Ngoại hối có một tầm quan trọng nhất định đối với đời sống kinh tế – xã hội nên chính phủ mỗi quốc gia đều tìm cách chọn lựa cho mình những chính sách thích hợp trong việc quản lý ngoại hối và điều tiết hoạt động ngoại hối. Hoạt động ngoại hối có thể coi là quá trình hoạt động kinh tế – pháp lí của các chủ thể, thông qua việc xác lập và thực hiện các giao dịch khác nhau về ngoại hối. Chủ thể của hoạt động ngoại hối là người cư trú và người không cư trú, là một trong những đặc trưng cơ bản của hoạt động ngoại hối để giúp phân biệt hoạt động này với các loại hình hoạt động kinh tế khác.
Để hiểu rõ hơn về hai chủ thể này, bài viết trình bày đề tài: “Phân tích sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ của người cư trú và người không cư trú khi sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật.”
Nội dung
1. Khái quát một số vấn đề lý luận
1.1. Ngoại hối
Ngoại hối là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá trị dùng để thanh toán giữa các quốc gia. Tùy theo quan niêm của người quản lý ngoại hối ở mỗi nước mà khái niệm ngoại hối có thể không thực sự giống nhau.
Ở Việt Nam, ngoại hối được định nghĩa bằng cách liệt kê các tài sản được coi là ngoại hối tại khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối năm 2005:
- Đồng tiền của quốc gia khác hoặc đồng tiền chung châu Âu và đồng tiền chung khác được sử dụng trong thanh toán quốc tế và khu vực (sau đây gọi là ngoại tệ);
- Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán, hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ và các phương tiện thanh toán khác;
- Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá khác;
- Vàng thuộc dự trữ ngoại hối nhà nước, trên tài khoản ở nước ngoài của người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
- Đồng tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc được sử dụng trong thanh toán quốc tế.
1.2. Hoạt động ngoại hối
Theo góc độ pháp lý, hoạt động ngoại hối là tổng hợp các hành vi pháp lý do các chủ thể khác nhau thực hiện trong quá trình chiễm hữu, sử dụng và định đoạt các tài sản được coi là ngoại hối. Các hành vi pháp lý này có thể là hành vi pháp lý hoặc hành vi thương mại phụ thuộc vào người sử dụng chúng vì nhu cầu dân sự hay thương mại.
Theo góc độ pháp luật thực định, hoạt động ngoại hối là hoạt động của người cư trú, người không cư trú trong giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối và các giao dịch khác liên quan đến ngoại hối (Khoản 8 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối 2005).
Có thể thấy, hoạt động ngoại hối chính là một quá trình hoạt động kinh tế – pháp lý của các chủ thể, thông qua xác lập và thực hiện các giao dịch khác nhau về ngoại hối. Hoạt động ngoại hối có các đặc trưng cơ bản sau:
- Đối tượng của hoạt động ngoại hối là các ngoại hối được pháp luật Việt Nam quy định và cho phép lưu thông cùng các dịch vụ ngoại hối.
- Chủ thể của hoạt động ngoại hối là người cư trú và người không cư trú trực tiếp tham gia vào các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam, hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối và các giao dịch khác liên quan đến ngoại hối.
- Nội dung của hoạt động ngoại hối bao gồm giao dịch vãng lai, giao dịch vốn, các hành vi sử dụng ngoại hối hay cung ứng dịch vụ về ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam.
1.3. Người cư trú và người không cư trú
Theo cách phân loại của pháp luật hiện hành, chủ thể sử dụng ngoại hối bao gồm người cư trú và người không cư trú. Cả hai chủ thể này có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Xét từ góc độ nhà nước, cách phân loại này giúp cho Nhà nước có chính sách quản lý thích hợp cho từng đối tượng quản lý nhà nước về ngoại tệ. Tuy nhiên, người cư trú hay người không cứ trú lại chưa có một khái niệm định nghĩa cụ thể nào mà chỉ được định nghĩa dưới dạng liệt kê những tổ chức, cá nhân nào thuộc kiểu chủ thể là người cư trú; tổ chức, cá nhân nào thuộc kiểu chủ thể là người không cư trú.
Những đối tượng được liệt kê nói trên được quy định rõ tại khoản 2 và khoản 3, Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối 2005 như sau:
"2. Người cư trú là tổ chức, cá nhân thuộc các đối tượng sau đây:
a) Tổ chức tín dụng được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt Nam (sau đây gọi là tổ chức tín dụng);
b) Tổ chức kinh tế được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trừ đối tượng quy định tại điểm a khoản này (sau đây gọi là tổ chức kinh tế);
c) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện của Việt Nam hoạt động tại Việt Nam;
d) Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam tại nước ngoài;
đ) Văn phòng đại diện tại nước ngoài của các tổ chức quy định tại các điểm a, b và c khoản này;
e) Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam; công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thời hạn dưới 12 tháng; công dân Việt Nam làm việc tại các tổ chức quy định tại điểm d và điểm đ khoản này và cá nhân đi theo họ;
g) Công dân Việt Nam đi du lịch, học tập, chữa bệnh và thăm viếng ở nước ngoài;
h) Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có thời hạn từ 12 tháng trở lên, trừ các trường hợp người nước ngoài học tập, chữa bệnh, du lịch hoặc làm việc cho cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự, văn phòng đại diện của các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.
3. Người không cư trú là các đối tượng không quy định tại khoản 2 Điều này."
Theo quy định trên thì “người” ở đây cần được hiểu dưới ý cá nhân và tổ chức có hay không phải là công dân Việt Nam. Theo đó, người cư trú được chỉ ra khá rõ ràng rằng họ là ai, trong khi người không cư trú chính là những thành phần loại trừ không phải là người cư trú. Việc xác định rõ ai là người cư trú và ai là người cư trú dẫn đến việc phân định rõ quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể khi sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam.
1.4. Sử dụng ngoại hối
Sử dụng ngoại hối là một trong những nội dung của hoạt động ngoại hối, là một trong những hành vi pháp lý cấu thành nên hoạt động ngoại hối. Vì cũng là một trong những nội dung của hoạt động ngoại hối nên sử dụng ngoại hối cũng có đối tượng chính là các ngoại hối đã được pháp luật Việt Nam quy định và cho phép lưu thông và các dịch vụ ngoại hối. Chủ thể của sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam là người cư trú và người không cư trú trực tiếp tham gia vào.
Căn cứ theo các quy định của pháp luật, ngoài quy định hạn chế sử dụng ngoại hối trong các giao dịch thanh toán, niêm yết, quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam tại Điều 22 Pháp lệnh ngoại hối 2005 và Điều 29 Nghị định số 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh ngoại hối 2005, người cư trú và người không cư trú có quyền sử dụng ngoại hối của mình trên lãnh thổ Việt Nam theo nguyên tắc sau:
- Người cư trú và người không cư trú được mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng được phép để thực hiện các giao dịch hợp pháp của mình trên lãnh thổ Việt Nam như tiếp nhận ngoài tệ từ nước ngoài chuyển vào hoặc từ các nguồn thu ngoại tệ ở trong nước; chuyển ngoại tệ để bán cho các tổ chức tín dụng được phép; chi trả bằng ngoại tệ cho các giao dịch hợp pháp của mình thông qua tổ chức tín dụng, rút ngoại tệ tiền mặt để chi tiêu cho nhu cầu cá nhân…
- Người cư trú, người không cư trú là cá nhân có ngoại tệ tiền mặt được quyền cất giữ, mang theo người, cho tặng, thừa kế, bán cho các tổ chức tín dụng được phép, chuyển, mang ngoại tệ tiền mặt ra nước ngoài phục vụ cho các nhu cầu và mục đích hợp pháp của mình.
- Người cư trú và người không cư trú là cá nhân được sử dụng thẻ thanh toán quốc tế để giao dịch với khách hàng thông qua các tổ chức tín dụng được phép và các đơn vị chấp nhận thẻ. Các đơn vị chấp nhận thẻ chỉ được nhận thanh toán bằng đồng Việt Nam từ ngân hàng thanh toán thẻ.
- Người cư trú là tổ chức, cá nhân có quyền mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ của mình ở nước ngoài để thỏa mãn các nhu cầu chính đáng, hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Khi chấm dứt hoạt động hoặc hết hạn ở nước ngoài, các tổ chức cá nhân là chủ tài khoản phải đóng tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài và chuyển toàn bộ số dư ngoại tệ về nước.
Riêng đối với người cư trú là tổ chức kinh tế có chi nhánh, văn phòng đại diện ở nước ngoài hoặc có nhu cầu mở tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài, phải tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về điều kiện, hồ sơ, thủ tục cấp và thu hồi giấy phép mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài.
- Người cư trú là cá nhân nước ngoài được mở và sử dụng tài khoản đồng Việt Nam để thực hiện các giao dịch thu, chi và giao dịch đầu tư gián tiếp theo quy định của pháp luật Việt Nam.
- Người không cư trú là tổ chức, cá nhân được mở và sử dụng tài khoản đồng Việt Nam tại tổ chức tín dụng được phép để thực hiện các giao dịch thu, chi theo quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy rằng, hành vi sử dụng ngoại hối được đề cập chủ yếu ở đây là ngoại tệ và pháp luật thừa nhận quyền sở hữu ngoại tệ của các chủ thể trong việc cất giữ, mang theo người khi xuất nhập cảnh, cho tặng, để tại thừa kế. Tuy nhiên do đặc thù hai đối tượng này có địa vị pháp lý khác nhau nên quyền và nghĩa vụ của người cư trú và người không cư trú khi sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam cũng có một số điểm khác nhau nhất định. Nội dung tiếp sau đây sẽ đề cập tới vấn đề sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ của những đối tượng trên khi sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam.
2. Sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ của người cư trú và người không cư trú khi sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam
Chủ thể của hoạt động ngoại hối là người cư trú và người không cư trú có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Để thực hiện hành vi pháp lý khi sử dụng ngoại hối trên lãnh thể Việt Nam, mọi chủ thể đều phải đáp ứng được các điều kiện chung đó là có năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Tuy nhiên, tùy thuộc vào tính chất và đặc điểm của từng loại hành vi sử dụng ngoại hối cũng như từng đối tượng chủ thể khác nhau, mà pháp luật đòi hỏi các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ tương ứng phù hợp, không trái với các nguyên tắc khi các chủ thể sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam.
2.1. Sự khác biệt khi người cư trú, người không cư trú là cá nhân
2.1.1. Hành vi mở và sử dụng tài khoản
Quyền mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng được phép ở Việt Nam được quy định tại Điều 23 Pháp lệnh ngân hàng và tại Điều 30, 31 Nghị định 160/2006/NĐ-CP. Theo đó:
Người cư trú, người không cư trú là cá nhân có tài khoản tiền gửi ngoại tệ được thu ngoại tệ vào tài khoản từ các nguồn sau: thu ngoại tệ chuyển khoản từ nước ngoài chuyển vào; thu ngoại tệ tiền mặt từ nước ngoài mang vào theo quy định của Ngân hàng nhà nước Việt Nam; thu ngoại tệ từ các nguồn thu hợp pháp khác
Và được chi ngoại tệ từ tài khoản vào các mục đích sau đây: chi bán cho tổ chức tín dụng được phép; chi chuyển tiền, thanh toán cho các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và các giao dịch được phép thanh toán trong nước bằng ngoại tệ; chi chuyển đổi ra các loại ngoại tệ khác hoặc các công cụ thanh toán khác bằng ngoại tệ; cho tặng, thừa kế theo quy định của pháp luật; chi rút ngoại tệ tiền mặt; chi chuyển ra nước ngoài hoặc chuyển sang tài khoản tiền gửi ngoại tệ của người không cư trú khác (đối với trường hợp người không cư trú là cá nhân); chi chuyển sang gửi tiết kiệm ngoại tệ tại tổ chức tín dụng (TCTD) được phép (đối với trường hợp người cư trú là cá nhân).
Đối với tài khoản ngoại tệ nước ngoài của người cư trú thì công dân Việt Nam trong thời gian ở nước ngoài được mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài theo quy định pháp luật của nước sở tại. Nhưng khi chấm dứt hoặc hết thời hạn ở nước ngoài phải đóng tài khoản này và chuyển toàn bộ số dư ngoại tệ về nước, trừ trường hợp có nhu cầu để lại ngoại tệ ở nước ngoài, phải thực hiện theo các quy định khác của pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, khi người cư trú là cá nhân sử dụng đồng tiền của nước có chung biên giới với Việt Nam sẽ được mở tài khoản bằng đồng tiền của nước đó tại các TCTD được phép.
Nhà nước cũng cho phép người không cư trú là cá nhân có thu nhập bằng đồng Việt Nam được mở tài khoản bằng đồng Việt Nam tại các ngân hàng ở Việt Nam và được sử dụng đồng Việt Nam vào mục đích như: thanh toán hoặc rút tiền mặt để chi tiêu tại Việt Nam; thanh toán cho các giao dịch vãng lai, giao dịch vốn theo quy định tại Nghị định này; cho tặng, thừa kế theo quy định của pháp luật;… (theo Điều 33 Nghị định 160/2006/NĐ-CP).
Qua đây có thể thấy việc pháp luật quy định quyền mở tài khoản ngoại tệ trong nước của người cư trú là cá nhân tại các ngân hàng được phép, nhằm mục đích để Nhà nước thực hiện việc quản lý và kiểm soát ngoại tệ trên thị trường, đồng thời tạo điều kiện cho các cá nhân sử dụng tài khoản để giao dịch. Tuy nhiên, do nguồn thu về ngoại tệ của loại chủ thể này thường là không lớn, và việc sử dụng chúng ít gây bất lợi cho nền kinh tế hay đời sống xã hội, vì thế, các quy định cụ thể về thu – chi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với đối tượng này là tương đối rộng rãi hơn so với người không cư trú. Bằng việc quy định các trường hợp nào được ghi thu, ghi chi trên tài khoản ngoại tệ, nhà làm luật muốn thể hiện quan điểm can thiệp ở mức độ khác nhau đối với quyền mở và sử dụng tài khoản của hai đối tượng này. Tuy nhiên, sự phân biệt này chưa phải là giải pháp hợp lý. Bởi lẽ điều đó có thể gây ra các hậu quả bất lợi cho Nhà nước và xã hội trên cả phương diện kinh tế cũng như chính trị, ngoại giao. Sự bất cập của quy định này thể hiện ở chỗ, trong khi cá nhân là người cư trú được quyền thu ngoại tệ tiền mặt dưới hình thức cho tặng, thừa kế thì cá nhân là người không cư trú lại không có quyền đó. Mặt khác, trên thực tế, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam (dưới 12 tháng) hoặc đến Việt Nam học tập, chữa bệnh (không kể thời gian) hoàn toàn có thể nhận tiền tặng cho hoặc thừa kế để tiêu dùng trong thời gian ở Việt Nam. Ngoài ra, theo quy định hiện hành thì cá nhân là người không cư trú được quyền chuyển ngoại tệ trên tài khoản của mình sang tài khoản ngoại tệ của người không cư trú khác nhưng trong phần ghi thu tài khoản ngoại tệ của người không cư trú lại không có quy định nào về việc được phép nhận ngoại tệ chuyển khoản từ người không cư trú khác.
2.1.2. Hành vi mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài
Công dân Việt Nam có nhu cầu ngoại tệ để chuyển, mang ra nước ngoài cho các mục đích đi du lịch, học tập, công tác, thăm viếng, chữa bệnh, trả tiền hội viên và các loại phí khác cho nước ngoài hoặc trợ cấp, thừa kế cho gia đình và người thân ở nước ngoài, có thể được liên hệ với các Ngân hàng được phép để mua ngoại tệ sau khi gửi cho Ngân hàng đơn xin mua ngoại tệ và các Giấy tờ hợp pháp chứng minh các nhu cầu thực tế phải chi ngoại tệ ở nước ngoài.
Đối với nười cư trú và người không cư trú là người nước ngoài:
- Người không cư trú là cá nhân có các khoản thu nhập bằng đồng Việt Nam từ lương, thưởng, phụ cấp hoặc các nguồn thu khác bằng đồng Việt Nam được pháp luật Việt Nam cho phép thì được sử dụng số đồng Việt Nam đó để mua ngoại tệ tại các Ngân hàng được phép và được chuyển ngoại tệ ra nước ngoài khi có nhu cầu. Khi hết thời hạn làm việc tại Việt Nam hoặc kết thúc hợp đồng lao động ký với phía Việt Nam có nhu cầu chuyển ra nước ngoài toàn bộ số thu nhập bằng ngoại tệ trong thời gian ở Việt Nam thì khi làm thủ tục chuyển tiền phải xuất trình cho Ngân hàng chuyển tiền văn bản của cơ quan thuế có thẩm quyền xác nhận đã hoàn thành các nghĩa vụ tài chính ở Việt Nam.
- Người cư trú là người nước ngoài hết thời hạn làm việc tại Việt Nam hoặc kết thúc hợp đồng lao động ký với phía Việt Nam có nhu cầu chuyển ra nước ngoài toàn bộ số thu nhập bằng ngoại tệ trong thời gian ở Việt Nam phải xuất trình cho Ngân hàng chuyển tiền văn bản của cơ quan thuế có thẩm quyền xác nhận đã hoàn thành các nghĩa vụ tài chính ở Việt Nam; nếu có các khoản thu nhập hợp pháp bằng Đồng Việt Nam được pháp luật Việt Nam cho phép khi có nhu cầu chuyển đổi thành ngoại tệ thì được mua ngoại tệ tại các Ngân hàng được phép để chuyển ra nước ngoài.
Đối với quy định về mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài của người cư trú và người không cư trú, pháp luật đã khẳng định quyền được sở hữu không hạn chế đối với ngoại tệ có nguồn gốc hợp pháp từ các giao dịch hợp pháp của Người cư trú là cá nhân. Tính không hạn chế của quyền năng này thể hiện ở chỗ, Người cư trú là cá nhân không bị giới hạn về số lượng ngoại tệ được sở hữu, không bị buộc phải bán ngoại tệ thu được từ các giao dịch vãng lai hay từ các giao dịch khác cho các ngân hàng được phép tại Việt Nam. Ngoài ra, người cư trú cá nhân còn có toàn quyền quyết định việc mình để lại toàn bộ hay một phần số ngoại tệ sở hữu tại nhà hoặc gửi vào tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng. Đó chính là điểm khác biệt rõ nét so với người không cư trú cụ thể là công dân Việt Nam khi mua ngoại tệ phải có lí do chính đáng (sáu mục đích như đã trình bày ở trên) nhưng ngoài quy định đó pháp luật không quy định nào khác về điều kiện mua ngoại tệ như đối với người không cư trú và người cư trú là người nước ngoài. Những đối tượng này chỉ được mua ngoại tệ khi có thu nhập bằng đồng Việt Nam và được pháp luật Việt Nam cho phép thì mới được mua ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng được phép và phải có văn bản của cơ quan thuế có thẩm quyền xác nhận đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính.
Mặc dù các quy định của pháp luật không ghi rõ các giấy tờ chứng minh cho các mục đích sử dụng phải được công chứng hoặc xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, song nhiều chi nhánh Ngân hàng Nhà nước vẫn yêu cầu thủ tục này. Sự bất cập trên đã gây phiền phức không đáng có cho người sử dụng ngoại tệ.
2.1.3. Hành vi bán, đổi ngoại tệ
Đối với cá nhân, việc bán, đổi ngoại tệ không phải là nghĩa vụ như đối với tổ chức, bởi pháp luật thừa nhận quyền sở hữu của cá nhân đối với tài sản là ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam. Mặt khác, trong pháp lệnh ngân hàng 2005 cũng như các văn bản pháp luật liên quan không có một điều khoản nào quy định cụ thể về vấn đề này ngoài quy định phải bán, đổi ngoại tệ tại các TCTD được phép.
Tuy nhiên, theo pháp luật hiện hành, nếu cá nhân muốn mua ngoại tệ thì phải có đơn và các giấy tờ liên quan chứng minh mục đích, mức sử dụng nhu cầu ngoại tệ của mình thì khi bán hay đổi ngoại tệ, họ không cần phải chứng minh nguồn gốc ngoại tệ mình sở hữu là từ đâu mà có.
2.1.4. Hành vi gửi tiết kiệm ngoại tệ
Pháp luật hiện hành chỉ cho phép cá nhân là người cư trú mới có quyền gửi tiết kiệm ngoại tệ tại các TCTD được phép và được hưởng lãi suất bằng ngoại tệ và được rút ra cả gốc và lãi bằng ngoại tệ theo thể lệ tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ còn cá nhân là người không cư trú không có quyền này.
Đối với cá nhân là người cư trú có ngoại tệ ngoài nguồn thu nhập hợp pháp như ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào qua ngân hàng, ngoại tệ mang theo người khi nhập cảnh vào Việt Nam và các nguồn thu ngoại tệ hợp pháp khác theo quy định của pháp luật cũng được gửi tiết kiệm ngoại tệ.
2.1.5. Hành vi cất giữ, mang theo ngoại tệ theo người khi xuất cảnh, nhập cảnh
Người cư trú, người không cư trú được phép mang ngoại tệ theo người khi xuất, nhập cảnh qua cửa khẩu Việt Nam (kể cả trường hợp nhập cảnh vào Việt Nam để định cư). Định mức ngoại tệ được mang vào, mang ra khi xuất nhập cảnh và các thủ tục hành chính cần thiết phải thực hiện sẽ do Ngân hàng Nhà nước quy định trong từng thời kỳ cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước về ngoại hối. Theo Quyết định số 921/2005/QĐ-NHNN ngày 27/6/2005 về sửa đổi Quyết định 337/1998/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN về mang ngoại tệ tiền mặt và đồng Việt Nam bằng tiền mặt khi xuất nhập cảnh, hạn mức phải khai báo với Hải quan của khẩu khi xuất nhập cảnh đối với ngoại tệ tiền mặt là 7.000 USD và đối với tiền Việt Nam là 15 triệu VND.
Các cá nhân trên phải thực hiện nghĩa vụ này nhằm tránh tình trạng tích lũy ngoại tệ quá lớn khi di chuyển vào hoặc ra khỏi Việt Nam, làm cho thị trường ngoại hối trong nước mất cân bằng. Mặt khác, quy định này cũng nhằm mục đích giúp Nhà nước phần nào kiểm soát được lượng ngoại tệ của người cư trú là cá nhân.
2.1.6. Hành vi cho tặng, thừa kế
Theo pháp luật hiện hành, không có quy định riêng về quyền cho tặng, thừa kế ngoại tệ nhưng tại Khoản 1 Điều 32 NĐ 160/2006/NĐ-CP quy định về sử dụng ngoại tệ tiền mặt của cá nhân: “Người cư trú, người không cư trú là cá nhân có ngoại tệ tiền mặt được quyền cất giữ, mang theo người, cho, tặng, thừa kế, bán cho tổ chức tín dụng được phép, chuyển mang ra nước ngoài phục vụ cho các mục đích hợp pháp và thanh toán cho các đối tượng được thu ngoại tệ theo các quy định tại Nghị định này”.
Tuy nhiên, đối với người không cư trú, pháp luật hạn chế quyền thu ngoại tệ từ việc nhận tặng cho, thừa kế của họ.
2.2. Sự khác biệt khi người cư trú, người không cư trú là tổ chức
2.2.1. Hành vi mở tài khoản ngoại tệ
Mở tài khoản ngoại tệ là quyền được đề cập tại Khoản 1 Điều 30 NĐ 160/2006/NĐ-CP và Pháp lệnh ngân hàng 2005. Cũng như đối với cá nhân, việc mở tài khoản ngoại tệ chỉ được thực hiện ở các Ngân hàng được phép. Tuy nhiên, đối với cá nhân, nếu việc mở tài khoản ngoại tệ không phải là yêu cầu bắt buộc thì trái lại, đối với các tổ chức, việc mở tài khoản vừa là quyền, đồng thời cũng là nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện. Để thực hiện quyền này, các tổ chức (không phân biệt người cư trú và người không cư trú) đều phải thỏa mãn điều kiện chung là có nguồn thu hợp pháp về ngoại tệ. Ngoài ra, để mở tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng, tổ chức phải chứng minh năng lực chủ thể của mình theo quy định chung của pháp luật về năng lực chủ thể.
Ngoài ra, người không cư trú là tổ chức được mở và sử dụng tài khoản đồng Việt Nam tại tổ chức tín dụng được phép để thực hiện các giao dịch thu, chi theo quy định của pháp luật.
2.2.2. Hành vi bán ngoại tệ
Khác với cá nhân, bán ngoại tệ là một nghĩa vụ của tổ chức, ngoại tệ thu được từ các giao dịch vãng lai của người cư trú là tổ chức phải được bán cho các ngân hàng được phép hoạt động ngoại hối tại Việt nam theo tỉ lệ do Thủ tướng Chính phủ quy định trong từng thời kì. Người cư trú là tổ chức phải bán ngoại tệ từ các giao dịch vãng lai cho ngân hàng được phép trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày ngoại tệ được ghi “có” trong tài khoản tiền gửi, căn cứ theo QĐ số 46/2003/QĐ-Ttg ngày 02/04/2003 của Thủ tướng chính phủ về tỉ lệ bắt buộc phải bán ngoại tệ đối với nguồn thu vãng lai của NCT là tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội cho các ngân hàng được phép là tỉ lệ 0%.
2.2.3. Hành vi mua ngoại tệ
Người cư trú là tổ chức kinh tế Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh, chi nhánh công ty nước ngoài, nhà thầu nước ngoài, nhà thầu liên danh với nước ngoài, tổ chức tín dụng ở Việt Nam, cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện của Việt Nam được mua ngoại tệ tại các Ngân hàng được phép để đáp ứng cho các giao dịch vãng lai hay các giao dịch được phép khác trên cơ sở xuất trình các giấy tờ và chứng từ hợp lệ; người cư trú là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh có dự án đặc biệt quan trọng đầu tư theo chương trình của Chính phủ trong từng thời kỳ, hoặc có dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án quan trọng khác được Chính phủ Việt Nam bảo đảm cân đối ngoại tệ hoặc bảo đảm hỗ trợ cân đối ngoại tệ thì thực hiện việc mua ngoại tệ theo quy định về quản lý ngoại hối trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam;
Người không cơ trú là cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện các tổ chức liên chính phủ, cơ quan đại diện các tổ chức phi chính phủ, lực lượng vũ trang và tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp của nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức kinh tế nước ngoài và của tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có các nguồn thu bằng đồng Việt Nam từ việc cấp visa, các loại phí lãnh sự khác.
2.2.4. Hành vi thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng ngoại tệ
Có thể coi đây là quyền phát sinh từ quyền và nghĩa vụ mở tài khoản ngoại tệ của người cư trú và người không cư trú là tổ chức. Mặt khác, tuy nội dung này không được quy định tại một điều khoản hay văn bản riêng nào nhưng theo quy định về các trường hợp được ghi thu ngoại tệ thì việc sử dụng ngoại tệ để thanh toán trên lãnh thổ Việt Nam chủ yếu được thực hiện qua tài khoản ngoại tệ mở tại các tổ chức tín dụng được phép và chỉ được sử dụng ngoại tệ để thanh toán cho các tổ chức, cá nhân được phép thu ngoại tệ.
3. Thực tiễn áp dụng pháp luật
3.1. Mặt tích cực
Từ sau khi gia nhập vào WTO, do nhu cầu sử dụng ngoại hối càng tăng để phục vụ lưu thông hàng hóa và đáp ứng những nhu cầu của người dân, nên Chính phủ Việt Nam đã tìm cách lựa chọn cho mình những chính sách thích hợp trong việc quản lý ngoại hối và điều tiết hoạt động ngoại hối. Cùng với quá trình chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, Nhà nước ta cũng đang từng bước cố gắng thể chế hóa chính sách ngoại hối bằng các quy định pháp luật. Tính đến nay, nhà nước đã ban hành khá nhiều các văn bản pháp luật điều chỉnh về vấn đề ngoại hối như: pháp lệnh ngoại hối năm 2005, Nghị định số 160/2006/NĐ – CP ngày 28/12/2006 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối 2005 và một số Thông tư hướng dẫn liên quan như Thông tư số 03/2008/TT – NHNN ngày 11/4/2008 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn về hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối của tổ chức tín dụng, Thông tư số 25/2009/TT-NHNN ngày 15/12/2009 bố sung điều 1 Quyết định số 09/2008/QĐ-NHNN ngày 10/4/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay bằng ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng vay là người cư trú.
3.2. Mặt hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì hệ thống pháp luật điều chỉnh vấn đề ngoại hối vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể là nhà nước vẫn chưa có những thông tư hướng dẫn đối với lĩnh vực sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam của người cư trú và người không cư trú. Trước xu thế toàn cầu hóa, một số quy định hạn chế quyền sử dụng ngoại hối của các tổ chức, cá nhân tỏ ra không còn phù hợp, cần được sửa đổi bổ sung như các trường hợp được ghi thu trên tài khoản ngoại tệ, hạn mức ngoại tệ được mang theo người khi xuất nhập cảnh không phải khai báo hải quan, các thủ tục hành chính khi mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài… Đối với người cư trú là cá nhân, pháp luật cho phép họ sở hữu không hạn chế đối với các ngoại tệ có nguồn gốc hợp pháp mà không có nghĩa vụ phải bán ngoại tệ như đối với người cư trú là tổ chức, đồng thời cũng không có nghĩa vụ phải gửi số ngoại tệ đó vào tài khoản ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng được phép mà có thể cất giữ ở nhà. Tâm lý của người Việt Nam thường có tiền của sẽ tự mình cất giữ mà không mang đến ngân hàng cất giữ như các nước phương Tây. Vì thế, quy định này dẫn đến tình trạng có một lượng lớn ngoại tệ trong dân mà Nhà nước không kiểm soát được. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đô la hóa trong thời gian qua.
Theo theo định của pháp luật, ngân hàng chỉ bán ngoại tệ cho người dân khi du học, du lịch, chữa bệnh..., còn mua ngoại tệ để thanh toán hàng hóa, dịch vụ trong nước hay để cất trữ là không được phép. Trong khi nhiều giao dịch trong nước vẫn được người dân thực hiện bằng ngoại tệ, điển hình là cho thuê nhà. Mặt khác, pháp luật cho phép người dân được mua ngoại tệ phục vụ cho nhu cầu đi du lịch. Quy định hiện nay cho phép mỗi người dân khi ra nước ngoài sẽ được mua 7.000 USD (hoặc ngoại tệ khác tương đương). tại ngân hàng. Thế nhưng trên thực tế hầu hết các trường hợp trên đến ngân hàng để mua ngoại tệ cho các nhu cầu này đều bị từ chối. Mặt khác, pháp luật thừa nhận quyền sở hữu ngoại tệ của người dân, cho phép người dân cất trữ ngoại tệ nhưng lại không cho phép ngân hàng bán ngoại tệ cho mục đích cất trữ. Ngân hàng không bán, vậy người dân phải mua ở dâu? Đó chỉ là một số lý do đẩy người dân ra chợ đen mua ngoại tệ.
Bên cạnh đó, pháp luật quy định rằng việc mua, bán ngoại tệ chỉ được thực hiện tại các tổ chức tín dụng được phép, hoặc thông qua trung gian gồm thu hộ, ủy thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép nhưng trên thực tế, tại các cửa khẩu, việc mua bán ngoại tệ diễn ra tự do giữa người dân và các khách hàng có nhu cầu, ví dụ như tại cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị). Đặc biệt, tại các cửa hàng kinh doanh vàng bạc tư nhân có thực hiện mua bán ngoại tệ theo giấy ủy nhiệm, với tư cách là đại lý cho các ngân hàng thương mại nhưng thực chất, sự ủy nhiệm này chỉ là hình thức. Bởi lẽ, số liệu các giao dịch mà các cửa hàng này báo cáo thấp hơn rất nhiều so với các giao dịch thực tế, tỷ giá cũng không theo quy định của các ngân hàng thương mại. Các cửa hàng đều tự mua, tự bán mà rất ít khi bán cho các ngân hàng thương mại.
Kết luận
Sự lưu thông của ngoại hối trên thị trường cũng như hành vi sử dụng ngoại hối tự thân nó đã chứa đựng những ảnh hưởng sâu sắc, lớn lao đối với nền kinh tế – xã hội của quốc gia như hoạt động xuất nhập khẩu, việc điều hành tỉ giá hối đoái và sức mua của đồng tiền nội địa. Người cư trú và người không cư trú không chỉ đóng vai trò những chủ thể cơ bản giúp phân biệt hoạt động ngoại hối với các các hoạt động kinh tế khác, mà còn là một dấu hiệu đặc trưng để xác định tổ chức hay cá nhân nào đó có phải là đối tượng chịu sự quản lý nhà nước về ngoại hối hay không. Xuất phát từ hai điểm đó, người cư trú hay người không cư trú trên lãnh thổ Việt Nam đều được pháp luật Việt Nam quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể để vừa phát huy được đặc trưng của mình vừa tạo tính ổn định của thị trường ngoại hối. Việc nắm rõ được những điểm khác biệt cơ bản giữa hai chủ thể này không chỉ có tác động quan trọng tới nhận thức của mọi người về ngoại hối và hoạt động ngoại hối, để từ đó hình thành những suy nghĩ, đóng góp phát triển một thị trường ngoại hối ổn định, vững mạnh.
Tài liệu tham khảo
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật ngân hàng, NXB. CAND, Hà Nội, 2011.
2. Pháp lệnh ngân hàng 2005.
3. Nghị định 160/2006/NĐ-CP ban ngày 28/12/2006 quy định chi tiết thi hành pháp lệnh ngoại hối.
4. Quyết định số 921/2005/QĐ-NHNN ngày 27/6/2005 về sửa đổi Quyết định 337/1998/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN về mang ngoại tệ tiền mặt và đồng Việt Nam bằng tiền mặt khi xuất nhập cảnh.
5. Website:
- http://luatcongminh.com/congminh/?Tab=7&cat_id=334&sub_id=69&news_id=1552
Cảm ơn bạn Giang Linh - ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment