Bài tập Xã hội học pháp luật có đáp án.
I. Định nghĩa.
Hiện tượng tội phạm là hiện tượng xã hội- pháp lí luôn ở trạng thái động, xuất hiện trong xã hội có giai cấp, là thể thống nhất các tội phạm được thực hiện trong xã hội nhất định và ở thời kỳ nhất định, có các nguyên nhân, các đặc điểm định lượng ( thực trạng) và định tính ( tính chất, cơ cấu) của nó, đồng thời có tính độc lập tương đối.
Hành vi sai lệch là hành vi của cá nhân hay một nhóm xã hội vi phạm các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực xã hội và đó là những hành vi vi phạm, phá vỡ hiệu lực, sự tác động của các chuẩn mực xã hội phù hợp, tiến bộ, đang thịnh hành và được xã hội thừa nhận rộng rãi.
Nguyên nhân:
Đối với hành vi sai lệch: Sự thiếu hiểu biết, hiểu không đúng các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực xã hội nên một số cá nhân, tập thể đã thực hiện những hành vi sai lệch nhất định. Cùng với đó, trong hoạt động nhận thức, tư duy diễn dịch không đúng, sự suy diễn một số chuẩn mực xã hội thiếu căn cứ logic cùng với việc sử dụng các phán đoán phi logic là một nguyên nhân dẫn tới các hành vi sai lệch. Việc củng cố, tiếp thu các quy tắc, yêu cầu của các chuẩn mực xã hội không còn phù hợp, không còn được cộng đồng xã hội thừa nhận hoặc không ăn khớp với các nguyên tắc, quy định của hiện hành cũng là nguyên nhân dẫn đến hành vi sai lệch. Hành vi sai lệch còn bắt nguồn từ những khuyết tật về tâm sinh lí của mỗi con người và từ hành vi sai lệch khác theo mối liên hệ nhân - quả.
Đối với hiện tượng tội phạm: Những tác động, ảnh hưởng từ bên ngoài vào nước ta làm cho hiện tượng tội phạm diễn ra ngày càng phức tạp, các thế lực phản động, thù địch ở nước ngoài vẫn tìm kiếm các phương kế tinh vi hơn, hiện đại hơn, tìm cách lôi kéo các phần tử thoái hóa biến chất trong nước âm mưu diễn biến hòa bình. Ngoài ra, khi nước ta đang trên con đường hội nhập và phát triển với cộng đồng quốc tế thì các nhóm tội phạm quốc tế coi Việt Nam là mảnh đất mầu mỡ để thực hiện hành vi phạm pháp, phạm tội. Lại có những phần tử xấu lợi dụng các tiến bộ của khoa học – kĩ thuật và công nghệ để phục vụ cho hoạt động phạm tội, làm hình thành nên loại tội phạm mới “ tội phạm công nghệ cao”. Hệ thống chính sách xã hội, hệ thống pháp luật vẫn thiếu sự đồng bộ, chưa theo kịp sự phát triển của xã hội nên còn nhiều kẽ hở mà kẻ xấu có thể lợi dụng, các cơ quan bảo vệ pháp luật còn thiếu kiên quyết và nghiêm khắc trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Một nguyên nhân đặc biệt quan trọng là công tác giáo dục, phổ biến pháp luật trong các tầng lớp nhân dân tuy đã được chú trọng và triển khai rộng rãi nhưng hiệu quả không cao và chưa liên tục nên ý thức, hiểu biết pháp luật của nhân dân còn nhiều hạn chế.
II. Các biện pháp phòng, chống hành vi sai lệch, hiện tượng tội phạm và hiệu quả của các biện pháp đó trong phòng chống tội phạm ở nước ta.
Công tác phòng chống các hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật nói chung và tội phạm nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng và to lớn trong việc giữ gìn, bảo vệ trật tự, kỉ cương an toàn xã hội. Hiệu quả của công tác phòng chống hành vi sai lệch chuẩn mực và hiện tượng tội phạm phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: Bản chất gia cấp của nhà nước vàxã hội; những quan điểm đạo đức, chính trị, pháp luật đang thịnh hành và giữ vai trò chủ đạo trong xã hội; trình độ dân trí; các khả năng về kinh tế , các điều kiện về trang thiết bị kĩ thuật; sự hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, phát thanh, báo chí…; sự hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp…
1. Biện pháp tiếp cận thông tin.
Hoạt động trao đổi, tiếp nhận và xử lý thông tin trong cuộc sống có tác dụng rất lớn trong việc nâng cao tầm nhận thức và hiểu biết của mỗi người, điều đó giúp họ biết được những việc nên làm, điều nên tránh trong hành vi của mình. Biện pháp tiếp cận thông tin hướng tới việc cung cấp, trang bị, hướng dẫn, cũng như giải đáp các thông tin về các nguyên tắc, quy định của pháp luật.
Trong trường hợp hành vi vi phạm pháp luật xảy ra có nguyên nhân là do người vi phạm không biết, không hiểu các nguyên tắc, các quy định của chuẩn mực pháp luật thì các cơ quan tư pháp phải phối hợp cùng với các phương tiện thông tin đại chúng như phát thanh, truyền hình, báo chí…tiến hành các hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật, hướng dẫn, giải thích các nội dung của các chuẩn mực pháp luật có liên quan. Ví dụ: Trung tâm trợ giúp pháp lý thuộc sở tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phối hợp với UBND các xã, thị trấn tổ chức tuyên truyền pháp luật, giải đáp các vướng mắc về pháp luật cho nhân dân trong xã. Những việc như vậy sẽ góp phần cung cấp, trang bị cho các tầng lớp xã hội các kiến thức, hiểu biết về pháp luật, hạn chế được các vụ việc vi phạm pháp luật, phạm tội xảy ra có nguyên nhân do thiếu kiến thức, thiếu hiểu biết về pháp luật. Cần phải chú trọng công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục kiến thức pháp luật hình sự, luật tố tụng hình sự cũng như các văn bản pháp luật có liên quan đến tội phạm, những hành vi sai lệch, vi phạm pháp luật hình sự thường gắn với việc áp dụng các hình phạt nhất định.
Ý thức, thái độ của những cá nhân, nhóm xã hội nào đó đối với các chuẩn mực pháp luật, đối với các giá trị chuẩn mực xã hội còn mang tính chất lệch lạc, chưa đúng mức; còn tỏ ra xem nhẹ, coi thường thì cần phải giáo dục, định hướng họ theo cái đúng để họ hiểu và tuân thủ theo các chuẩn mực pháp luật, chấp hành các nguyên tắc, quy định của pháp luật. Ví dụ: Thanh thiếu niên rất dễ bị kích động, lôi kéo váo các hành vi quá khích, coi thường luật lệ an toàn giao thông, coi thường tính mạng của người khác, tổ chức cũng như tham gia đua xe trái phép gây mất trật tự công cộng. Các cơ quan chức năng cần phải có những chương trình giáo dục định hướng hành vi cho họ
Biện pháp này đòi hỏi phải cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác tạo ra tính ổn định và nguyên tắc không thể không tuân theo trong việc áp dụng các chuẩn mực pháp luật nhằm ngăn chặn các hành vi sai lệch và hiện tượng tội phạm.
Cần chú trọng nâng cao uy tín của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ trong xã hội. Pháp luật cần phải công bằng, nghiêm minh để các tầng lớp nhân dân tin tưởng và thực hiện. Điều đó không chỉ thể hiện ở nội tại các quy phạm pháp luật mà nó thể hiện chủ yếu ở quá trình thực hiện và áp dụng pháp luật. Tuy nhiên, uy tín của pháp luật nước ta còn rất nhiều điểm hạn chế, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với pháp luật.
Chúng ta cần cảnh giác, đấu tranh với những thông tin sai trái, những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, bịa đặt của các thế lực thù địch về các giá trị chuẩn mực xã hội cũng như hệ thống pháp luật, làm lệch lạc nội dung của chuẩn mực pháp luật, gây tâm lý hoang mang, bất ổn trong một bộ phận dân cư. Biện pháp này đòi hỏi các cơ quan chức năng cũng như mọi người dân phải vạch trần các âm mưu thủ đoạn trên, làm phá sản “ chiến lược diễn biến hòa bình” cũng như các hoạt động gây rối, chống phá của các thế lực thù địch.
2. Biện pháp phòng ngừa xã hội.
Là một biện pháp phòng chống hành vi sai lệch và hiện tượng tội phạm mạng lại hiệu quả cao và thường được đặt lên đầu trong số các biện pháp được áp dụng, xuất phát từ nguyên tắc “ nhà pháp luật thông thái phải là người biết cách ngăn ngừa tội phạm để không bị bắt buộc phải trừng trị nó”. Đây là biện pháp tiếp cận nhằm tìm hiểu, làm sáng tỏ các nguyên nhân, điều kiện dẫn tới hành vi sai lệch và tội phạm, từ đó đề ra các phương hướng, biện pháp phòng ngừa cụ thể.
Phòng ngừa xã hội là theo đuổi mục đích phát hiện, xóa bỏ các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh hành vi sai lệch và hành vi phạm tội cụ thể. Nó là một hệ thống các biện pháp tác động về mặt xã hội như về mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng, tâm lý, văn hóa, giáo dục, pháp luật, đạo đức mà nhà nước và xã hội áp dụng nhằm loại trừ các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh các hành vi sai lệch và hiện tượng tội phạm; góp phần định hướng cho nhân dân hình thành nên những hành vi cư xử hợp pháp, hợp đạo đức.
Cơ sở khoa học của biện pháp phòng ngừa xã hội là sự nhận thức hành vi, hoạt động của con người vốn mạng bản chất tuân theo quy luật hướng tới cái thiện; mọi người đều là hoặc trở thành công dân tốt, là người có ích cho xã hội. Hành vi sai lệch, hành vi phạm tội của họ bên cạnh những động cơ mục đích cá nhân, còn xuất phát từ những điều kiện kinh tế- xã hội nhất định. Nếu như vô hiệu hóa được các nguyên nhân đó thì con người sẽ không bị sa ngã vào môi trường tiêu cực. Ngoài ra, việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, trong đó mỗi công dân ý thức được điều hay, lẽ phải, thực hiện điều tốt lành, tránh xa tội lỗi là biện pháp phòng ngừa hiệu quả nhất.
Biện pháp phòng ngừa xã hội thường được thể hiện ở hai cấp độ là phòng ngừa chung và phòng ngừa chuyên ngành.
Phòng ngừa chung được thực hiện trên cơ sở tạo ra những tiền đề tích cực những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật cơ bản nhằm loại trừ hành vi sai lệch và tội phạm. Ví dụ: Trang bị kiến thức, hiểu biết về pháp luật, hình thành và phát triển ý thức pháp luật tích cực cho công dân, nâng cao trình độ học vấn, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Phòng ngừa chuyên ngành là tập hợp những giải pháp cụ thể nhằm ngăn ngừa những loại hành vi sai lệch và hành vi phạm tội nhất định. Trong đó, đối với tội phạm, phòng ngừa hình sự là biện pháp quan trọng nhất trong việc ngăn chặn hiện tượng tội phạm.
3. Biện pháp áp dụng hình phạt.
Là phương thức pháp lý hình sự trong đấu tranh chống các hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật hình sự, đó là các hành vi phạm tội cụ thể. Biện pháp này được áp dụng với những người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái với pháp luật hình sự, có lỗi và do đó, bị đe dọa phải chịu một hình phạt với tư cách là một biện pháp cưỡng chế có tính mạnh mẽ, nghiêm khắc mà nhà nước áp dụng nhằm trừng trị kẻ phạm tội.
Việc truy tố, xét xử, buộc kẻ phạm tội phải chịu hình phạt nhất định có tác dụng rất quan trọng trong công tác phòng chống tội phạm. Ngoài việc trừng trị kẻ phạm tội, cải tạo, cảm hóa người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội; thì hình phạt còn có vai trò giáo dục, ngăn ngừa, răn đe, tác động đến những người khác khiến họ phải từ bỏ ý định phạm tội, thậm chí là âm mưu hay sự chuẩn bị tiến hành hành vi phạm tội nào đó.
Trong hệ thống pháp luật nước ta, chỉ có luật hình sự quy định về tội phạm và hình phạt. Bộ luật hình sự năm 1999 của nhà nước ta góp phần rất lớn vào việc đấu tranh ngăn chặn tôi phạm, có quy định hai nhóm hình phạt là hình phạt chính và hình phạt bổ sung:
Các hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình.
Các hình phạt bổ sung bao gồm: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, cấm cư trú, quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản, phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính, trục xuất khi không áp dụng là hình phạt chính.
4, Biện pháp tiếp cận y – sinh học.
Trong công tác phòng chống các hành vi sai lệch và tội phạm, biện pháp tiếp cận y - sinh học do các nhân viên cơ quan chuyên nghiệp như y tế, điều tra, giám định, chuyên gia tâm thần học thực hiện đối với những người có hành vi sai lệch chuẩn mực và tội phạm. Biện pháp này nhằm tìm hiểu, phát hiện ở họ những khuyết tật về mặt thể chất như mù, câm, dị dạng… những khuyết tật về mặt trí lực như tâm thần, hoang tưởng, có thể là phạm tội trong trạng thái không đủ khả năng nhận thức như say rượu, nghiện ma túy hoặc các chất kích thích khác… những khuyết tật đó làm cho người vi phạm mất một phần hoặc toàn bộ khả năng tự kiềm chế, kiểm soát hành vi của mình, do đó bị mất năng lực trách nhiệm hành vi. Ví dụ: Một người bị mắc bệnh tâm thần, trong lúc phát bệnh đã giết hại hai người đi đường, cơ quan giám định xác định người này bị mắc bệnh tâm thần nên không phải chịu trách nhiệm hình sự, mà bị áp dụng biện pháp tư pháp là bắt buộc đi chữa bệnh. Những người mất năng lực hành vi như trên có bị áp dụng các biện pháp tư pháp hay bị truy cứu trách nhiệm hình sự còn tùy thuộc vào quy định của pháp luật hình sự và từng trường hợp cụ thể.
Biện pháp này có ý nghĩa rất quan trọng trong, có vai trò làm sáng tỏ những nguyên nhân, điều kiện của hành vi sai lệch chuẩn mực pháp luật và hành vi phạm tội, giải thích cơ chế tâm lý của những hành vi đó. Biện pháp này cũng góp phần nâng cao đáng kể hiệu quả của hoạt động xét xử tội phạm trên nguyên tắc không xử oan người vô tội, người được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự; đồng thời cũng không để lọt lưới kẻ phạm tội đảm bảo tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật.
5. Biện pháp tiếp cận tổng hợp.
Công tác phòng ngừa, chống lại các hành vi sai lệch chuẩn mực và tội phạm không phải là trách nhiệm của riêng cá nhân hay cơ quan hữu quan nào, nó phải được coi là trách nhiệm chung của toàn xã hội. Đòi hỏi sự huy động phấn đấu, nỗ lực của toàn Đảng, Nhà nước và toàn dân; Đảng và Nhà nước cần có hệ thống chính sách kinh tế - xã hội đúng đắn, hiệu quả; pháp luật phải toàn diện, đồng bộ, phù hợp và kịp thời. Phải được sự tham gia rộng rãi của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương, của các tổ chức, các cơ quan đoàn thể xã hội, của các nhà hoạt động chính trị - xã hội và quan trọng nhất là sự tham gia của đông đảo các
tầng lớp nhân dân.
Củng cố các nguyên tắc đạo đức gắn liền với sự tôn trọng của những người có chức, có quyền khi giải quyết công việc của người dân, có thái độ trân trọng đúng mức với các nhu cầu chính đáng của người dân.
Các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống cần được giáo dục cũng như phải xây dựng và phổ biến lối sống lành mạnh, tiến bộ; hình thành lối sống tuân theo pháp luật cho các tầng lớp nhân dân. Đề cao nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cơ sở nền tảng của sự công bằng, dân chủ, văn minh, mọi công dân đều có quyền bình đẳn trước pháp luật.
Mở rộng các loại hình vui chơi, giải trí lành mạnh, tiến bộ cho nhân dân đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên và nhi đồng. cùng với đó phải nâng cao chất lượng các sinh hoạt văn hóa, văn nghệ, thể dục – thể thao nhằm rèn luyện sức khỏe, giáo dục và bồi dưỡng nhân cách, làm phong phú thêm cho đời sống tinh thần của nhân dân; tạo ra môi trường lành mạnh, trong đó mọi người dân đều có ý thức tôn trọng và tuân thủ pháp luật.
Cải tiến và đổi mới công tác giáo dục pháp luật trong hệ thống các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học. Mở rộng hoạt động phổ biến, tuyền truyền, giải thích pháp luật trong các tầng lớp nhân dân, giúp họ nâng cao trình độ nhận thức cũng như những kiến thức, hiểu biết về pháp luật, hình thành nên thói quen sống và làm việc theo pháp luật.
Công khai thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng các biện pháp về kết quả đấu tranh với các vụ việc vi phạm pháp luật để các tầng lớp nhân dân được biết và tin tưởng vào hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Phải thường xuyên tổ chức thăm dò dư luận xã hội đối với những vấn đền cụ thể của cuộc sống để có phương hướng điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung pháp luật cũng như đề ra các biện pháp giải quyết kịp thời.
Đối với từng loại tội phạm ở các đối tượng khác nhau cần phải dựa trên cơ sở các dự báo về diễn biến của tình hình vi phạm pháp luật và tình hình tội phạm để xây dựng các kế hoạch đấu tranh có hiệu quả trên từng khu vực và trong khoảng thời gian nhất định.
Trong điều kiện ngày nay, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm cần được mở rộng hơn nữa sự hợp tác trên phạm vi quốc tế. Sự tham gia ngày càng đầy đủ, sâu rộng của Việt Nam vào các tổ chức quốc tế như Interpol … góp phần nâng cao hiệu quả của công tác phòng chống tội phạm xuyên quốc gia.
No comments:
Post a Comment