1. Xác định tội danh và định khung hình phạt cho hành vi của A
Hành vi phạm tội của A thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của tội cướp tài sản. Tội cướp tài sản được qui định tại Điều 133 BLHS: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm. …”
Về khách thể của tội phạm: tội cướp tài sản xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản, ngoài ra còn xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm vào tính mạng,. sức khỏe của công dân. Rõ ràng trong tình huống mà đề bài nêu ra, hành vi nguy hiểm của A là nhằm chiếm đoạt tài sản của người đi đường là chị N (đi xe máy); đồng thời hành vi dùng dây thép căng ngang đường làm người đi đường ngã hoàn toàn có thể xâm hại đến tính mạng, sức khỏe của chị N.
Mặt khách quan của tội phạm: đây là tội phạm có cấu thành hình thức, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc mà chỉ là dấu hiệu định khung hình phạt hoặc chỉ là tình tiết để xem xét khi quyết định hình phạt. Hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện ở các hành vi: dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc; hoặc hành vi khác làm người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được và tất cả các hành vi trên đều nahừm chiếm đoạt tài sản. Dùng vũ lực là dùng sức mạnh vật chất tấn công người có trách nhiệm với tài sản: đấm, đá, trói… và thường kèm theo các công cụ, phương tiện như dao, súng, gậy… Đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là đe dọa ngay tức khắc dùng sức mạnh vật chất được thể hiện bằng lời nói, cử chỉ hành động đe dọa sẽ tấn công người quản lí tài sản hoặc những người khác nếu không đáp ứng yêu cầu hoặc có ý định ngăn cản hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Ở đây, A không dùng vũ lực, cũng không đe dọa dùng vũ lực mà bằng cách thức thủ đoạn khác – căng dây thép ngang đường đã làm chị N đi xe máy qua bị hất ngược trở lại, ngất xỉu, hoàn toàn không cón khả năng quản lý được tài sản và A dễ dàng chiếm đoạt tài sản của chị N.
Mặt chủ quan của tội phạm: lỗi của tội phạm là lỗi cố ý trực tiếp với mục đích vụ lợi. Với ý định chiếm đoạt tài sản của người đi đường, lợi dụng đêm tối vắng vẻ, A đã căng ngang đường bằng dây thép, hai đầu dây đều được cột chặt vào ven đường. A hoàn toàn ý thức được hành vi nguy hiểm của mình, do trời tối vắng vẻ, người điều khiển phương tiện qua lại sẽ khó có thể nhận ra cái bẫy này của A mà tránh nên rất dễ ngã. Cụ thể là chị N đi xe máy qua bị dây thép hất ngược trở lại, nằm ngất xỉu, A dễ dàng chiếm đoạt được tài sản của chị N.
Chủ thể của tội phạm: chủ thể thường. Để bài không đề cập đến, nhưng xét thấy hành vi nguy hiểm của A qua việc căng dây thép ngang đường với hành vi thấy người bị mắc dây thép ngã, bất tỉnh mà cướp đoạt tài sản của người đó là hoàn toàn xuất phát từ sự tính toán có chủ ý, nhận thức rõ ràng của A. Do đó, có thể coi A là người có năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi luật định.
Định khung hình phạt cho hành vi của A: do thiệt hại về tài sản (không phải là tài sản bị chiếm đoạt) có tổng giá trị là 3.500.000 đồng (tiền viện phí: 2.700.000 đồng và tiền sửa xe máy: 800.000 đồng) nhỏ hơn 5.000.000 đồng nên chưa thể coi là gây hậu quả nghiêm trọng. Tình tiết tăng nạng “thủ đoạn nguy hiểm khác” qui định tại điểm d khoản 2 Điều 133 được hướng dẫn tại điểm 5.1 Mục 5 phần I Thông tư liên tich số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP hướng dẫn áp dụng một số qui định tại chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS. Theo đó, ngoài các trường hợp sử dụng vũ khí, phương tiện nguye hiểm để thực hiện việc cướp tài sản, người phạm tội có thể dùng thủ đoạn khác nguy hiểm đối với người bị tấn công hoặc những người khác như sử dụng thuốc ngủ, thuốc mê với liều lượng có thể gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe; dùng dây chăng qua đường làm cho nạn nhân đi mô tô, xe máy vấp ngã để cướp tài sản… Theo tình huống đề bài thì tổn hại của chị N không đáng kể, do đó có thể khẳng định A phạm tội thuộc điểm d khoản 2 Điều 133 BLHS: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:… d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;…”
Vậy khung hình phạt áp dụng cho hành vi của A là phạt tù từ bảy năm đến mười lắm năm.
2. Giả sử N bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 61% thì trách nhiệm hình sự của A được xác định như thế nào?
Theo giả thuyết N bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 61% thì trách nhiệm hình sự của A được xác định theo điểm a khoản 4 Điều 133: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;…”.
Do khách thể của tội cướp tài sản là hai quan hệ xã hội – quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân nên hậu quả của tội này có thể là thiệt hại về tài sản hoặc thiệt hại về cả tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Nếu hậu quả là thiệt hại về sức khỏe thì người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp tài sản với tình tiết gây thương tích hoắc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nếu người bị hại có tỷ lệ thương tậ từ 11% trở lên. Theo đề bài, chị N bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 61% thì A sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 4 Điều 133. Trong trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp phạm tội qui định tại điểm đ khoản 2 và điểm a khoản 3, chỉ khác ở tỷ lệ thương tật của người bị hại hoặc của người khác cao hơn. Đây là trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nên phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo khoản 4 Điều 133.
Một hậu quả cũng dễ xảy ra, nạn nhân bị chết, trong trường hợp này phức tạp hơn, đòi hỏi cần phân biệt trường hợp người phạm tội chỉ với mong muốn chiếm đoạt tài sản, không mong người bị hại chết – cũng chịu trách nhiệm hình sự theo điểm a khoản 4 Điều 133, nhưng nếu người phạm tội giết người nhằm chiếm đoạt tài sản thì khác, sẽ phải chịu trách nhiệm cho hai tội là tội giết người và tội cướp tài sản.
Tài liệu tham khảo
1. Đinh Văn Quế - Thạc sĩ Luật học, Bình luận khoa học BLHS. Phần các loại tội phạm – tập 2, TANDTC – 2002
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – tập 2, NXB CAND, Hà Nội – 2007
3. Bộ luật hình sự Việt Nam (được sửa đổi, bổ sung năm 2009)
4. Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại chuowng XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của BLHS
Cảm ơn bạn Giang Linh - ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment