I. I. KHÁI NIỆM VÀ CÁC HÌNH THỨC CỦA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.
1. Khái niệm và các hình thức của thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là một hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó diễn ra sự mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể của quan hệ kinh tế quốc tế.
2. Các hình thức của thương mại quốc tế
a) Thương mại hàng hóa: Chính là sự mua bán trao đổi sản phẩm dưới dạng vật chất hữu hình như thương mại hàng nông sản, thương mại hàng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, dầu mỏ v.v...
b) Thương mại dịch vụ: Mua bán những sản phẩm vô hình, phi vật chất được thể hiện thông qua các hoạt động của con người, thương mại dịch vụ đóng vai trò ngày càng tăng trong quan hệ thương mại quốc tế.
c) Thương mại liên quan đến đầu tư.
d) Thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
II. CÁC HỌC THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.
Chủ nghĩa Trọng thương.
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith.
Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo.
Học thuyết Hecksher – Ohlin.
Một số lý thuyết khác.
1. Chủ nghĩa Trọng thương – Mercantilism.
Hoàn cảnh ra đời từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII, gắn liền với một số tác giả tiêu biểu người Pháp như Jean Bordin, Melton, Jully, Corbert, và người Anh như Thomax Mun, James Stewart, Josias Chhild v.v...
1.1. Nội dung chính của Chủ nghĩa Trọng thương:
Đề cao vai trò của tiền tệ: Chủ nghĩa Trong thương coi tiền tệ là tiêu chuẩn cơ bản của của cải, nhà nước càng nhiều tiền thì càng giàu có, và trong tiền tệ thì vàng, bạc, kim loại quý được đặc biệt coi trọng. Thời kỳ đó là thời kỳ tích lũy tư bản do vậy đề cao vai trò của tiền tệ đặc biệt là vàng bạc, vàng bạc được các quốc gia phong kiến sử dụng để chi trả như nuôi quân đội, trang trải chi phí chiến tranh v.v.. Để tích lũy thì các quốc gia phong kiến sử dụng nhiều phương pháp như xuất siêu, cướp biển, buôn bán nô lệ v.v...
Coi trọng thương mại, đặc biệt là ngoại thương, trong ngoại thương phải thực hiện xuất siêu (xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu), để có thể xuất siêu các quốc gia phải thực hiện những chính sách:
Chính sách với thuộc địa: xuất khẩu những sản phẩm nguyên liệu thô và sơ chế với giá thấp, các nhà tư bản giữ độc quyền thương mại trên thị trường các nước thuộc địa nhằm ngăn cản các nước này sản xuất, các nước này buộc phải nhập khẩu hàng hoá thành phẩm, sản phẩm công nghiệp chế biến từ các nước chính quốc.
Đạt thặng dư mậu dịch bằng cách tăng xuất bằng những công cụ của nhà nước như trợ cấp xuất khẩu, chú trọng xuất khẩu những hàng hoá có hàm lượng chế biến cao (hạn chế xuất những sản phẩm thô, sơ chế), giảm nhập khẩu (riêng mặt hàng vàng bạc lại được khuyến khích nhập khẩu).
Lợi nhuận: là kết quả của trao đổi không ngang giá (một hình thức lừa gạt – lợi nhuận của quốc gia này có được là nhờ sự nghèo đi của quốc gia khác – thặng dư của quốc gia này là thâm hụt của quốc gia khác).
- Đề cao vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế: Để đạt được xuất siêu, giảm nhập thì các công cụ của nhà nước là rất quan trọng như
Khuyến khích xuất khẩu bằng các biện pháp tài chính như trợ giá cho xuất khẩu, cung cấp tín dụng v.v...
Hạn chế nhập khẩu bằng những những công cụ truyền thống như hàng rào thuế quan (đánh thuế thật cao).
1.2. Ưu điểm của Chủ nghĩa Trọng thương:
a) Lần đầu tiên, các hiện tượng kinh tế được giải thích bằng lý luận. Trước kia các hiện tượng kinh tế chỉ được giải thích bằng tôn giáo, bằng kinh nghiệm chứ chưa có học thuyết khoa học nào.
b) Đề cao được vai trò của thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế. Bối cảnh lịch sử kinh tế thời kỳ đó là tự cung, tự cấp, mà Chủ nghĩa Trọng thương đề cao vai trò của thương mại đặc biệt là thương mại quốc tế thì đó là một cuộc cách mạng trong nhận thức ở thời kỳ này.
c) Nhận thức được vai trò điều tiết của Nhà nước. Chủ nghĩa Trọng thương đã nhận thức được vai trò của nhà nước với tư cách là một chủ thể chủ đạo trong quan hệ kinh tế quốc tế và đồng thời cũng nhận thức được tầm quan trọng của các công cụ của nhà nước có thể sử dụng để điều tiết xuất nhập khẩu cũng như nền kinh tế nói chung.
1.3. Nhược điểm:
a) Quan niệm chưa đúng về của cải, về nguồn gốc giàu có của một quốc gia. Chủ nghĩa này cho rằng muốn giàu có thì phải có nhiều tiền, mà muốn có nhiều tiền thì phải xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu.
b) Quan niệm chưa đúng về lợi nhuận trong thương mại. Chủ nghĩa Trọng thương coi lợi nhuận là kết quả của sự trao đổi không ngang giá (quốc gia này giàu lên nhờ sự nghèo đi của quốc gia khác). Ta thấy rằng nếu lợi nhuận trong thương mại quốc tế mà cứ như vậy thì những quốc gia bị thua thiệt trong thương mại sẽ không tham gia thương mại quốc tế nữa do vậy thương mại quốc tế sẽ không phát triển lâu dài được.
c) Chưa nêu lên bản chất bên trong của hiện tượng kinh tế.
Với tất cả những nhược điểm trên đây cùng với sự phát triển của nền kinh tế bước sang nửa cuối của thế kỷ XVIII, Chủ nghĩa Trọng thương dần dần mất đi vị thế của mình, trong tác phẩm nổi tiếng của Adam Smith “Nguồn gốc giàu có thực sự của các dân tộc” đã phê phán chủ nghĩa trọng thương và trình bày những quan điểm mới của mình về thương mại quốc tế.
2. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (1723-1790).
2.1. Quan điểm cơ bản của Adam Smith về thương mại quốc tế bao gồm:
a) Nguồn gốc của sự giàu có: Không phải do ngoại thương mà do sản xuất công nghiệp. Ông thừa nhận vai trò của thương mại tạo điều kiện cho phát triển kinh tế là rất quan trọng nhưng không phải là yếu tố quyết định. Nguồn gốc của sự giàu có quốc gia không phụ thuộc vào khối lượng vàng bạc mà quốc gia đó có mà dựa vào sự sẵn có hàng hoá, dịch vụ của quốc gia.
b) Trong thương mại quốc tế trao đổi phải là ngang giá. Sự trao đổi giữa các quốc gia phải dựa trên cơ sở tự nguyện, các bên cùng có lợi - ông phê phán sự phi lý của Chủ nghĩa Trọng thương - ông nói rằng mậu dịch sẽ giúp cả hai bên có thể gia tăng số lượng tài sản của mình thông qua nguyên tắc cơ bản là phân công lao động.
2.2. Cơ sở mậu dịch giữa các quốc gia: Căn cứ vào lợi thế tuyệt đối của các nước.
Lợi thế tuyệt đối của một quốc gia về một sản phẩm: Nghĩa là Quốc gia đó có thể sản xuất ra sản phẩm đó với các chi phí thấp hơn các nước khác (Ví dụ: Dầu mỏ của Arập Xêút, gỗ của Canada v.v...). Khi một quốc gia có được lợi thế tuyệt đối về một sản phẩm nào đó thì quốc gia đó thì họ nên chuyên môn hoá vào sản xuất mặt hàng đó, sau đó đem sản phẩm đó trao đổi với các nước khác để nhập khẩu về những sản phẩm họ không có lợi thế tuyệt đối. Adam Smith ví các quốc gia như những hộ gia đình – người chủ gia đình không bao giờ sản xuất được hết những cái mà họ cần, có hộ gia đình làm nông nghiệp, có hộ gia đình sản xuất thủ công sau đó họ trao đổi những sản phẩm với nhau.
Nguồn gốc của lợi thế tuyệt đối của một quốc gia:
Lợi thế tự nhiên: tài nguyên, điều kiện khí hậu, đất đai. Lợi thế tự nhiên đặc biệt quan trọng đối với các sản phẩm như hàng nông sản, lâm sản, thuỷ sản v.v...
Lợi thế do nỗ lực: Sự lành nghề, kỹ thuật của người lao động đặc biệt quan trọng đối với việc sản xuất những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao.
Ví dụ cho Lợi ích từ chuyên môn hóa
Ta thấy, ở Irag 1 đơn vị nguồn lực có thể sản xuất ra được 10 thùng dầu, nhưng ở Việt Nam 1 đơn vị nguồn lực có thể sản xuất được 6 thùng dầu mỏ Irag sản xuất ra được nhiều dầu mỏ hơn Việt Nam với cung một lượng đầu vào như nhau nhưng đầu ra số lượng dầu của Irag nhiều hơn Irag có lợi thế tuyệt đối về dầu mỏ.
Tương tự, đối với Việt Nam 1 đơn vị nguồn lực có thể sản xuất ra được 3 tấn gạo, còn Irag được 2 tấn gạo Việt Nam có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất gạo.
Theo Adam Smith thì Irag chuyên môn hoá vào dầu mỏ còn Việt Nam chuyên môn hoá vào sản xuất gạo như vậy sản lượng dầu mỏ của Irag tăng lên 10 thùng, Việt Nam giảm đi 6 thùng tính trên thế giới tổng số sẽ tăng lên 4 thùng. Tương tự như vậy đối với sản xuất gạo, Irag giảm đi 2 tấn gạo, Việt Nam tăng thêm 3 tấn và tổng số sản lượng gạo trên thế giới tăng 1 tấn. Giả định, Irag chuyển 1 đơn vị từ sản xuất gạo sang sản xuất dầu mỏ, còn Việt Nam chuyển 1 đơn vị từ sản xuất dầu mỏ sang sản xuất gạo – Chuyên môn hoá.
2.4. Các giả định của lợi thế tuyệt đối:
Chỉ có 2 nền kinh tế tham gia sản xuất hàng hóa
Hàng hóa các nước khác nhau sản xuất đồng nhất về đặc tính, chất lượng.
Không tính chi phí vận tải.
Chi phí là không đổi dù quy mô sản xuất tăng.
Các yếu tố sản xuất ở các nước giống nhau.
Dễ dàng di chuyển nguồn lực từ ngành này sang ngành khác.
Không có sự hiện diện của thuế quan.
Tri thức là hoàn hảo.
Hạn chế cơ bản của lý thuyết về lợi thế tuyệt đối:
Không giải thích được hiện tượng trao đổi thương mại vẫn diễn ra với những nước có lợi thế hơn hẳn các nước khác ở mọi sản phẩm, hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối về tất cả các sản phẩm. Ngay từ thời Adam Smith, lý thuyết của ông cũng không dập tắt được nỗi lo lắng của nhiều người ở Anh thời kỳ đó, họ lo ngại rằng giả dụ nước Đức có thể vươn lên để sản xuất có hiệu quả tất cả các mặt hàng hơn so với nước Anh thì thương mại quốc tế sẽ thế nào? Học thuyết của Adam Smith không giải thích được điều này và nhà kinh tế học David Ricardo đã khắc phục được nhược điểm này.
3. Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo (1772 – 1823)
3.1. Nội dung về lý thuyết lợi thế so sánh:
a) Mọi nước đều có thể có lợi ích khi tham gia vào thương mại quốc tế. Ví dụ: Irag sản xuất dầu mỏ có hiệu quả hơn Việt Nam, Việt Nam sản xuất gạo có hiệu quả hơn Irag khi hai nước tham gia thương mại quốc tế buôn bán với nhau thì cả hai bên đều có lợi ích. Nhưng ngay cả khi Irag sản xuất có hiệu quả hơn Việt Nam tất cả các mặt hàng, cả Irag và Việt Nam đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế. Với quan điểm này, Ricardo kêu gọi tất cả các quốc gia tham gia vào thương mại quốc tế và xoá bỏ rào cản bảo hộ.
b) Lợi ích trong thương mại quốc tế bắt nguồn từ lợi thế so sánh. Xuất hiện khái niệm về lợi thế so sánh chứ không còn chỉ là lợi thế tuyệt đối nữa.
c) Mỗi nước đều có lợi thế so sánh trong sản xuất một mặt hàng nào đó (và kém lợi thế so sánh trong mặt hàng khác).
Một quốc gia có lợi thế so sánh khi quốc gia đó có khả năng sản xuất một hàng hóa với mức chi phí cơ hội (Chi phí để sản xuất ra một sản phẩm được tính bằng một sản phẩm khác) thấp hơn so với các quốc gia khác.
Chi phí cơ hội của việc sản xuất ra một hàng hóa là số lượng hàng hóa khác mà chúng ta phải hy sinh khi chúng ta sử dụng nguồn lực để sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa đó.
1. Khái niệm và các hình thức của thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế là một hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó diễn ra sự mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể của quan hệ kinh tế quốc tế.
2. Các hình thức của thương mại quốc tế
a) Thương mại hàng hóa: Chính là sự mua bán trao đổi sản phẩm dưới dạng vật chất hữu hình như thương mại hàng nông sản, thương mại hàng máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, dầu mỏ v.v...
b) Thương mại dịch vụ: Mua bán những sản phẩm vô hình, phi vật chất được thể hiện thông qua các hoạt động của con người, thương mại dịch vụ đóng vai trò ngày càng tăng trong quan hệ thương mại quốc tế.
c) Thương mại liên quan đến đầu tư.
d) Thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
II. CÁC HỌC THUYẾT VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ.
Chủ nghĩa Trọng thương.
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith.
Lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo.
Học thuyết Hecksher – Ohlin.
Một số lý thuyết khác.
1. Chủ nghĩa Trọng thương – Mercantilism.
Hoàn cảnh ra đời từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVIII, gắn liền với một số tác giả tiêu biểu người Pháp như Jean Bordin, Melton, Jully, Corbert, và người Anh như Thomax Mun, James Stewart, Josias Chhild v.v...
1.1. Nội dung chính của Chủ nghĩa Trọng thương:
Đề cao vai trò của tiền tệ: Chủ nghĩa Trong thương coi tiền tệ là tiêu chuẩn cơ bản của của cải, nhà nước càng nhiều tiền thì càng giàu có, và trong tiền tệ thì vàng, bạc, kim loại quý được đặc biệt coi trọng. Thời kỳ đó là thời kỳ tích lũy tư bản do vậy đề cao vai trò của tiền tệ đặc biệt là vàng bạc, vàng bạc được các quốc gia phong kiến sử dụng để chi trả như nuôi quân đội, trang trải chi phí chiến tranh v.v.. Để tích lũy thì các quốc gia phong kiến sử dụng nhiều phương pháp như xuất siêu, cướp biển, buôn bán nô lệ v.v...
Coi trọng thương mại, đặc biệt là ngoại thương, trong ngoại thương phải thực hiện xuất siêu (xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu), để có thể xuất siêu các quốc gia phải thực hiện những chính sách:
Chính sách với thuộc địa: xuất khẩu những sản phẩm nguyên liệu thô và sơ chế với giá thấp, các nhà tư bản giữ độc quyền thương mại trên thị trường các nước thuộc địa nhằm ngăn cản các nước này sản xuất, các nước này buộc phải nhập khẩu hàng hoá thành phẩm, sản phẩm công nghiệp chế biến từ các nước chính quốc.
Đạt thặng dư mậu dịch bằng cách tăng xuất bằng những công cụ của nhà nước như trợ cấp xuất khẩu, chú trọng xuất khẩu những hàng hoá có hàm lượng chế biến cao (hạn chế xuất những sản phẩm thô, sơ chế), giảm nhập khẩu (riêng mặt hàng vàng bạc lại được khuyến khích nhập khẩu).
Lợi nhuận: là kết quả của trao đổi không ngang giá (một hình thức lừa gạt – lợi nhuận của quốc gia này có được là nhờ sự nghèo đi của quốc gia khác – thặng dư của quốc gia này là thâm hụt của quốc gia khác).
- Đề cao vai trò của Nhà nước trong việc điều tiết nền kinh tế: Để đạt được xuất siêu, giảm nhập thì các công cụ của nhà nước là rất quan trọng như
Khuyến khích xuất khẩu bằng các biện pháp tài chính như trợ giá cho xuất khẩu, cung cấp tín dụng v.v...
Hạn chế nhập khẩu bằng những những công cụ truyền thống như hàng rào thuế quan (đánh thuế thật cao).
1.2. Ưu điểm của Chủ nghĩa Trọng thương:
a) Lần đầu tiên, các hiện tượng kinh tế được giải thích bằng lý luận. Trước kia các hiện tượng kinh tế chỉ được giải thích bằng tôn giáo, bằng kinh nghiệm chứ chưa có học thuyết khoa học nào.
b) Đề cao được vai trò của thương mại, đặc biệt là thương mại quốc tế. Bối cảnh lịch sử kinh tế thời kỳ đó là tự cung, tự cấp, mà Chủ nghĩa Trọng thương đề cao vai trò của thương mại đặc biệt là thương mại quốc tế thì đó là một cuộc cách mạng trong nhận thức ở thời kỳ này.
c) Nhận thức được vai trò điều tiết của Nhà nước. Chủ nghĩa Trọng thương đã nhận thức được vai trò của nhà nước với tư cách là một chủ thể chủ đạo trong quan hệ kinh tế quốc tế và đồng thời cũng nhận thức được tầm quan trọng của các công cụ của nhà nước có thể sử dụng để điều tiết xuất nhập khẩu cũng như nền kinh tế nói chung.
1.3. Nhược điểm:
a) Quan niệm chưa đúng về của cải, về nguồn gốc giàu có của một quốc gia. Chủ nghĩa này cho rằng muốn giàu có thì phải có nhiều tiền, mà muốn có nhiều tiền thì phải xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu.
b) Quan niệm chưa đúng về lợi nhuận trong thương mại. Chủ nghĩa Trọng thương coi lợi nhuận là kết quả của sự trao đổi không ngang giá (quốc gia này giàu lên nhờ sự nghèo đi của quốc gia khác). Ta thấy rằng nếu lợi nhuận trong thương mại quốc tế mà cứ như vậy thì những quốc gia bị thua thiệt trong thương mại sẽ không tham gia thương mại quốc tế nữa do vậy thương mại quốc tế sẽ không phát triển lâu dài được.
c) Chưa nêu lên bản chất bên trong của hiện tượng kinh tế.
Với tất cả những nhược điểm trên đây cùng với sự phát triển của nền kinh tế bước sang nửa cuối của thế kỷ XVIII, Chủ nghĩa Trọng thương dần dần mất đi vị thế của mình, trong tác phẩm nổi tiếng của Adam Smith “Nguồn gốc giàu có thực sự của các dân tộc” đã phê phán chủ nghĩa trọng thương và trình bày những quan điểm mới của mình về thương mại quốc tế.
2. Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của Adam Smith (1723-1790).
2.1. Quan điểm cơ bản của Adam Smith về thương mại quốc tế bao gồm:
a) Nguồn gốc của sự giàu có: Không phải do ngoại thương mà do sản xuất công nghiệp. Ông thừa nhận vai trò của thương mại tạo điều kiện cho phát triển kinh tế là rất quan trọng nhưng không phải là yếu tố quyết định. Nguồn gốc của sự giàu có quốc gia không phụ thuộc vào khối lượng vàng bạc mà quốc gia đó có mà dựa vào sự sẵn có hàng hoá, dịch vụ của quốc gia.
b) Trong thương mại quốc tế trao đổi phải là ngang giá. Sự trao đổi giữa các quốc gia phải dựa trên cơ sở tự nguyện, các bên cùng có lợi - ông phê phán sự phi lý của Chủ nghĩa Trọng thương - ông nói rằng mậu dịch sẽ giúp cả hai bên có thể gia tăng số lượng tài sản của mình thông qua nguyên tắc cơ bản là phân công lao động.
2.2. Cơ sở mậu dịch giữa các quốc gia: Căn cứ vào lợi thế tuyệt đối của các nước.
Lợi thế tuyệt đối của một quốc gia về một sản phẩm: Nghĩa là Quốc gia đó có thể sản xuất ra sản phẩm đó với các chi phí thấp hơn các nước khác (Ví dụ: Dầu mỏ của Arập Xêút, gỗ của Canada v.v...). Khi một quốc gia có được lợi thế tuyệt đối về một sản phẩm nào đó thì quốc gia đó thì họ nên chuyên môn hoá vào sản xuất mặt hàng đó, sau đó đem sản phẩm đó trao đổi với các nước khác để nhập khẩu về những sản phẩm họ không có lợi thế tuyệt đối. Adam Smith ví các quốc gia như những hộ gia đình – người chủ gia đình không bao giờ sản xuất được hết những cái mà họ cần, có hộ gia đình làm nông nghiệp, có hộ gia đình sản xuất thủ công sau đó họ trao đổi những sản phẩm với nhau.
Nguồn gốc của lợi thế tuyệt đối của một quốc gia:
Lợi thế tự nhiên: tài nguyên, điều kiện khí hậu, đất đai. Lợi thế tự nhiên đặc biệt quan trọng đối với các sản phẩm như hàng nông sản, lâm sản, thuỷ sản v.v...
Lợi thế do nỗ lực: Sự lành nghề, kỹ thuật của người lao động đặc biệt quan trọng đối với việc sản xuất những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao.
Ví dụ cho Lợi ích từ chuyên môn hóa
Nước
|
Dầu mỏ
(thùng) do một đơn vị nguồn lực sản xuất ra
|
Gạo (tấn)
do một đơn vị nguồn lực sản xuất ra
|
Irag
|
10
|
2
|
Việt Nam
|
6
|
3
|
Ta thấy, ở Irag 1 đơn vị nguồn lực có thể sản xuất ra được 10 thùng dầu, nhưng ở Việt Nam 1 đơn vị nguồn lực có thể sản xuất được 6 thùng dầu mỏ Irag sản xuất ra được nhiều dầu mỏ hơn Việt Nam với cung một lượng đầu vào như nhau nhưng đầu ra số lượng dầu của Irag nhiều hơn Irag có lợi thế tuyệt đối về dầu mỏ.
Tương tự, đối với Việt Nam 1 đơn vị nguồn lực có thể sản xuất ra được 3 tấn gạo, còn Irag được 2 tấn gạo Việt Nam có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất gạo.
1.1. Nước
|
Dầu mỏ
(thùng) sản xuất ra tăng (giảm)
|
Gạo (tấn)
sản xuất ra tăng (giảm)
|
Irag
|
+10
|
(2)
|
Việt Nam
|
(6)
|
+3
|
Tổng
|
+4
|
+1
|
Theo Adam Smith thì Irag chuyên môn hoá vào dầu mỏ còn Việt Nam chuyên môn hoá vào sản xuất gạo như vậy sản lượng dầu mỏ của Irag tăng lên 10 thùng, Việt Nam giảm đi 6 thùng tính trên thế giới tổng số sẽ tăng lên 4 thùng. Tương tự như vậy đối với sản xuất gạo, Irag giảm đi 2 tấn gạo, Việt Nam tăng thêm 3 tấn và tổng số sản lượng gạo trên thế giới tăng 1 tấn. Giả định, Irag chuyển 1 đơn vị từ sản xuất gạo sang sản xuất dầu mỏ, còn Việt Nam chuyển 1 đơn vị từ sản xuất dầu mỏ sang sản xuất gạo – Chuyên môn hoá.
2.4. Các giả định của lợi thế tuyệt đối:
Chỉ có 2 nền kinh tế tham gia sản xuất hàng hóa
Hàng hóa các nước khác nhau sản xuất đồng nhất về đặc tính, chất lượng.
Không tính chi phí vận tải.
Chi phí là không đổi dù quy mô sản xuất tăng.
Các yếu tố sản xuất ở các nước giống nhau.
Dễ dàng di chuyển nguồn lực từ ngành này sang ngành khác.
Không có sự hiện diện của thuế quan.
Tri thức là hoàn hảo.
Hạn chế cơ bản của lý thuyết về lợi thế tuyệt đối:
Không giải thích được hiện tượng trao đổi thương mại vẫn diễn ra với những nước có lợi thế hơn hẳn các nước khác ở mọi sản phẩm, hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối về tất cả các sản phẩm. Ngay từ thời Adam Smith, lý thuyết của ông cũng không dập tắt được nỗi lo lắng của nhiều người ở Anh thời kỳ đó, họ lo ngại rằng giả dụ nước Đức có thể vươn lên để sản xuất có hiệu quả tất cả các mặt hàng hơn so với nước Anh thì thương mại quốc tế sẽ thế nào? Học thuyết của Adam Smith không giải thích được điều này và nhà kinh tế học David Ricardo đã khắc phục được nhược điểm này.
3. Lý thuyết về lợi thế so sánh của David Ricardo (1772 – 1823)
3.1. Nội dung về lý thuyết lợi thế so sánh:
a) Mọi nước đều có thể có lợi ích khi tham gia vào thương mại quốc tế. Ví dụ: Irag sản xuất dầu mỏ có hiệu quả hơn Việt Nam, Việt Nam sản xuất gạo có hiệu quả hơn Irag khi hai nước tham gia thương mại quốc tế buôn bán với nhau thì cả hai bên đều có lợi ích. Nhưng ngay cả khi Irag sản xuất có hiệu quả hơn Việt Nam tất cả các mặt hàng, cả Irag và Việt Nam đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế. Với quan điểm này, Ricardo kêu gọi tất cả các quốc gia tham gia vào thương mại quốc tế và xoá bỏ rào cản bảo hộ.
b) Lợi ích trong thương mại quốc tế bắt nguồn từ lợi thế so sánh. Xuất hiện khái niệm về lợi thế so sánh chứ không còn chỉ là lợi thế tuyệt đối nữa.
c) Mỗi nước đều có lợi thế so sánh trong sản xuất một mặt hàng nào đó (và kém lợi thế so sánh trong mặt hàng khác).
Một quốc gia có lợi thế so sánh khi quốc gia đó có khả năng sản xuất một hàng hóa với mức chi phí cơ hội (Chi phí để sản xuất ra một sản phẩm được tính bằng một sản phẩm khác) thấp hơn so với các quốc gia khác.
Chi phí cơ hội của việc sản xuất ra một hàng hóa là số lượng hàng hóa khác mà chúng ta phải hy sinh khi chúng ta sử dụng nguồn lực để sản xuất thêm một đơn vị hàng hóa đó.
Đơn vị sản
phẩm
|
1giờ lao
động ở Mỹ tạo ra
|
1 giờ lao
động ở TQ tạo ra
|
Tổng
|
Quần áo
(bộ)
|
20
|
15
|
35
|
Máy tính
(chiếc)
|
2
|
1
|
3
|
Chi phí cơ hội để sản xuất quần áo là số máy tính phải từ bỏ để sản xuất 1 bộ quần áo. Trung Quốc: 1/15 (chiếc) < Mỹ 2/20 (chiếc) Trung Quốc có chi phí cơ hội thấp hơn, Trung quốc có lợi thế so sánh trong sản xuất quần áo.
Tương tự với Mỹ Lợi thế sản xuất trong máy tính
Nếu đề bài cho theo chiều ngược lại:
quy đổi về năng suất lao động để tính chi phí cơ hội
Đơn vị sản
phẩm
|
Số giờ lao
động sử dụng ở Mỹ
|
Số giờ lao
động sử dụng ở Trung Quốc
|
Quần áo
(bộ)
|
1
|
4
|
Máy tính
(chiếc)
|
5
|
28
|
Đơn vị sản
phẩm
|
1 giờ lao
động Mỹ tạo ra
|
1 giờ lao
động Trung Quốc tạo ra
|
Quần áo
(bộ)
|
1
|
1/4
|
Máy tính
(chiếc)
|
1/5
|
1/28
|
Chi phí cơ hội sản xuất quần áo ở Trung Quốc: 1/28 : 1/4 = 4/28 = 1/7
Chi phí cơ hội sản xuất quần áo ở Mỹ: 1/5 : 1 = 1/5
Trung Quốc: Trong nước 7 bộ quần áo tương đương 1 chiếc máy tính, nếu chuyên môn hóa thì cần bán 5 bộ quần áo đủ để đổi một chiếc máy tính dôi ra 2 bộ quần áo.
Mỹ: tương tự, Mỹ sẽ có lợi khi chuyên môn hóa vào sản xuất máy tính.
3.2. Hạn chế:
a) Chỉ chú ý đến cung sản xuất sản phẩm mà mình có lợi thế so sánh, không chú ý đến cầu tiêu dùng. Tất cả các học thuyết cổ điển chỉ tập trung vào cung chứ không đề cập tới cầu, Cầu chỉ được tập trung trong kinh tế học hiện đại.
b) Chưa tính đến chi phí vận tải, bảo hiểm, thuế quan và các hàng rào bảo hộ mậu dịch.
c) Giá tương đối trong trao đổi chỉ dựa vào đầu vào là lao động.
d) Chưa tính đến yếu tố chi phí sản xuất giảm dần theo quy mô và năng suất lao động tăng dần theo quy mô.
e) Chưa tính đến vòng đời sản phẩm, thị hiếu tiêu dùng.
4. Học thuyết Hecksher – Ohlin (H-O)
4.1. Giới thiệu chung về học thuyết:
Khác biệt về nguồn lực là nguồn gốc duy nhất của thương mại.
Giải thích lợi thế so sánh là do:
Sự khác biệt về nguồn lực giữa các quốc gia.
Hàng hóa khác nhau thì hàm lượng các yếu tố sản xuất cũng khác nhau.
Còn được gọi là Học thuyết về tỷ lệ các yếu tố sản xuất.
4.2. Nội dung cơ bản của học thuyết H – O.
a) Trong một nền kinh tế mở cửa, mỗi nước tiến đến chuyên môn hóa ngành sản xuất mà cho phép sử dụng nhiều yếu tố sản xuất đối với nước đó là thuận lợi nhất. Theo học thuyết này có hai vấn đề (a) sự khác biệt về nguồn lực giữa các quốc gia ‘vd: các nước phát triển có tiềm lực mạnh về vốn, công nghệ; các nước đang phát triển thì mạnh về lao động, đất đai’ – Khi ta nói một quốc gia có thể dư thừa tương đối về yếu tố nào đó ‘vd: về vốn; ; lao động’ là quan điểm tương đối, chẳng hạn khi ta so sánh quy mô dân số giữa Việt Nam và Mỹ – ta thấy mặc dù dân số Mỹ nhiều hơn Việt Nam nhưng ta vẫn nói Việt Nam dư thừa lao động hơn so với Mỹ là ta so sánh tỷ lệ lao động trên vốn của Việt Nam so với tỷ lệ lao động trên vốn của Mỹ; (b) Ngành sản xuất sử dụng nhiều yếu tố sản xuất. Ví dụ khi nói tới ngành sản xuất dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động so với ngành sản xuất lương thực – ở đây ta tính tỷ lệ lao động, hàm lượng lao động trong sản phẩm đó cao hơn so với hàm lượng lao động trong sản xuất lương thực.
b) Trao đổi quốc tế là sự trao đổi các yếu tố dư thừa lấy các yếu tố khan hiếm. Các nước chuyên môn hóa sản xuất các sản phẩm cần nhiều yếu tố dư thừa của nước mình để xuất khẩu và nhập khẩu những sản phẩm mà để sản xuất ra nó đòi hỏi nhiều yếu tố khan hiếm. Các yếu tố của sản xuất: vốn, công nghệ, lao động, tài nguyên. ở các nước phát triển thì có thế mạnh về vốn, công nghệ, còn các nước đang phát triển thì mạnh về lao động, tài nguyên (Dư thừa có nghĩa tương đối), học thuyết của H – O giải thích tại sao một nước, giả như một nước phát triển họ xuất khẩu sản phẩm công nghệ – sản phẩm chiếm hàm lượng vốn nhiều – chính là những yếu tố sản xuất của họ là dư thừa. Tương tự, ta thấy Trung Quốc được coi là công xưởng của thế giới, Trung Quốc xuất khẩu nhiều hàng dệt may, giày dép, đồ chơi trên thế giới – những sản phẩm này sử dụng nhiều những yếu tố rất dư thừa của Trung Quốc. Hoặc ngay trong các nước đang phát triển và phát triển cơ cấu xuất khẩu cũng rất khác nhau, ta thấy như Canada xuất khẩu sản phẩm gỗ vì họ có lợi thế về nguồn tài nguyên phong phú.
c) Định luật xu hướng cân bằng về thu nhập của các yếu tố sản xuất:
Khi các nước tự do hóa thương mại, không có nước nào chuyên môn hóa hoàn toàn thì thu nhập của các yếu tố sản xuất giữa các nước có xu hướng cân bằng nhau.
Ví dụ:
<còn tiếp>
No comments:
Post a Comment