tích, thì A lại phạm tội " lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác "thì phải coi trường hợp phạm tội của A là tái phạm nguy hiểm.
Đối với Chương các tội phạm về chức vụ ( cả mục A và mục B ) chỉ có tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác nhà làm luật quy định tái phạm nguy hiểm là yếu tố định khung hình phạt. Không phải các tội phạm khác không có trường hợp tái phạm nguy hiểm, mà việc nhà làm luật không quy định tình tiết tái phạm nguy hiểm là yếu tố định khung hình phạt là căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của từng tội phạm cụ thể. Cũng như đối với các tội phạm khác quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999 không phải tội phạm nào nhà làm luật cũng quy định tình tiết tái phạm nguy hiểm là yếu tố định khung hình phạt mà chỉ đối với một số tội phạm xét thấy người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm cần phải xử lý nghiêm hơn trường hợp không tái phạm nguy hiểm. Tuy nhiên, theo đánh giá của các luật gia, các cán bộ làm công tác thực tiễn thì trong chương các tội phạm về chức vụ còn có một số tội phạm nhà làm luật có thể quy định tình tiết tái phạm nguy hiểm là yếu tố định khung hình phạt như: tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ... Vì những tội phạm này, nếu người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm đều cần phải xử phạt nghiêm hơn trường hợp không tái phạm nguy hiểm. Những ý kiến này, chúng tôi thấy thoả đáng, không chỉ bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật mà còn phù hợp với thực tiễn xét xử. Hy vọng rằng, khi có dịp sửa đổi bổ sụng Bộ luật hình sự năm 1999, Quốc hội sẽ quan tâm đến đề nghị này.
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm là trường hợp người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xoá án tích mà lại phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự, hoặc tái phạm, chưa được xoá án mà lại phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự.
đ. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng
Đây là trường hợp người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng. Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội khác, nếu tài sản bị chiếm đoạt không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).
Mặc dù điều luật quy định chiếm đoạt tài sản, nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản, đã thực hiện thủ đoạn để chiếm đoạt có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
e. Gây hậu quả nghiêm trọng khác
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng quy định ở khoản 1 của điều luật, chỉ khác ở chỗ trường hợp phạm tội này là hậu quả nghiêm trọng do hành vi phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác từ 500.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng. Nếu dưới 500.000 đồng mà gây hậu quả nghiêm trọng thì đã thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 của điều luật rồi. Được coi là gây hậu quả nghiêm trọng khác nếu do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà:
- Làm chết một người;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
- Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;
- Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa.
Tương tự như đối với tội tham ô, khoản 1 của điều luật chỉ quy định gây hậu quả nghiêm trọng còn điểm e khoản 2 của điều luật lại quy định gây hậu quả nghiêm trọng khác, nên có ý kiến cho rằng hậu quả nghiêm trọng khác và hậu quả nghiêm trọng không phải là một. Đây là vấn đề có thể có những quan điểm khác nhau, vì về lý luận cũng như thực tiễn xét xử chưa có trường hợp nào cần phải phân biệt giữa hậu quả nghiêm trọng với hậu quả nghiêm trọng khác. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác cũng chỉ quy định hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng mà chưa quy định hậu quả nghiêm trọng khác.
Tuy nhiên, khi nói hậu quả nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra là những thiệt hại trực tiếp do chính hành vi phạm tội cũng như thủ đoạn thực hiện tội phạm gây ra như: giá trị tài sản bị chiếm, còn hậu quả nghiêm trọng khác do hành vi tham ô gây ra là những thiệt hại gián tiếp do việc thực hiện tội phạm gây ra như: do lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác nên gây ra sự nghi ngờ, mất lòng tin của nhân dân vào chính quyền, do lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác, nên không thực hiện được các chính sách xã hội, do lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác nên dễn đến người bị hại điêu đứng phải bỏ nhà, phải ốm đau dẫn đến tổn hại đén sức khoẻ thậm chí bị tử vong v.v...
Nếu sự phân biệt trên là có căn cứ, thì khoản 1 của điều luật quy định hậu quả nghiêm trọng cũng khó xác định ngoài giá trị tài sản bị chiếm đoạt, còn các thiệt hại khác đều là những thiệt hại gián tiếp do hành vi phạm tội gây ra và nó chỉ là hậu quả khác. Do đó có ý kiến cho rằng, khoản 1 điều luật cũng nên quy định gây hậu quả khác mới chính xác. Quan điểm này cũng có cơ sở lý luận và thực tiễn. Hy vọng rằng khi có điều kiện, nhà làm luật sẽ nghiên cứu sửa đổi để phù hợp hơn.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ sáu năm đến mười ba năm, là tội phạm rất nghiêm trọng.
So với khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 có những thay đổi theo hướng không có lợi cho người phạm tội, mặc dù khung hình phạt ở hai khoản này như nhau (từ sáu năm đến mười ba năm tù) như: điểm đ khoản 2 Điều 280 quy định “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng”, còn điểm c khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “chiếm đoạt tài sản có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới ba trăm triệu đồng”.Vì vậy, nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì vẫn áp dụng khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội theo khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự, Toà án cũng cần căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, không phải là người tổ chức, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới bảy năm tù) nhưng không được dưới một năm tù vì theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự thì khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật ( khung hình phạt nhẹ hơn liền kề của khoản 2 là khoản 1 Điều 280 Bộ luật hình sự ). Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc nếu có nhưng mực độ giảm nhẹ không đáng kể, tập trung nhiều tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của điều luật thì có thể bị phạt mức hình phạt cao nhất của khung hình phạt (đến 13 năm tù)
Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì: Người phạm tội thuộc nhiều trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 280 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự.
3. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự
a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng. Cũng như các trường hợp khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).
Cũng như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2, điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện thủ đoạn chiếm đoạt số tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
b. Gây hậu quả rất nghiêm trọng khác
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng khác, chỉ khác ở chỗ: Trường hợp phạm tội này hậu quả khác do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra là hậu quả rất nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả rất nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội tham ô gây ra.
Hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra là những thiệt rất nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả rất nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra:
-Làm chết hai người;
-Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
-Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
-Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
-Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;
-Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản thuộc hai đến ba trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ: Làm chết một người và còn làm bị thương hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; Làm chết một người và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng. v.v...
Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng rất xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là rất nghiêm trọng.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù từ mười ba năm đến hai mươi năm, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
So với khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1985 thì khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định theo hướng có lợi cho người phạm tội, mặc dù khung hình phạt ở khoản 3 Điều 280 và khoản 3 Điều 280 như nhau (từ mười ba năm đến hai mươi năm tù), Vì vậy, khi áp dụng khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý một số điểm sau:
Nếu hành vi hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có nhiều tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 280 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 và cũng không áp dụng khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985, mà chỉ áp dụng khoản 2 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985.
Nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì vẫn áp dụng khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985;
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác theo khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới mười ba năm tù) nhưng không được dưới sáu năm tù.
Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì: Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 280 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự. 24
4. Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự
a. Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 280 Bộ luật hình sự, chỉ khác là tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên. Cũng như các trường hợp khác, việc xác định giá trị tài sản là căn cứ vào giá thị trường vào thời điểm phạm tội, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không tự mình xác định được giá trị tài sản thì phải trưng cầu giám định (định giá).
Cũng như trường hợp quy định tại điểm đ khoản 2 và và điểm a khoản 3, điều luật chỉ quy định chiếm đoạt tài sản nhưng không vì thế mà cho rằng, người phạm tội đã chiếm đoạt được tài sản trị giá từ năm trăm triệu đồng trở lên mới thuộc trường hợp phạm tội này, mà chỉ cần xác định người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản và đã thực hiện thủ đoạn chiếm đoạt số tài sản có giá trị như trên là đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã chiếm đoạt được hay chưa không phải là dấu hiệu bắt buộc. Tuy nhiên, nếu chưa chiếm đoạt được tài sản thì người phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
b. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng khác quy định tại điểm đ khoản 2 và gây hậu quả rất nghiêm trọng khác tại điểm b khoản 3 của điều luật, chỉ khác ở chỗ: Trường hợp phạm tội này hậu quả khác do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Cũng như các trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, khi xác định cần căn cứ vào các thiệt hại về thể chất, về tài sản, thiệt hại phi vật chất do hành vi phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra.
Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra là những thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng đến tính mạng, sức khoẻ, tài sản và những thiệt hại phi vật chất cho xã hội. Có thể coi các thiệt hại sau là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng do hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra:
-Làm chết ba người trở lên;
-Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
-Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
-Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 201% trở lên, trong đó không có trường hợp nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
-Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên;
-Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc bốn trường hợp được coi là hậu quả nghiêm trọng;
-Gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản mà hậu quả thuộc hai trường hợp được coi là hậu quả rất nghiêm trọng;
Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra là đặc biệt nghiêm trọng.25
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 278 Bộ luật hình sự thì người phạm tội sẽ bị phạt tù hai mươi năm hoặc tù chung thân, là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
So với khoản 4 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985, thì khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 nhẹ hơn, vì mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân và khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 bỏ tình tiết “có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 điều này”.
Vì vậy, khi áp dụng khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999, cần chú ý: Nếu hành vi lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác có nhiều tình tiết quy định tại khoản 3 Điều 280 xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì không áp dụng khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 và cũng không áp dụng khoản 4 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985, mà chỉ áp dụng khoản 3 Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác theo khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự, Toà án cũng phải căn cứ vào các quy định về quyết định hình phạt tại Chương VII Bộ luật hình sự ( từ Điều 45 đến Điều 54). Nếu người người phạm tội có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự, không có tình tiết tăng nặng hoặc có nhưng mức độ tăng nặng không đáng kể, người phạm tội có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, đáng được khoan hồng, thì Toà án có thể áp dụng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (dưới hai mươi năm tù) nhưng không được dưới mười ba năm tù.
Nếu các tình tiết khác của vụ án như nhau, thì: Người phạm tội thuộc cả hai trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 280 sẽ bị phạt nặng hơn người phạm tội chỉ thuộc một trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 280 Bộ luật hình sự.26
5. Hình phạt bổ sung đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác
Theo quy định tại khoản 5 Điều 280 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính, người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất từ một năm đến năm năm, có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.
So với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại Điều 156 Bộ luật hình sự năm 1985 thì hình phạt bổ sung đối với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác quy định tại Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm được sửa đổi bổ sung như sau:
Nếu Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định nhất định từ hai năm đến năm năm”, thì khoản 5 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ một năm đến năm năm”. Vì vậy, nếu Toà án áp dụng hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý thì được áp dụng khoản 5 Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với người phạm tội.
- Nếu Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1985 không quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung thì Điều 20 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến năm mươi triệu đồng”. Vì vậy, Toà án không được áp dụng hình phạt tiền đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.
- Nếu Điều 163 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “Tuỳ theo tính chất nghiêm trọng của tội phạm mà có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” thì Điều 280 Bộ luật hình sự năm 1999 không còn quy định loại hình phạt này nữa. Vì vây, Toà án không được áp dụng hình phạt tịch thu tài sản đối với người phạm tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của người khác trước 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mà sau 0 giờ 00 ngày 1-7-2000 mới bị phát hiện xử lý.
No comments:
Post a Comment