27/06/2014
Đối tượng của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bài tập học kỳ Luật Dân sự 1
Đề bài: Một số vấn đề về đối tượng của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005.

A. Lời nói đầu

Pháp luật về các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là một trong những chế định luật được hình thành khá sớm trong hệ thông pháp luật các quốc gia trên thế giới. Với những nỗ lực nhất định, pháp luật Việt Nam về các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự từng bước được xây dựng, hoàn thiện. Những văn bản pháp luật quan trọng trong lĩnh vực này phải kể đến: Bộ luật dân sự 2005, Nghị định 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về các giao dịch đảm bảo, Nghị định 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 của chính phủ về đăng ký giao dịch có bảo đảm và các văn bản pháp luật trong các lĩnh vực tín dụng ngân hàng, và gần đây nhất là Nghị định 163/2006/NĐ-CP do chính phủ ban hành quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật dân sự về việc xác lập, thực hiện giao dịch bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và xử lý tài sản bảo đảm.

Trong khuôn khổ bài viết này, nội dung chính được bà luận là: một số vấn đề về đối tượng của các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định trong Bộ luật dân sự 2005.

I. Khái niệm, đặc điểm các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự.

1.Khái niệm:

Việc xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự trước hết là dựa vào sự tự giác của các bên, nhưng trong thực tế, không phải bất cứ ai khi tham gia giao dịch dân sự đều có thiện chí trong việc thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ của mình. Trong một quan hệ nghĩa vụ, người có quyền được chủ động yêu cầu người có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ của họ hoặc không được thực hiện một công việc nhất định và chỉ khi nào công việc đó được thực hiện đúng, thì người có quyền mới thực hiện được lợi ích của mình. Tuy nhiên, về cách thức, biện pháp thực hiện nghĩa vụ dân sự và việc thực hiện hay không thực hiện như thế nào lại phụ thuộc vào hành vi của người có nghĩa vụ. Vì thế quyền chủ động của người có quyền rơi vào thê bị động là phải phụ thuộc vào hành vi của người khác để thỏa mãn yêu cầu của mình.

Nhằm khắc phục tình trạng trên và tạo cho người có quyền trong các quan hệ nghĩa vụ có được thế chủ động trong thực tế hưởng quyền dân sự, pháp luật cho phép các bên có thỏa thuận đặt ra các biện pháp bảo đảm việc giao kết hợp đồng cũng như việc thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Thông qua các biện pháp này, người có quyền có thể chủ động tiến hành các hành vi của mình có thể tác động trực tiếp đến tài sản của phía bên kia, nhằm thỏa mãn quyền lợi của mình khi đến thời hạn mà phía bên kia không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ.

Bộ luật dân sự 2005 quy định bảy biện pháp bảo đảm, cụ thể như: cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, đặt cọc, tín chấp, ký quỹ, ký cược. Bảo đảm nghĩa vụ dân sự được hiể theo hai phương diện:

Về mặt khách quan: Là sự quy định của pháp luật, cho phép các chủ thể trong giao dịch dân sự hoặc các quan hệ dân sự khác áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để bảo đảm cho một nghĩa vụ chính được thực hiện, đồng thời xác định và bảo đảm quyền, nghĩa vụ của các bên trong các biện pháp đó.

Về mặt chủ quan: Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là việc thỏa thuận giữa các bên nhằm qua đó đặt ra các biện pháp tác động mang tính chất dự phòng để đảm bảo cho việc thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ gây ra.

Như vậy, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự sẽ nâng cao ý thức thực hiện nghĩa vụ đúng và đầy đủ của các bên có nghĩa vụ. Mặt khác, các biện pháp này cũng giúp cho bên có quyền luôn ở thế chủ động trong việc bảo vệ lợi ích của mình trong các giao dịch đã ký kết. Trong trường hợp có sự tranh chấp, đối kháng về lợi ích giữa các bên nhận bảo đảm với các chủ thể khác thì các biện pháp bảo đảm sẽ là cơ sở vững chắc để bảo vệ lợi ích của bên nhận bảo đảm. Từ đó các giao dịch dân sự, thương mại sẽ ngày càng được thúc đẩy mạnh mẽ, là động lực phát triển nền kinh tế đất nước.

2. Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm:

Các biện pháp bảo đảm có những đặc điểm đặc thù hoàn toàn khác so với các đặc điểm của các giao dịch dân sự thông thường do bị chi phối bởi mục đích và tính chất bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chúng.

* Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ sự thỏa thuận của các bên:

Trong một giao dịch dân sự, các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chỉ có thể phát sinh khi các bên có thoả thuận, pháp luật dân sự không quy định một cách bắt buộc, cứng nhắc biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ này phải áp dụng cho một giao dịch dân sự cụ thể nào đó. Việc lựa chọn các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong các giao dịch dân sự hoàn toàn phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên trong phạm vi pháp luật cho phép. Tuy nhiên, trong quan hệ hợp đồng, có những trường hợp mà pháp luật qui định bắt buộc phải có biện pháp bảo đảm. Ví dụ: Hợp đồng cho vay mà bên vay là Ngân hàng Nhà nước, biện pháp bảo đảm tiền vay là biện pháp thế chấp. Nhưng dù pháp luật có qui định người vay phải có thế chấp thì quyền thoả thuận của các bên cũng không hề mất đi, các bên có thể cùng nhau thoả thuận về đối tượng, phương thức xử lý tài sản thế chấp …

* Các biện pháp bảo đảm được coi là hợp đồng phụ với mục đích để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ trong một hợp đồng (được gọi là hợp đồng chính):

Vì lẽ đó, các biện pháp bảo đảm được coi (là hợp đồng phụ) chỉ được xác lập sau hay đồng thời với việc xác lập hợp đồng chính.

Xuất phát từ mối quan hệ về hiệu lực giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ được quy định tại Khoản 2,3 Điều 410, BLDS 2005 thì làm phát sinh một số hệ quả sau đây:

+ Theo nguyên tắc chung, nếu hợp đồng chính vô hiệu thì hợp đồng phụ cũng vô hiệu theo, tuy nhiên đối với các biện pháp bảo đảm thì lại có những ngoại lệ riêng. Do vậy có thể hợp đồng chính vô hiệu nhưng các biện pháp bảo đảm vẫn có giá trị thi hành. Điều 15 Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm ngày 29/12/2006 do Chính phủ có quy định cụ thể hướng giải quyết trong trường hợp này. Theo đó, hiêu lực của các biện pháp bảo đảm phụ thuộc vào hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm vô hiệu nhưng các bên chủ thể chưa thực hiện hợp đồng đó thì các biện pháp bảo đảm cũng mặc nhiên vô hiệu theo. Tuy nhiên nếu hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm đã được các bên thực hiện toàn bộ hay một phần hợp đồng rồi, sau đó mới bị Tòa án tuyên bố vô hiệu thì các biện pháp bảo đảm vẫn có hiệu lực. Bởi hậu quả pháp lý của hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu là các bên phải hoàn trả cho nhau tất cả những gì đã nhận, bên có lỗi phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

+ Nếu hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm bị hủy bỏ hay đơn phương chấm dứt thực hiện thì các biện pháp bảo đảm cho hợp đồng đó vẫn có giá trị, hiệu lực thi hành để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ hoàn trả.

+ Giao dịch đảm bảo vô hiệu không làm chấm dứt hợp đồng có nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận biện pháp bảo đảm là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.

* Đối tượng của các biện pháp bảo đảm là những lợi ích vật chất.

Lợi ích vật chất là đối tượng chủ yếu của các biện pháp bảo đảm. Nghĩa vụ cần được bảo đảm là nghĩa vụ mang tính chất tài sản, cho nên đối tượng của các biện pháp bảo đảm cũng phải mang tính tài sản. Bởi chỉ có lợi ích vật chất hoặc tài sản mới bù đắp, khấu trừ được các lợi ích vật chất bị mất mát, thiệt hại. Tuy nhiên trong Bộ luật dân sự 2005 cũng quy định về các biện pháp tín chấp, theo đó các tổ chức xã hội tại cơ sở được đứng ra bảo đảm cho các thành viên của mình vay tiền tại các ngân hang chính sách xã hội thông qua việc xác nhận các yếu tố nhân thân và kiểm soát các mục đích sử dụng tiền vay. Đây là một ngoại lệ của các biện pháp bảo đảm được quy định trong BLDS nhằm thực hiện đường lối chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và Nhà nước.

* Các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ chỉ được áp dụng khi có sự vi phạm nghĩa vụ.

Các biện pháp bảo đảm có tính chất dự phòng, chỉ áp dụng khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ xảy ra. Trong thời gian có hiệu lực của biện pháp bảo đảm, quyền sở hữu của đối với tài sản bảo đảm vẫn thuộc về bên có nghĩa vụ nhưng quyền năng pháp lý đối với tài sản đó bị hạn chế, có hai khả năng xảy ra:

- Nếu đến hạn bên có nghĩa vụ thực hiện đúng, đầy đủ các nghĩa vụ của mình thì bên có nghĩa vụ được khôi phục đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản bảo đảm: được nhận lại tài sản và đầy đủ các giấy tờ hợp pháp liên quan đến tài sản từ bên có quyền hay bên nắm giữ tài dản bảo đảm.

- Nếu đến hạn có sự vi phạm nghĩa vụ thì tài sản bảo đảm khi đó mới xử lý để khấu trừ phần nghĩa vụ bị vi phạm. Khi đó bên có nghĩa vụ mất quyền sở hữu đối với tài sản, bởi tài sản sẽ bị bán đi hoặc chuyển quyền sở hữu cho bên có quyền.

Do tính chất dự phòng nên tài sản bảo đảm có thể không cần phải hình thành vào thời điểm xác lập nghĩa vụ bảo đảm, chỉ cần có các yếu tố xác định chắc chắn nó sẽ hình thành và được định giá được vào thời điểm phải xử lý tài sản.

* Phạm vi bảo đảm do các bên thỏa thuận, có thể là một phần hay toàn bộ nghĩa vụ.

Toàn bộ nghĩa vụ được bảo đảm bao gồm cả nghĩa vụ trả lãi và nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Về nguyên tắc, phạm vi của các biện pháp bảo đảm không vượt quá phạm vi của nghĩa vụ chính.

Các bên cũng có thể thỏa thuận lựa chọn các biện pháp bảo đảm để bảo đảm cho một việc thực hiện nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hay một nghĩa vụ có điều kiện.

* Các biện pháp bảo đảm có mục đích bảo vệ lợi ích cho bên có quyền một cách chắc chắn thông qua việc thỏa thuận về một tài sản sự phòng sẽ được khấu trừ nghĩa vụ vi phạm.

Như vậy, các biện pháp bảo đảm có ý nghĩa quan trọng trong việc chuyển quan hệ của chủ thể mang quyền từ từ tính chất đối nhân (phụ thuộc vào việc thực hiện nghĩa vụ của bên đối tác) sang quan hệ có tính chất đối vật (chỉ cần tác động trực tiếp vào tài sản bảo đảm để bảo vệ lợi ích của mình). Thông qua việc áp dụng các biện pháp bảo đảm bên có quyền sẽ không bị động mà trở thành chủ động trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong các giao dịch dân sự, thương mại đã ký kết.

II. Đối tượng của các biện pháp bảo đảm:

Đối tượng của các biện pháp bảo đảm là tài sản. Điều 320 BLDS quy định về vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự như sau:

“1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch.

2. Vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình thành trong tương lai. Vật được hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết”.

Từ Điều luật trên có thể rút ra điều kiện của đối tượng bảo đảm là tài sản như sau:

a) Vật là đối tượng của các biện pháp bảo đảm:

Vật được dùng để làm vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình thành trong tương lai. Vật có thể tồn tại dưới dạng động sản hay bất động sản.

Tài sản hình thành trong tương lai là đối tượng của quyền sở hữu tuy nhiên trong thực tiễn nó thường chỉ được quan tâm khi xem là đối tượng để bảo đảm nghĩa vụ dân sự. “Tài sản được hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản hình thành sau thời điểm ký kết giao dịch bảo đảm và sẽ thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm như hoa lợi, lợi tức, tài sản hình thành từ vốn vay, công trình đang xây dựng, các tài sản khác mà bên bảo đảm có quyền nhận” (Điều 2, Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm). Như vậy, tại thời điểm đang xét, người chủ của Tài sản hình thành trong tương lai chưa hoàn toàn xác lập quyền sở hữu đầy đủ cho mình nhưng vì trong tương lai gần người ấy sẽ xác lập được quan hệ sở hữu đối với tài sản ấy nên pháp luật dành cho họ khả năng hưởng dụng một số quyền trong phạm vi nhất định. Thực ra vấn đề quyền sở hữu đối với tài sản hình thành trong tương lai là một chế định mở trong giao dịch dân sự nên nó mang tính đặc thù và tính đặc thù này phản ánh ở hai góc độ: đối tượng của sở hữu và tính chất của quyền năng, cụ thể:

+ Về đối tượng của quan hệ sở hữu: tại thời điểm đang xét (hiện tại) tài sản chưa hình thành hình thái “vật chất – sản phẩm” để trở thành đối tượng xác lập quan hệ sở hữu đầy đủ (như nguyên liệu chưa tạo nên thành phẩm, hoa lợi, lợi tức, công trình đang xây dựng, đất đai đang làm cơ sở hạ tầng chưa nghiệm thu và bàn giao… …), hoặc là vật hiện có (đã có đối tượng) nhưng theo định chế pháp luật thể hiện trên giấy tờ, theo ý chí người mua, nội dung thoả thuận thì quyền sở hữu đối với vật ấy chưa được chuyển giao và xác lập cho chủ thể đang xét (ví dụ: hàng hoá chưa nhập kho, nhà đất dự định mua, di sản thừa kế chưa phân chia, tài sản mà theo hợp đồng mua bán chưa đến thời điểm chuyển giao cho người mua, người mua chưa hoàn tất việc sang tên, động sản vô chủ nhưng chưa hết thời hạn thông báo tìm chủ sở hữu…).

+ Về tính chất, tại thời điểm hiện tại quyền sở hữu của người chủ đối với tài sản hình thành trong tương lai thực chất là một loại quyền tài sản (Điều 322 BLDS năm 2005) phát sinh từ hợp đồng với chủ sở hữu (sẽ chuyển giao) hoặc theo quy định của pháp luật. Do quyền sở hữu của chủ thể đang xét chưa xác lập tại thời điểm hiện hữu nên người chủ trong tương lai không thể có đầy đủ mọi quyền của chủ sở hữu mà chỉ có một số quyền như: dùng quyền tài sản để bảo đảm nghĩa vụ dân sự (phát sinh từ hợp đồng mua tài sản và được bên nhận bảo đảm đồng ý); nhận tài sản để xác lập quan hệ sở hữu sau khi hoàn thành các nghĩa vụ; chế ước quyền đối với chủ sở hữu và người thứ ba (ví dụ: chủ sở hữu hiện hành không thể tự do định đoạt đối với tài sản đã thoả thuận bán cho người khác) v.v… Như vậy, quyền sở hữu đối với tài sản hình thành trong tương lai là quyền tài sản có điều kiện và chỉ đặt ra khi gắn với một số giao dịch nhất định, và ở đây, vấn đề chúng ta đang quan tâm là giao dịch bảo đảm.

b)Tiền, giấy tờ có giá là đối tượng của các biện pháp bảo đảm.

Theo quy định của pháp lệnh Ngoại hối có hiệu lực từ 1/6/2006 các giao dịch ngoại hối được tự do đối với các giao dịch vãng lai. Như vậy chỉ có các chủ thể được phép kinh doanh lưu thông ngoại hối mới được dùng ngoại tệ là các biện pháp bảo đảm. Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, giá trị được thành tiền và được phép giao dịch.

Như vậy, có những giấy tờ có giá gắn liền với nhân thân của chủ sở hữu như cổ phiếu ghi danh cấm chuyển nhượng trong một thời gian nhất định thì không thể là đối tượng của các giao dịch dân sự.

c) Quyền tài sản là đối tượng của các biện pháp bảo đảm. Các quyền tài sản được dùng làm vật bảo đảm:

- Quyền sở hữu trí tuệ: gồm quyến tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng;

- Quyền đòi nợ;

- Quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bào đảm. Quyền tài sản này là đối tượng của các biện pháp bảo đảm khi tài sản bảo đảm được mua bảo hiểm và các bên có thỏa thuận dùng quyền yêu cầu nhận số tiền bảo hiểm cũng thuộc đối tượng bảo đảm;

- Quyền tài sản đối với phần góp vốn trong doanh nghiệp;

- Quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng: đó là quyền yêu cầu thanh toán từ các hợp đồng đã được thực hiện;

- Các quyền tài sản khác thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm như quyền thuê nhà, quyền yêu cầu thu cước phí từ những hợp đồng dịch vụ;

- Quyền sử dụng đất là đối tượng của các biện pháp bảo đảm, bên cạnh việc tuân theo các quy định trong bộ luật dân sự 2005, các chủ thể giao kết cũng phải chấp hành đúng các quy định của pháp luật về đất đai;

- Quyền khai thác tài nguyên thiên nhiên được dung để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của BLDS và pháp luật về tài nguyên.

III. Những yêu cầu của tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự:

* Tài sản do các bên thỏa thuận và phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm:

Bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ hoặc người thứ ba mà người này cam kết dùng tài sản thuộc quyền sở hữu của họ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền. Nếu tài sản thuộc sở hữu chung của nhiều người thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của tất cả các chủ sở hữu đó. Quy định tài sản đảm bảo phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm luôn tạo sự bất lợi cho bên có quyền (bên nhận bảo đảm). Do đó bên nhân bảo đảm cần có sự cân nhắc, tính toán và phải xem xét cụ thể xem tài sản bảo đảm đó thuộc sở hữu của bên bảo đảm không.

Doanh nghiệp nhà nước được sử dụng tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.

Trong trường hợp giao dich bảo đảm được giao kết và có giá trị pháp lý đối với người thứ ba thì Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác không được kê biên tài sản bảo đảm để thực hiệ nghĩa vụ khác của bên bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

* Tài sản bảo đảm phải không là đối tượng bị tranh chấp về quyền sở hữu cũng như sử dụng…Chỉ khi các tranh chấp này được giải quyết bằng văn bản thỏa thuận giữa các bên hoặc thông qua phán quyết của tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì mới được đưa vào làm đối tượng của các biện pháp bảo đảm.

* Tài sản bảo đảm phải là tài sản được phép lưu thông.

Những tài sản gắn với yếu tố nhân thân của chủ thể không thể là đối tượng của các biện pháp bảo đảm. Ví dụ như giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu…không thể dủng để bảo đảm. Những tài sản này được phép giao dịch là tài sản không bị cấm giao dịch theo quy định của pháp luật tại thời điểm xác lập giao dịch. Trong trường hợp khi xác lập giao dịch tài sản bảo đảm không phải là đối tượng bị cấm nhưng đến thời điểm bị xử lý thì lại bị cấm thì phải coi đây là sự kiện bất khả kháng và như vậy nghĩa vụ chính không có biện pháp bảo đảm.

* Tài sản bảo đảm phải được xác định cụ thể.

Nếu là tài sản bảo đảm thì phải xác định nó mang tính chất của tài sản động sản, là vật đặc định hay vật cùng loại, có hay không có giấy đăng ký quyền sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật, thuộc loại vật đồng bộ hay bao gồm cả vật chính và vật phụ, vật tiêu hao hay không tiêu hao, nếu tài sản được xác định là đồng Việt Nam thì phải xác định rõ con số cự thể; nếu tài sản tồn tại dưới dạng quyền tài sản thì phải xác định các giấy tờ pháp lý có liên quan để khẳng định quyền nắm giữ của bên bảo đảm. Ví dụ như quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu thì phải có giấy chứng nhận độc quyền sử dụng nhãn hiệu, văn bằng đó còn hay không còn hiệu lực bảo hộ; Nếu tài sản hình thành trong tương lai thì phải có giấy  tờ chứng minh rằng tài sản đó chắc chắn sẽ hình thành trong tương lai và chắc chắn thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm vào thời điểm xử lý tài sản đó. Ví dụ nhà hình thành trong tương lai được dùng để thế chấp nếu dự án xây nhà đó đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, vào thời điểm giao kết hợp đồng bảo đảm xây dựng nhà đó đã có quyết định khởi công xây dựng móng nhà… (Theo luật nhà ở 2005).

* Một tài sản có thể được dùng để làm vật bảo đảm cho việc thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự, nếu tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm vật đó có giá trị lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Quy định này của pháp luật tôn trong yếu tố thỏa thuận, định đoạt của các bên, vốn là một đặc thù của các quan hệ dân sự. Theo đó các bên có thể thỏa thuận dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Việc dùng một tài sản bảo đảm cho việc thực hiện nhiều nghĩa vụ thì bên bảo đảm phải có nghĩa vụ thông báo cho bên nhận bảo đảm sau biết về việc tài sản bảo đảm đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác. Mỗi lần bảo đảm phải được thành lập thành văn bản và phải đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật.

Việc xử lý tài sản bảo đảm trong trường hợp này cũng có những đặc thù riêng. Nếu một nghĩa vụ được bảo đảm đến hạn mà có sự vi phạm thì các nghĩa vụ còn lại tuy chưa đến hạn cũng bị coi là đến hạn; và khi đó tài sản bảo đảm chung cho tất cả các nghĩa vụ đó sẽ được đưa ra xử lý. Tuy nhiên, nếu các bên muốn tiếp tục thực hiện nghĩa vụ chưa đến hạn thì có thể thỏa thuận về việc bên bảo đảm dùng tài sản khác để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chưa đến hạn. Việc xử lý tài sản phải được đăng ký và tất cả các bên nhận bảo đảm cùng tham gia xử lý tài sản bảo đảm theo thứ tự ưu tiên thanh toán như sau:

+ Nếu tất cả các giao dịch bảo đảm đều được đăng ký: căn cứ vào thứ tự đăng ký;

+ Nếu có giao dịch đăng ký và giao dịch không đăng ký; căn cứ vào giao dịch có đăng ký;

+ Nếu các giao dịch đều không đăng ký: căn cứ vào ngày tháng năm xác lập giao dịch.

Các bên nhận bảo đảm bằng một tài sản có quyền thỏa thuận về việc thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán cho nhau. Bên thế quyền ưu tiên thanh toán chỉ được ưu tiên thanh toán trong phạm vi bảo đảm của bên mà mình đã thế quyền.

IV: Hình thức của các biện pháp bảo đảm

Theo quy định của BLDS 2005, hình thức của các biện pháp bảo đảm phải được thể hiện bằng văn bản. Hình thức văn bản đóng vai trò trong việc tạo căn cứ để các bên thực hiện hợp đồng, là căn cứ để xác định trách nhiệm của các bên nếu có tranh chấp xảy ra.

Bên cạnh việc lập thành văn bản thì các giao dịch đảm bảo cũng cần phải có công chứng, chứng thực nếu các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Trước tiên, các bên phải tuân thủ các quy định của pháp về thủ tục công chứng, chứng thực, vì đây là một trong các điều kiện làm phát sinh hiệu lực của giao dịch đảm bảo.

V. Đăng ký các biện pháp đảm bảo.

Đăng ký giao dịch đảm bảo là thủ tục pháp lý quan trọng do pháp luật quy định hoặc do các chủ thể thỏa thuận bởi nó phát sinh những hệ quả sau:

Thứ nhất, đăng ký giao dịch là điều kiện làm phát sinh hiệu lực của giao dịch bảo đảm. Điểm c Điều 10, Nghị đinh 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm quy định: “việc thế chấp quyền sửu dụng đất, quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng, tàu bay, tàu biển có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký thế chấp”

Thứ hai, đăng ký giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm đăng ký.

Thứ ba, đăng ký giao dịch bảo đảm là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán trong trương hợp dùng một tài sản bảo đảm có nhiều qua hệ nghĩa vụ.

VI. Một số vấn đề về đối tượng của giao dịch bảo đảm trong bộ luật dân sự 2005 khi đối chiếu với nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 19/12/2006 hướng dẫn về các bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự: 

*Về việc dùng một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự: 

Điều 324 Bộ luật Dân sự quy định về nguyên tắc: một tài sản có thể được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự nếu có giá trị tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, (nhưng) trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác. Điều đáng lưu ý là, trước đây (với chủ trương an toàn cho các tổ chức tín dụng), Nghị định số 178/1999/NĐ-CP (tại Điều 11) không có quy định cho phép các tổ chức tín dụng nhận tài sản bảo đảm có giá trị bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ (hoặc tổng giá trị các nghĩa vụ) được bảo đảm, mặc dù, đến Nghị định số 85/2002/NĐ-CP điều này đã được bổ sung tại khoản 13 Điều 1 bởi cách quy định “trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”, và ngay sau đó, đến Thông tư số 07/2003/TT-NHNN đã có quy định cho phép thực hiện việc này nhưng chỉ trong “… trường hợp tổ chức tín dụng và khách hàng vay thoả thuận bảo đảm bằng tài sản như là một biện pháp bảo đảm bổ sung đối với khoản vay… không có bảo đảm bằng tài sản”. Nay, theo Nghị định số 163/2006/NĐ-CP tại Điều 5 (với câu khẳng định) đã chính thức quy định rằng: “… các bên có thể thoả thuận dùng tài sản có giá trị nhỏ hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.

Trong thời gian tới, nếu như Ngân hàng Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan sửa đổi các thông tư cho phép các tổ chức tín dụng thực hiện việc này (phù hợp với chủ trương trao cho các tổ chức tín dụng quyền tự quyết định, nhưng không trái luật và tự chịu trách nhiệm) thì cũng có nghĩa sẽ giúp chấm dứt sự tranh cãi lâu nay về việc liệu các tổ chức tín dụng có được phép tự quyết định nhận tài sản bảo đảm có giá trị nhỏ hơn hoặc bằng tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm hay không, khi đó, việc áp dụng sẽ không còn lo ngại bị vi phạm điều cấm (hay đúng hơn là chưa thống nhất của hệ thống pháp luật) về lĩnh vực này.

*Về việc bảo đảm nghĩa vụ bằng tài sản hình thành trong tương lai:Nghị định số 163/2006/NĐ-CP mới có các quy định chung, như tại Điều 8: khi bên bảo đảm có quyền sở hữu một phần hoặc toàn bộ tài sản bảo đảm (thì) bên nhận bảo đảm có các quyền đối với một phần hoặc toàn bộ tài sản đó (và) đối với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà bên bảo đảm chưa đăng ký thì bên nhận bảo đảm vẫn có quyền xử lý tài sản khi đến hạn xử lý; tại Điều 13 quy định: trong trường hợp bên bảo đảm dùng tài sản không thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thì chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản ấy (khoản 1) và tổ chức, cá nhân nhận bảo đảm bằng tài sản mua trả chậm, trả dần, tài sản thuê sau thời điểm đăng ký hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê không được coi là bên nhận bảo đảm ngay tình (khoản 3).

Là tài sản hình thành trong tương lai nên tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, rõ ràng tài sản chỉ được xem là chưa hình thành (tài sản hiện hữu) hoặc đang thuộc về sở hữu của người khác (quyền tài sản). Giả sử rằng, giao dịch bảo đảm bằng tài sản hình thành trong tương lai đã được xác lập, nhưng tại thời điểm nghĩa vụ của bên bảo đảm phát sinh, quyền sở hữu tài sản của bên bảo đảm vẫn chưa xác lập, phải chăng lúc này bên nhận bảo đảm chưa thể có được quyền gì đối với tài sản ấy? Như vậy, nếu chỉ dừng lại với các quy định trên của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP, thì bên nhận bảo đảm chưa thể hy vọng một sự an toàn đầy đủ về pháp lý, giao dịch bằng tài sản hình thành trong tương lai dù có được xác lập hợp pháp, song luôn hứng chịu nguy cơ “hữu danh vô thực”. 

Trong hình thức cầm cố tài sản, Điều 328 BLDS quy định: “cầm cố tài sản có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản cho các bên nhận cầm cố”. Theo khoản 2 Điều 4 Nghị định 163/2006 về giao dịch bảo đảm thì: “Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm”. Bảo đảm bằng biện pháp cầm cố theo BLDS quy định sẽ phát sinh hiệu lực khi chuyển giao tài sản, so với định nghĩa của Nghị định 163/2006 như trên thì tài sản hình thành trong tương lai sẽ  không thể là đối tượng của biện pháp cầm cố, điều này sẽ gây hạn chế về đối tượng của bảo đảm của biện pháp cầm cố, đây cũng là một vấn đề về đối tượng của các biện pháp bảo đảm trong BLDS 2005.

B. Kết bài:

Các giao dịch đảm bảo nghĩa vụ dân sự ra đời nhằm khắc phục và ngăn chặn những rủi do và giúp cho bên có quyền luôn ở thế chủ động trong việc bảo vệ lợi ích của mình trong các giao dịch đã ký kết. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ sẽ nâng cao ý thức thực hiện đúng và đầy đủ của bên có nghĩa vụ.

Việc pháp luật quy định rõ ràng về đối tượng của các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự nhằm hướng dẫn và tạo thuận lợi cho các chủ thể khi tham gia các giao dịch dân sự và lựa chọn các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ dân sự.

Danh Mục Tài Liệu Tham Khảo:

1. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2, trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội – 2006.
2. Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2, TS Lê Đình Nghị (chủ biên), Nxb giáo dục Việt Nam.
3. Bộ luật dân sự 2005, Nxb Tư pháp, Hà Nội – 2009.
4. Nghị định 163/2006 NĐ-CP ngày 19/12/2006 quy định về giao dịch bảo đảm.
5. http://www.luattructuyen.net/vietnamese/articles/368/Quyen_tai_san_dung_De_bao_Dam_thuc_hien_nghia_vu_dan_su.796.html
6. https://thongtinphapluatdansu.wordpress.com/2008/06/22/2206008/
7. http://www.vibonline.com.vn/vi-VN/Forum/TopicDetail.aspx?TopicID=252
8. http://www.ecolaw.vn/vi/node/401
9. http://www.luatviet.org/Home/nghien-cuu-trao-doi/dan-su-to-tung-dan-su/2009/8383/Cac-bien-phap-bao-dam-thuc-hien-Nghia-vu-Dan-su.aspx
10.http://www.trieufile.vn
11. www.luattructuyen.net

Nếu muốn download, xin vui lòng điền vào form tại đây và gửi tối thiểu 01 bài tập của 4 kì gần nhất đạt trên 7 điểm và chưa từng đăng tại blog này vào email baitapluat@gmail.com hoặc inbox facebook Diệp Hân Đặng. Những bạn nào không gửi bài tập, mình xin phép không gửi link download tài liệu lại. Cảm ơn đã ghé thăm blog và xin lỗi vì đã làm phiền các bạn!

Cảm ơn bạn Lê Mỹ Linh - K34 ĐH Luật HN đã chia sẻ tài liệu này!

No comments:

Post a Comment