27/07/2014
Luật tôn giáo của một số quốc gia và khái niệm hình thức pháp luật ở Việt Nam
TS. PHAN TRUNG HIỀN
PHÓ TRƯỞNG KHOA LUẬT – ĐẠI HỌC CẦN THƠ

Trong các nghiên cứu khoa học pháp lý hiện hành ở nước ta, hình thức của pháp luật là “cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp mình lên thành pháp luật”. Theo đó, pháp luật được xác định ở ba hình thức: tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Quan điểm này nhận được sự đồng thuận của khá nhiều nhà nghiên cứu pháp luật ở Việt Nam3 bởi nó phù hợp với đời sống pháp lý và tập quán của người Việt Nam.

Luật tôn giáo của một số quốc gia và khái niệm hình thức pháp luật ở Việt Nam

Khi nghiên cứu kiến thức lý luận về nhà nước và pháp luật, một trong những nội dung có tính chất nền tảng là việc xác định các hình thức bên ngoài của pháp luật. Nhiều công trình nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay xác định hình thức bên ngoài của pháp luật nói chung bao gồm: tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, một số công trình khác lại xem “những quy định của tôn giáo (chẳng hạn, Luật Hồi giáo)”1 là hình thức pháp luật. Vậy, có hay không sự tồn tại của pháp luật tôn giáo; có nên xem luật Hồi giáo, Thiên chúa giáo là các hình thức pháp luật hay không? Thông qua việc khảo sát về Kinh Qu’ran (Coran) và Kinh Thánh Thiên chúa giáo và một số công trình nghiên cứu khác, bài viết chứng minh và phân tích một hình thức pháp luật được một số quốc gia trên thế giới công nhận và áp dụng, tạm gọi là “tôn giáo pháp”.

Trong các nghiên cứu khoa học pháp lý hiện hành ở nước ta, hình thức của pháp luật là “cách thức mà giai cấp thống trị sử dụng để nâng ý chí của giai cấp mình lên thành pháp luật”2. Theo đó, pháp luật được xác định ở ba hình thức: tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật. Quan điểm này nhận được sự đồng thuận của khá nhiều nhà nghiên cứu pháp luật ở Việt Nam3 bởi nó phù hợp với đời sống pháp lý và tập quán của người Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có một số công trình nghiên cứu giới thiệu thêm hình thức pháp luật khác như: các hợp đồng mẫu chứa các quy phạm pháp luật, các học thuyết pháp lý4 hay những quy định của luật tôn giáo5.

Việc xác định hình thức của pháp luật bao gồm tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật có điểm thuận lợi là giải thích được các hình thức pháp luật đang tồn tại hoặc có khả năng áp dụng ở nước ta khi nghiên cứu các nội dung trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, khi bước vào thời kỳ hội nhập cùng với quá trình mở rộng phạm vi nghiên cứu pháp luật của các quốc gia khác (dù ở mức độ tham khảo để xây dựng cơ sở lý luận), khái niệm hình thức pháp luật nêu trên tỏ ra không bao quát hết các hình thức pháp luật tồn tại trong thực tế ở một số quốc gia trên thế giới.

2. Tính pháp lý của giáo lý ở một số nước trên thế giới

Để xem xét giáo lý có được xem là pháp luật, điều đầu tiên phải đề cập là các giáo lý trong các quốc gia đó có thể hiện các đặc trưng đặc thù của pháp luật hay không. Về phương diện lý luận, các đặc điểm này chính là ranh giới để phân biệt pháp luật với các quy phạm pháp luật khác, bao gồm: tính quy phạm phổ biến, tính quyền lực nhà nước, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức theo một hệ thống nhất định, tính ý chí và tính xã hội. Đi sâu vào nghiên cứu vai trò của giáo lý ở các quốc gia này, ta nhận thấy:

Thứ nhất, tính quy phạm phổ biến: khi nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp luật tại thời kỳ phong kiến châu Âu, Kinh Thánh trong Thiên chúa giáo từng được xem là pháp luật. Thời đó, trong phạm vi một quốc gia hoặc vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia, những điều khác với các giáo lý này đều bị cho là “dị giáo” và phải chịu sự trừng phạt. Bằng sức mạnh của “thần quyền”, Thiên chúa giáo lúc bấy giờ còn phát động các cuộc chiến đấu “thập tự chinh”6 gây nhiều thiệt hại về người và của. Nói lên điều này để thấy sức mạnh của tôn giáo đã từng tồn tại trong lịch sử. Ngày nay, Vatican là một đất nước có Đức Giáo Hoàng là người đứng đầu. Việc quản lý đất nước này chắc chắn có sử dụng giáo lý Thiên chúa giáo7.

Hiện nay, đạo Hồi được xem là một trong ba tôn giáo có số tín đồ lớn nhất thế giới (trên 1 tỉ tín đồ, khoảng 30 nước trên thế giới8), vượt qua số lượng người theo đạo Thiên chúa giáo (nếu tính riêng với đạo Tin lành) và Phật giáo9. Các nước điển hình về pháp luật Hồi giáo như: Afghanistan, Pakistan, Kowait, Bahrain, Quatar, Arập Xêut…10. Tuy nhiên, không phải quốc gia nào có đạo Hồi cũng xem tôn giáo này là pháp luật. Theo các nhà nghiên cứu, tôn giáo được xem là pháp luật khi thỏa mãn hai điều kiện sau: “Đạo Hồi là quốc đạo của quốc gia, quốc gia lấy các quy định trong Kinh Thánh của đạo Hồi làm luật. Chính vì vậy mà Thổ Nhĩ Kỳ, dù là nước có đạo Hồi là quốc đạo, nhưng vẫn là quốc gia thuộc hệ thống pháp luật châu Âu lục địa vì ở quốc gia này đạo Hồi chỉ được coi là tôn giáo chứ không phải là luật”11. Tóm lại, điều này có nghĩa rằng, một trong những yếu tố để giáo lý một tôn giáo trở thành “tôn giáo pháp” khi tính phổ biến trong phạm vi lãnh thổ quốc gia được sự công nhận của giai cấp cầm quyền của quốc gia đó, tức là thỏa mãn tính quy phạm, phổ biến của pháp luật.

Thứ hai, tính quyền lực nhà nước, trong lịch sử phong kiến châu Âu, nhiều nhà khoa học đã bị bức hại vì đưa ra những lý thuyết trái với “chuẩn mực” của một tôn giáo và bị cho là “dị giáo”. Ví dụ điển hình là Giordano Bruno (Brunô, người Ý, 1548 - 1600), người bị tòa án giáo hội xử thiêu vì khai sáng thuyết nhất tâm12. Trong các nước đạo Hồi ngày nay còn duy trì hình thức ném đá cho đến chết nếu có các hành vi như hiếp dâm, ngoại tình…13. Theo luật Hồi giáo, án ném đá được tiến hành như sau: người chịu án nếu là đàn ông bị chôn sống đến thắt lưng, nếu là phụ nữ bị chôn đến ngực, hai tay cũng bị chôn. Những kẻ thi hành án đọc to bản án rồi sau đó ném đá cho đến khi tội nhân tử vong. Hình thức thi hành án bằng ném đá được áp dụng trở lại ở Iran sau cách mạng Hồi giáo 197914. Ngoài ra, có một hệ thống hình phạt tương ứng với tội phạm chống lại Chúa (Hudud), bao gồm 7 tội: ngoại tình (kể cả thông dâm), vu cáo, uống rượu (nơi công cộng cũng như ở nhà riêng), tội trộm, cướp đường, phản đạo, vi phạm kinh thánh. Trong bảy tội phạm nói trên thì ba tội phạm đầu bao gồm: ngoại tình, vu cáo và uống rượu sẽ bị đánh bằng roi. Tội trộm và cướp đường bị phạt đóng đinh vào thánh giá hoặc cắt tay, chân. Tội phản đạo, vi phạm kinh thánh sẽ bị hình phạt chặt đầu15 hoặc ném đá đến chết. Điều này thể hiện rõ nét tính quyền lực nhà nước, kể cả bằng các hình phạt đặc thù của pháp luật hình sự trong các quốc gia công nhận hình thức pháp luật này.

Thứ ba, tính xác định chặt chẽ về mặt hình thức theo một hệ thống nhất định: khác với các hình thức pháp luật khác, luật đạo Hồi có nội dung là Kinh Thánh đạo Hồi, theo lời truyền dạy của nhà tiên tri Mohamed16. Nhiều nghiên cứu cho rằng hình thức này xuất hiện từ bốn bộ Kinh là: Kinh Qu’ran, Kinh Sunna, Idjmá và Qiyas; trong đó Kinh Qu’ran và Kinh Sunna là hai nguồn luật chủ đạo nhất, có giá trị pháp lý cao nhất đồng thời thể hiện là nguồn luật mang tính thần thánh và tự nhiên, còn Idjmá và Qiyas đóng vai trò là nguồn luật bổ trợ cho hai nguồn luật17. Riêng về cấu trúc “Kinh Qu’ran được chia thành 30 phần và 114 chương và được sắp xếp theo ý của nhà tiên tri. Các chương lại chia nhỏ thành 6.200 khổ thơ (verse), các luật gia đạo Hồi gọi chúng là “những khổ thơ pháp luật”. Chỉ có khoảng 3% các khổ thơ đó là liên quan đến pháp luật. Ví dụ, Luật Gia đình được quy định trong khoảng 70 khổ thơ; các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực luật tư khác được quy định trong 70 khổ thơ; khoảng 30 khổ thơ được coi là đặc trưng cho Luật Hình sự; các vấn đề về tài chính và hiến pháp thì được đề cập trong khoảng 20 khổ thơ; các vấn đề liên quan đến Luật Quốc tế thì cũng được quy định trong khoảng 20 khổ thơ18. Điều này cho thấy, luật đạo Hồi được thể hiện trong các bản Kinh thánh và được nhà nước của quốc gia nêu trên công nhận, áp dụng. Trên thực tế, những nước xem đạo Hồi là pháp luật, ranh giới phân biệt giữa Kinh Thánh của Hồi giáo và pháp luật của nhà nước thường không rõ ràng. Việc xâm hại đến một “câu thơ” trong Kinh Thánh cũng đồng thời với việc vi phạm quy định của nhà nước: vi phạm pháp luật.

Thứ tư, tính ý chí và tính xã hội, khác với văn bản quy phạm pháp luật - hình thức thể hiện toàn diện ý thức của giai cấp thống trị, tôn giáo pháp thể hiện ý chí của người sáng lập. Tuy nhiên, do được xem là quốc đạo và là luật pháp, ý chí đó trở thành ý chí được nhà nước chấp nhận và được xem là “chuẩn mực xử sự” chung của cộng đồng các quốc gia này.

Tất cả những nội dung trên thể hiện Kinh Thánh của một số tôn giáo có thể được xem là pháp luật ở một số quốc gia trên thế giới. Điều này chứng minh sự tồn tại của “tôn giáo pháp” – một hình thức pháp luật tồn tại song song với các hình thức như: tập quán pháp, tiền lệ pháp và văn bản quy phạm pháp luật.

3. “Tôn giáo pháp” và nội dung môn học Lý luận nhà nước và pháp luật ở nước ta

Việc xác định hình thức “tôn giáo pháp” góp phần bổ sung một số kiến thức lý luận trong khoa học về nhà nước và pháp luật ở nước ta.

Thứ nhất, trong khoa học pháp lý phổ biến ở nước ta, pháp luật được xem hình thành từ hai con đường: Nhà nước đặt ra các quy phạm mới phù hợp với lợi ích giai cấp và các điều kiện xã hội; Nhà nước công nhận sự tồn tại của các tập quán với điều kiện đó là tập quán tiến bộ, không trái pháp luật của Nhà nước và đạo đức xã hội (Điều 3 Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005, Điều 6 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000).

Cách hiểu này nhấn mạnh đến tính pháp chế của pháp luật bởi tất cả các quy phạm pháp luật đều dựa trên “ý chí” và sự “thông qua” của Nhà nước, hoàn toàn phù hợp với pháp luật Việt Nam hiện hành. Tuy nhiên, cách hiểu này có thể không khái quát được tất cả các hình thức pháp luật đang tồn tại ở một số quốc gia khác trên thế giới vì chưa giải thích hoàn chỉnh cách thức hình thành của tiền lệ pháp và tôn giáo pháp (vì tôn giáo pháp không xuất phát từ tập quán dân cư, cũng không do nhà nước ban hành, mà do một tôn giáo xây dựng nên). Khi khảo sát nhiều hệ thống pháp luật của các quốc gia, ta còn nhận thấy pháp luật hình thành bằng một số con đường khác như: Nhà nước công nhận các tiền lệ từ quá trình các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (tòa án, cơ quan hành chính nhà nước) giải quyết các vụ án, vụ việc hay nhà nước công nhận sự tồn tại của giáo lý trong xã hội song song với các hình thức bên ngoài khác của pháp luật.

Tóm lại, về mặt lý thuyết cho khoa học lý luận, có thể nói, pháp luật trên thế giới hình thành bằng hai con đường: hoặc Nhà nước ban hành mới các quy phạm; hoặc Nhà nước công nhận một, hoặc nhiều yếu tố đã tồn tại trong đời sống xã hội của quốc gia như: phong tục, tập quán, tiền lệ, thậm chí ở một số quốc gia là giáo lý của một tôn giáo, xem đó là pháp luật, cho phép tồn tại song song với các văn bản quy phạm pháp luật.

Thứ hai, nhiều nhà nghiên cứu đồng nhất hai khái niệm “nguồn của luật” và “hình thức (bên ngoài) của pháp luật”; tuy nhiên, một số nghiên cứu khác phân chia theo hai dạng: nguồn hình thức và nguồn nội dung19. Theo cách phân chia này, “tôn giáo pháp” có thể được xem là nguồn hình thức của một số quốc gia, tức là những “dạng thể hiện” của pháp luật mà nhà nước có thể viện dẫn để xem xét, xử lý một hành vi trên thực tế. Nếu công nhận sự tồn tại của “tôn giáo pháp” thì quan niệm về “nguồn hình thức” của pháp luật trên thế giới không còn bó gọn trong ba hình thức pháp luật, mà thay vào đó là bốn hình thức pháp luật cơ bản: văn bản quy phạm pháp luật, tiền lệ pháp, tập quán pháp và tôn giáo pháp.

Thứ ba, khi phân tích cấu thành của một quy phạm pháp luật, ta thường đề cập đến ba bộ phận: giả định, quy định và chế tài. Điều này hoàn toàn phù hợp với các quy phạm sẵn có ở nước ta. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia công nhận tôn giáo pháp, về mặt kỹ thuật có một số vấn đề cần phải lưu ý, như: khi phân tích các quy phạm pháp luật trong Kinh Thánh, ta cần thiết phải mở rộng khái niệm giả định. Giả định có thể là đoạn văn rất dài từ một vụ việc tiền lệ bởi vì nhiều nước công nhận tôn giáo pháp cũng đồng thời với việc công nhận tiền lệ pháp. Các thẩm phán của các nước theo luật Hồi giáo có thể sử dụng tiền lệ pháp đó để giải quyết một vụ việc mới phát sinh sau này mà hướng giải quyết vụ việc đó không được đề cập trong các bộ Kinh Thánh. Trường hợp khác, giả định và quy định có thể nằm trong một “đạo luật” (bộ Kinh Thánh), mà “chế tài” lại nằm trong một đạo luật khác (bộ Kinh Thánh khác). Ví dụ: Kinh Qu’ran cấm uống rượu, nhưng lại không nói gì về chế tài đối với hành vi này; chế tài này lại được tìm thấy trong Kinh Sunna bằng việc miêu tả rằng nhà tiên tri đã ra chế tài và bản thân ông là người thực thi hình phạt đánh roi đối với hành vi uống rượu này20.

Từ đây, khái niệm hình thức pháp luật không chỉ bó gọn trong văn bản quy phạm pháp luật mà nhà nước ban hành và tập quán pháp mà nhà nước công nhận áp dụng mà còn bao gồm những hình thức khác của pháp luật được nhà nước của một quốc gia công nhận là: tiền lệ pháp, tôn giáo pháp. Những dạng tồn tại này, trong một số trường hợp, có mặt trong đời sống xã hội trước khi văn bản quy phạm pháp luật ban hành. Thậm chí, ở các quốc gia Hồi giáo nêu trên, luật thành văn (văn bản quy phạm pháp luật) còn làm công việc hướng dẫn, giải thích cho các nguyên tắc chung được ghi chép trong các bộ Kinh Thánh và được nhà nước công nhận.

4. Kết luận

Việc chọn lựa hình thức pháp luật nào tồn tại và có hiệu lực trong một quốc gia tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: tập quán dân cư, vị trí của tín ngưỡng tôn giáo trong quan niệm của người dân quốc gia, sự phát triển về kinh tế - xã hội của quốc gia đó, sự tác động của hoàn cảnh chung của các quốc gia khác trên thế giới do quá trình hội nhập và đặc biệt là bản chất nhà nước, mối quan hệ giai cấp trong một quốc gia. Ở nước ta, phù hợp với thể chế chính trị là học thuyết duy vật biện chứng, phù hợp với bản chất nhà nước là thể hiện tính xã hội, lợi ích của toàn thể nhân dân, nước ta chỉ công nhận hình thức văn bản quy phạm pháp luật (hình thức chính thống, cơ bản nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam) và tập quán pháp (đối với một số ngành luật như dân sự, hôn nhân và gia đình). Ngoài ra, Việt Nam đang tiến tới áp dụng một số tiền lệ bởi theo định hướng của Đảng ta: “Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật, phát triển án lệ” (Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trang 5).

Riêng đối với các nước đạo Hồi, sự tồn tại dai dẳng của luật Hồi giáo được lý giải bởi nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân cơ bản là đa số các học giả Hồi giáo là thương gia và vì vậy, nó có một số điểm thích ứng đối với một số quốc gia có đạo Hồi làm quốc đạo trong thời đại giao thương kinh tế ngày nay. Tất nhiên, do tồn tại qua nhiều thế hệ và ăn sâu vào tiềm thức của người dân các quốc gia này và kết hợp với “thần quyền”, trong đa số các trường hợp, nhà nước và người dân của các quốc gia nói trên không đứng trên quan điểm xem xét lại, đánh giá lại tính hợp lý của những “khổ thơ pháp luật” mà thay vào đó là sự chấp nhận nó như “lời dạy của các bậc tiền nhân” của họ…

Trong xã hội hiện đại ngày nay, theo đà phát triển và dân chủ hóa đời sống xã hội, đa số các quốc gia trên thế giới không công nhận việc áp dụng hình thức tôn giáo pháp trong phạm vi quốc gia mình, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, khi nghiên cứu khoa học lý luận, ta nhận thấy sự tồn tại của hình thức pháp luật này là có thật ở một số quốc gia, đặc biệt là các quốc gia lấy đạo Hồi làm quốc đạo. Vì vậy, trong khoa học lý luận, nên chăng cần ghi nhận mang tính tham khảo hình thức pháp luật “tôn giáo pháp” để thấy tính đa dạng của các hình thức pháp luật trên thế giới, hình thức “tôn giáo pháp”.

(1) PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt (chủ biên), Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 219.

(2) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2007, tr. 81.

(3) Ví dụ: PGS.TS. Nguyễn Thị Hồi, Những nội dung căn bản của môn học Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010, tr.116 – 122. 

(4) GS.TS. Phạm Hồng Thái, Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Giao thông vận tải, 2009, tr. 310.

(5) PGS.TS. Nguyễn Cửu Việt (chủ biên), tlđd, tr. 219.

(6) Theo GS. Vũ Dương Ninh, Lịch sử văn minh thế giới, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2010, tr. 316.

(7) Giáo hoàng là một vị vua không truyền tử, nắm quyền lực tuyệt đối, có nghĩa là quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tối cao đối với Thành Vatican. Giáo hoàng là vị vua chuyên chế duy nhất tại châu Âu. Hệ thống pháp luật dựa trên cơ sở Giáo luật. Nếu Giáo luật không thích hợp, một bộ luật đặc biệt của khu vực sẽ được áp dụng, thường theo sự cung cấp của nước Ý (Theo Bách Khoa toàn thư mở, Wikipedia, http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh_Vatican, [truy cập ngày 02/01/2011].

(8) PGS, TS. Thái Vĩnh Thắng, Về hệ thống pháp luật hồi giáo, Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp điện tử, http://www.nclp.org.vn/kinh_nghiem_quoc_te/ve-he-thong-phap-luat-hoi-giao/?searchterm=.

(9) Phan Anh, Người dân Hồi giáo đã vượt Thiên chúa giáo, http://dantri.com.vn/c25/s36-225446/nguoi-dan-hoi-giao-da-vuot-thien-chua-giao.htm.

(10) Réne David (người dịch: Nguyễn Sĩ Dũng và Nguyễn Đức Lâm), Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới đương đại, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, tr. 341, dẫn theo: ThS. Đỗ Thị Mai Hạnh, Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo, Tạp chí Khoa học Pháp lý số 3(34)/2006, xem: http://www.hcmulaw.edu.vn/hcmulaw/index.php?option=com_content&view=article&catid=105:ctc20063&id=400:bcvnclhg&Itemid=109.  

(11) Michael Bogdan, Comparative Law, Nxb Kluwer Law and Taxation, năm 1994, tr. 228, dẫn  theo: ThS. Đỗ Thị Mai Hạnh, Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo, tlđd.

(12) Theo Bách Khoa toàn thư mở, Wikipedia, http://en.wikipedia.org/wiki/Giordano_Bruno (truy cập ngày 02-01-2011).

(13) Hoài Linh, Indonesia cho phép ném đá đến chết người ngoại tình, http://vnn.vietnamnet.vn/thegioi/doday/2009/09/868620/. 

(14) Mai Trang, Người sắp bị nhục hình “thú tội” trên TV, http://vnexpress.net/GL/The-gioi/2010/11/3BA2304A/.

(15) PGS, TS. Thái Vĩnh Thắng, Về hệ thống pháp luật Hồi giáo, tlđd.

(16) Môhamet xuất thân từ một bộ lạc có thế lực ở Mecca, truyền bá đạo Hồi từ năm 610. Năm 630, sau nhiều biến cố, Môhamet đem 10.000 người chiếm thành phố Mecca. Môhamet trở thành người đứng đầu nhà nước mới thành lập. Năm 632 Môhamet chết. Khi Môhamet còn sống, những lời nói của ông được các môn đồ ghi trên lá chà là, trên đá trắng và học thuộc lòng. Sau này, những người kế thừa là Calipha Abu Bekr và Ôtman thu thập sắp xếp chỉnh lý thành kinh Coran (Theo GS. Vũ Dương Ninh, tlđd, tr. 46-51).

(17) ThS. Đỗ Thị Mai Hạnh, Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo, tlđd.  

(18) ThS. Đỗ Thị Mai Hạnh, Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo, tlđd.  

(19) PGS.TS. Nguyễn Thị Hồi, Những nội dung căn bản của môn học Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010, tr. 122 – 125. 

(20) ThS. Đỗ Thị Mai Hạnh, Bản chất và nguồn của luật Hồi giáo, tlđd.

1. Các hình thức pháp luật theo khoa học pháp lý Việt Nam hiện nay

Theo tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 24 tháng 12 năm 2011
Tra cứu tất cả các bài viết của Tạp chí nghiên cứu lập pháp tại: Tạp chí nghiên cứu lập pháp

Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

No comments:

Post a Comment