20/08/2014
Đặc điểm của các tội phạm về ma túy - Bình luận khoa học hình sự tập 4
Các tội phạm về ma tuý được Nhà nước ta quy định từ rất sớm, nhưng trong từng giai đoạn, căn cứ vào tình hình kinh tế-xã hội cụ thể mà Nhà nước ban hành những văn bản thích hợp, phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này.

Nếu vào đầu năm 1952 Chính phủ chỉ quy định việc xử lý đối với hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện, quy định khoanh vùng trồng cây thuốc phiện; người trồng cây thuốc phiện có nghĩa vụ nộp thuế bằng 1/3 số thuốc phiện nhựa, phần còn lại phải bán cho mậu dich quốc doanh; nghiêm cấm việc tàng trữ vận chuyển nhựa thuốc phiện, thì đến cuối năm 1952 Chính phủ quy định người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện, bị tịch thu thuốc phiện, bị phạt tiền đến năm lần trị giá thuốc phiện hoặc bị truy tố trước Toà án.

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, ngày 15-9-1955  Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 580-TTg quy định cụ thể những trường hợp phải đưa ra truy tố trước Toà án như: Buôn lậu thuốc phiện có nhiều người tham gia, có thủ đoạn gian dối; trị giá hàng phạm pháp trên 1.000.000 đồng; người buôn bán thuốc phiện nhỏ hoặc làm môi giới có tính chất thường xuyên, chuyên nghiệp sau khi đã bị phạt tiền nhiều lần mà còn vi phạm; hành vi vi phạm có liên quan đến nhân viên chính quyền hoặc bộ đội; đã quyết định phạt tiền của cơ quan Thuế vụ hoặc Hải quan. Để cụ thể hoá đường lối xét xử đối với hành vi phạm tội về thuốc phiện, ngày 29-3-1958 và ngày 7-5-1958, Bộ tư pháp ban hành Thông tư 635-VHH/HS và Thông tư số 33-VHH/HS hướng dẫn đừng lối truy tố, xét xử những hành vi buôn lậu thuốc phiện.

Sau khi đất nước thống nhất, ngày 25-3-1977  Hội đồng chính phủ đã ban hành Nghị định 76-CP về chống buôn lậu thuốc phiện; Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ ( nay là Bộ Công an) cũng đã ban hành các thông tư hướng dẫn áp dụng pháp luật khi điều tra, truy tố, xét xử tội phạm nói chung và tội phạm về buôn lậu thuốc phiện nói riêng.

Đến năm 1980, tình hình tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng ma tuý ở nước ta có chiều hướng gia tăng, dặc biệt là tình trạng mua bán, vận chuyển không chỉ có thuốc phiện mà còn các chất ma tuý khác qua biên giới vào nước ta và từ nước ta đi một số nước trên thế giới, do ảnh hưởng của các nước khu vực và các nước có biên giới với nước ta. Trước tình tình như vậy, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khoá VII đã thông quan Bộ luật hình sự ( Bộ luật hình sự năm 1985 ). Đây là Bộ luật đầu tiên của nước ta quy định tội phạm và hình phạt. Tuy nhiên, khi ban hành, Bộ luật hình sự năm 1985 mới có một điều quy định tội phạm về ma tuý (Điều 203 - Tội tổ chức sử dụng chất ma tuý ) và hai điều có liên quan đến ma tuý (Điều 97- Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới và Điều 166 - Tội buôn bán hàng cấm). Nếu hành vi buôn bán ma tuý trong nước thì bị áp dụng Điều 166 Bộ luật hình sự, còn nếu buôn bán, vận chuyển ma tuý qua biên giới thì bị áp dụng Điều 97 Bộ luật hình sự. Còn lại các hành vi khác như tàng trữ, chiếm đoạt, sản xuất, sử dụng, vận chuyển trong nước... đối với các chất ma tuý chưa bị coi là tội phạm.

Do tình hình buôn bán, tàng trữ, vận chuyển ma tuý ngày càng gia tăng và diễn biến rất phức tạp, nếu chỉ áp dụng Điều 97 hay Điều 166 Bộ luật hình sự để xử lý các hành vi phạm tội về ma tuý thì không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, nên ngày 28-12-1989, Quốc hội đã bổ sung Điều 96a quy định tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép chất ma tuý. Sau khi Bộ luật hình sự được sửa đổi bổ sung tình hình phạm tội về ma tuý vẫn không giảm mà càng gia tăng và diễn biến vô cùng phức tạp, quy định tại Điều 66a cũng không đủ đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma tuý, mặc dù các cơ quan tiến hành tố tụng ở trung ương đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn xử lý hành vi có liên quan đến ma tuý nhưng cũng không thể ngăn chặn được tệ nạn này. Ngày 10-5-1997, một lần nữa Quốc hội lại sửa đổi bổ sung Bộ luật hình sự quy định hẳn một chương ( Chương VIIA) gồm 14 Điều, từ Điều 185a đến Điều 185(o) quy định tương đối đầy đủ các hành vi phạm tội mà thực tiễn đấu tranh đặt ra.

Việc Quốc hội quy định một Chương các tội phạm về ma tuý đã đáp ứng yêu cầu bức xúc của tình hình đấu tranh phòng chống ma tuý đang xảy ra. Tuy nhiên, trong quá trình soạn thảo Bộ luật hình sự năm 1999, qua thực tiễn xét xử, Ban soạn thảo đã phát hiện Chương VIIA Bộ luật hình sự năm 1985 có nhiều điểm không phù hợp, khó áp dụng trong thực tiễn xét xử, nên đã điều chỉnh lại cho phù hợp. Nhưng về cơ bản không có thay đổi gì lớn, trừ các hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý được nhập lại thành một tội danh, còn lại cũng được cấu tạo trên cơ sở Chương VIIA Bộ luật hình sự năm 1985.

Các tội phạm về ma tuý quy định tại Chương XVIII Bộ luật hình sự năm 1999 có đặc điểm chung nhất là bất cứ hành vi phạm tội nào cũng trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến ma tuý. Cũng chính vì vậy, Chương XVIII có tên gọi “các tội phạm về ma tuý”.

Ma tuý, theo gốc Hán – Việt, có nghĩa là “làm mê mẩn”. Chất ma tuý lúc đầu dùng để chỉ các chất có tác dụng gây ngủ, gây mê; sau này khi khoa học phát triển con người tổng hợp được các chất tự nhiên có khả năng gây nghiện, thì chất ma tuý được hiểu là những chất có tính chất gây nghiện, có khả năng bị lạm dụng.

Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về ma tuý và chất ma tuý tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu. Có trường hợp người ta không cần đưa ra một định nghĩa về ma tuý, mà liệt kê ngay các chất ma tuý gồm: Các chất đã được xác định và có tên gọi riêng trong khoa học. Danh mục các chất ma tuý, tiền chất và các chất hoá học dùng để điều chế các chất ma tuý (bao gồm danh mục quy định tại Công ước quốc tế 1961, 1971, 1981) được ban hành theo Nghị định của Chính phủ Số 67/2001/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2001( xem phụ lục).

 Như vậy, việc đưa ra một định nghĩa về ma tuý hay chất ma tuý chỉ có ý nghĩa trong việc nghiên cứu khoa học về chất ma tuý chứ không có ý nghĩa đối với việc xác định chất ma tuý. Khi cần xác định một chất có phải là ma tuý hay không chỉ cần đưa mẫu đến cơ quan giám định hoặc căn cứ vào Danh mục các chất ma tuý quy định tại Nghị định số 67 ngày 01-10-2001 của Chính phủ

Là tội phạm, nên tội phạm về ma tuý cũng có những đặc điểm chung như các tội phạm khác bao gồm: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật, tính có lỗi và tính chịu hình phạt. Tuy nhiên, đối với tội phạm về ma tuý có những đặc điểm riêng mà các tội phạm khác không có như:

Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm về ma tuý cao hơn so với các tội phạm khác được quy định trong Bộ luật hình sự (trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia), trong số 10 tội thì có 3 tội có mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình (khoản 4 Điều 193, khoản 4 Điều 194 và khoản 4 Điều 197); có 2 tội có mức cao nhất của khung hình phạt là chung thân (khoản 4 Điều 195, khoản 4 Điều 200 và khoản 4 Điều 201); có 12 trường hợp là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3, khoản 4 Điều 193, khoản 3, khoản 4 Điều 194, khoản 3, khoản 4 Điều 195, khoản 3, khoản 4 Điều 197, khoản 3, khoản 4 Điều 200 và khoản 3, khoản 4 Điều 201) ; có 8 trường hợp là tội phạm rất nghiêm trọng (khoản 2 Điều 193, khoản 2 Điều 194, khoản 2 Điều 195, khoản 2 Điều 196, khoản 2 Điều 197, khoản 2 Điều 198, khoản 2 Điều 200 và khoản 2 Điều 201); có 10 trường hợp là tội phạm nghiêm trọng ( khoản 2 Điều 192, khoản 1 Điều 193, khoản 1 Điều 194, khoản 1 Điều 195, khoản 1 Điều 196, khoản 1 Điều 197, khoản 1 Điều 198, khoản 2 Điều 199, khoản 1 Điều 200 và khoản 1 Điều 201); chỉ có 2 trường hợp là tội phạm ít nghiêm trọng (khoản 1 Điều 192 và khoản 1 Điều 199). Cũng chính do đặc điểm này, mà trong thực tiễn xét xử thời gian qua, việc áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với người phạm các tội về ma tuý được Toà án nhân dân tối cao quán triệt trong toàn ngành. Tuy nhiên, cũng không ít Thẩm phán chưa nhạn thức đầy đủ tính chất nguy hiểm của các tội phạm về ma tuý và hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao, nên đã áp dụng hình phạt quá nhẹ đối với người phạm tội dẫn đến bản án bị kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm.

Đối với các vụ án mua bán, vận chuyển chất ma tuý với quy mô lớn, thường được người phạm tội tổ chức rất chặt chẽ thành những đường dây xuyên quốc gia, thậm chí từ nước ngoài vào Việt Nam nhưng lại không được tổ chức như các vụ án có tổ chức khác, không có người cầm đầu, chỉ huy mọi hoạt động của các đồng phạm khác, có vụ có rất đông người tham gia vào đường dây vận chuyển, mua bán ma tuý nhưng thông thường chỉ người thứ nhất biết ngươi thứ hai chứ không biết người thứ ba. Cũng chính vì đặc điểm này mà việc điều tra, khám phá các đường dây ma tuý rất khó khăn, không ít những vụ án sau khi xét xử mới phát hiện trong đường dây vận chuyển, mua bán ma tuý còn có nhiều người phạm tội khác, cá biệt có trường hợp trước khi thi hành án tử hình người bị kết án tử hình mới khai ra đồng phạm.

Một đặc điểm thường thấy trong các vụ án ma tuý lớn, người phạm tội thường móc lối với một số cán bộ trong các lực lượng chống ma tuý để vận chuyển, mua bán ma tuý trót lọt khó bị phát hiện và nếu có bị phát hiện thì chúng hy vọng sự bao che của các lực lượng này.

Đối với những hành vi mua bán có tính chất tiêu thụ, người phạm tội thường chia ma tuý thành những gói nhỏ (tép, chỉ...) mỗi gói là một liều để bán cho các con nghiện. Việc tổ chức tiêu thụ ma tuý cũng rất tinh vi, chúng thường sử dụng những địa điểm thuận lợi, có phân công người canh gác, khi các lực lượng chống ma tuý phát hiện thì chúng tẩu thoát dễ dàng.

Đối với hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, người phạm tội chủ yếu là những con nghiện rủ nhau, góp tiền, góp tài sản để mua để trao đổi lấy chất ma tuý sử dụng chung, ít có trường hợp người phạm tội đứng ra tổ chức như kiểu tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc. Đây cũng là đặc điểm mà thực tiễn xét xử có nhiều trường hợp rất khó phân biệt giữa hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý với hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Không ít trường hợp có nhiều người cùng sử dụng trái phép chất ma tuý nhưng người này thì phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý còn người khác chỉ phạm tội sử dụng trái phép chất ma tuý.

Thực tiễn đấu tranh phòng chống các tội phạm về ma tuý trong thời gian qua còn cho thấy: Người có hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý ít khi bị bắt quả tang, nếu có bị bắt quả tang cũng chỉ bị bắt với trọng lượng chất ma tuý rất ít, còn chủ yếu là bắt được người sử dụng ma tuý và từ lời khai của người sử dụng ma tuý nên cơ quan điều tra mới xác minh truy tìm người bán chất ma tuý. Khi người mua chất ma tuý sử dụng bị bắt thì lập tức người bán chất ma tuý đã kịp tẩu tán chất ma tuý hoặc bỏ trốn nếu có nguy cơ bị lộ. Nhiều trường hợp, người mua chất ma tuý khai ra người bán chất ma tuý cho mình, nhưng nếu chỉ có lời khai của người mua chất ma tuý mà không có các nguồn chứng cứ khác mà người bán chất ma tuý không nhận tội thì cũng không kết luận được.

Mặc dù Chương XVIII Bộ luật hình sự quy định 10 tội danh về ma tuý, nhưng thực tiễn xét xử trong thời gian qua ở nước ta mới phát hiện một số hành vi tập trung vào một số tội như: Tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý; tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý. Đối với các hành vi khác ít xảy ra, thậm chí chưa phát hiện được trường hợp phạm tội nào như: hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý hoặc hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý.

Các chất ma tuý được phát hiện ở nước ta chủ yếu là thuốc phiện, Hêrôin, Morphin, Cocain và một số chất ma tuý bán tổng hợp hoặc tổng hợp ở dạng ống hoặc viên được chế tạo ở một số nước được đưa trái phép vào Việt Nam như: Dolargan, Methadon, Methamphetamine, Suzusel...

Nắm chắc những đặc điểm của các tội phạm về ma tuý không chỉ giúp cho các các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có phương pháp phù hợp trong việc áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự vào việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về ma tuý, mà còn có tác dụng vận động nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý trong tình hình hiện nay, góp phần chặn đứng và đẩy lùi tệ nạn này.

No comments:

Post a Comment