Khám nghiệm hiện trường là khâu quan trọng khi các cơ quan điều tra tiến hành điều tra một vụ án, bởi những gì thu thập, quan sát, đánh giá ở hiện trường nơi xảy ra vụ án sẽ giúp cơ quan điều tra phá án được nhanh chóng và hiệu quả hơn. Vì thế Nhà nước ta đã có những quy định cụ thể về công tác khám nghiệm hiện trường, tuy nhiên thực hiện trên thực tế lại không như mong đợi. Bài viết này xin làm rõ vấn đề : “Thực trạng và một số biện pháp nâng cao hiệu quả công tác khám nghiệm hiện trường trong các vụ án hình sự”
NỘI DUNG
1. Khái niệm khám nghiệm hiện trường:
Khám nghiệm hiện trường là hoạt động tố tụng, đồng thời là hoạt động nghiệp vụ của Cơ quan Điều tra (CQĐT) được tiến hành tại nơi xảy ra tội phạm và những nơi khác mà CQĐT thấy cần thiết phải khám nghiệm nhằm phát hiện, thu thập, củng cố, kiểm tra những tài liệu, dấu vết, tang vật, chứng cứ và những thông tin khác về vụ án, về người thực hiện hành vi phạm tội… nhằm làm sáng tỏ những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hình sự theo qui định tại Điều 63 BLTTHS. Khám nghiệm hiện trường có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát hiện tội phạm, không khám nghiệm hoặc khám nghiệm không đúng trình tự thủ tục sẽ để lọt tội phạm hoặc dẫn đến những nhận định sai lầm, làm oan người vô tội. Theo qui định tại khoản 2 Điều 63 BLTTHS thì biên bản khám nghiệm hiện trường là chứng cứ dùng để chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Nội dung liên quan tới hoạt động khám nghiệm hiện trường được quy định tại Điều 150 BLTTHS và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Hoạt động khám nghiệm hiện trường cần tuân thủ đúng về trình tự, thủ tục như thành phần phải có điều tra viên, Kiểm sát viên, người làm chứng (bắt buộc), các nhà chuyên môn tham gia vào việc khám nghiệm (bác sỹ pháp y, giám định viên kĩ thuật hình sự, giám định viên chuyên ngành) đối với các hiện trường có tính đặc trưng như hiện trường cháy nổ, có người chết, điện giật, ...Ngoài ra, hoạt động khám nghiệm hiện trường về các trình tự, việc lập biên bản, vẽ sơ đồ hiện trường, chụp ảnh, thu lượm, bảo quản dấu vết đều phải tuân thủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
2. Thực trạng về công tác khám nghiệm hiện trường ở nước ta hiện nay:
Theo quy định tại điều 125 và điều 126 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 1989 thì khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, điều tra viên phải báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Theo quy định này thì khi điều tra viên khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, việc báo cho Viện kiểm sát cùng cấp là vấn đề bắt buộc. Còn Viện kiểm sát tham gia như thế nào là vấn đề chưa được quy định. Do đó trong thực tiễn có trường hợp điều tra viên có báo cáo cho Viện kiểm sát, nhưng Viện kiểm sát không cử kiểm sát viên tham gia. Trong một số trường hợp khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi không có kiểm sát viên tham gia, tính khách quan, chính xác trong việc khám nghiệm chưa được đảm bảo, do đó gặp rất nhiều khó khăn trong việc đánh giá, tổng hợp chứng cứ của vụ án. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã khắc phục sơ hở trên đây bằng việc quy định tại điều 150 và 151 về khám nghiệm hiện trường và khám nghiệm tử thi, trong mọi trường hợp, trước khi khám nghiệm điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát biết. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi. Vì vậy, Viện kiểm sát các cấp, nhất là các kiểm sát viên làm nhiệm vụ kiểm sát điều tra hình sự phải hết sức chú trọng nghiên cứu, thực hiện tốt nhiệm vụ này.
Trong những năm qua, lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao hết sức quan tâm chỉ đạo công tác kiểm sát khám nghiệm hiện trường. Nội dung công tác này luôn được nhấn mạnh trong các chỉ thị công tác hàng năm. Chỉ thị số 02/2006/CT ngày 9/1/2006 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác của ngành Kiểm sát nhân dân năm 2006, nêu rõ “Đối với các vụ trọng án không quả tang, những vụ án nghiêm trọng phức tạp, lãnh đạo Viện phải trực tiếp tham gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi”. Thực hiện yêu cầu của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát các cấp đã thực sự chú trọng và chỉ đạo thực hiện công tác kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường.
Do đó, thời gian qua, công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi đã có nhiều tiến bộ. Hầu hết các vụ án có hiện trường đã được kiểm sát viên, tham gia kiểm sát chặt chẽ việc khám nghiệm. Các quy định về khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, về xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra, về lập biên bản khám nghiệm, về trưng cầu giám định đã được thực hiện tốt hơn trước. Kết quả các cuộc khám nghiệm đã thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc xác định phương hướng điều tra, giải quyết các vụ án. Nhiều vụ trọng án không phát hiện được quả tang (như giết người, vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông gây hậu quả nghiêm trọng), nhưng do thực hiện tốt việc khám nghiệm hiện trường đã góp phần quan trọng làm rõ các tình tiết của vụ án, phát hiện kẻ phạm tội. Nhiều trường hợp phạm tội đã được các cấp xét xử khách quan, án đã có hiệu lực, nhưng bị cáo vẫn kêu oan, đưa ra nhiều tình tiết mới như bị bức cung, mớm cung, nhằm phủ nhận lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra và tại các phiên toà trước đó. Nhưng qua xem xét lời khai của các nhân chứng, của các bị cáo khác, đặc biệt là căn cứ vào các vật chứng, biên bản hiện trường vụ án đã xác định việc kết tội bị cáo là chính xác, không có căn cứ để kháng nghị nên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định không kháng nghị vụ án. Đáng chú ý như vụ Nguyễn Văn Vạn (võ sư) cùng đồng bọn giết người (anh Quân) ở thành phố Hồ Chí Minh ngày 19/12/1996; vụ án có nhiều đối tượng tham gia, phạm tội xong bỏ trốn, khai báo không thành khẩn và có biểu hiện mua chuộc nhân chứng, gây rất nhiều khó khăn cho công tác điều tra. Song, cơ quan điều tra đã làm khá tốt việc khám nghiệm hiện trường, thu thập đầy đủ dấu vết, tang vật, khám nghiệm tử thi, thương tích bị hại, ghi lời khai nhân chứng, cho đối chất, nhận dạng giữa nhân chứng và bị can ... nên đã có đủ bằng chứng kết tội Vạn cùng đồng bọn và y đã phải chịu hình phạt nghiêm khắc nhất. Dư luận nhân dân rất hoan nghênh việc giải quyết vụ án này.
Tuy nhiên, chất lượng công tác khám nghiệm hiện trường trong một số vụ án còn nhiều thiếu sót, như việc khám nghiệm không theo đúng thủ tục, trình tự luật định, biên bản khám nghiệm ghi không đầy đủ, bỏ sót các dấu vết quan trọng, tang vật chứng không bảo quản chặt chẽ ... dẫn đến xác định phương hướng điều tra và đường lối giải quyết vụ án không đúng. Theo số liệu thống kê năm 2003-2004, trong số các vụ án bị huỷ ở cấp phúc thẩm, có tới 97% là do thiếu sót trong công tác điều tra, trong đó có nhiều vụ thiếu sót trong khám nghiệm hiện trường. Chỉ tính số vụ án vi phạm về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (điều 202- Bộ Luật hình sự) bị huỷ thì có tới 55% số vụ do công tác khám nghiệm hiện trường yếu, có sai sót. Vi phạm trong khám nghiệm hiện trường tuy chưa đến mức phổ biến và nghiêm trọng, nhưng có những trường hợp gây bức xúc trong dư luận, ảnh hưởng không tốt đến uy tín các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tình hình này, đòi hỏi các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát phải chú trọng thực hiện tốt hơn nữa công tác này. Những hạn chế này xuất phát từ những nguyên nhân như sau:
a. Việc thực hiện các quy định về trình tự, thủ tục, thành phần tham gia khám nghiệm:
Theo quy định tại điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1989 và điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì khi khám nghiệm bắt buộc phải có kiểm sát viên, người chứng kiến, có thể cho bị can, bị hại, người làm chứng và mời nhà chuyên môn như giám định viên tham gia. Tuy nhiên, có vụ án việc khám nghiệm không đủ thành phần tham gia, khiến cho việc khám nghiệm thiếu khách quan và có nhiều sai sót. Như vụ “vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, ngày 19/11/2001, ở Hà Nội, thường gọi là “vụ Láng-Hoà Lạc”: Phạm Hồng Quân điều khiển xe ôtô taxi, do đi tốc độ cao, không làm chủ tốc độ đã đâm vào xe đạp do cháu Phạm Phương Linh điều khiển, chở cháu Phạm Thị Anh Thư đi cùng chiều. Hậu quả là cả hai cháu Linh và Thư bị chết. Quá trình khám nghiệm không có kiểm sát viên tham gia. Đáng lưu ý là trong vụ án, các cháu học sinh, bạn của cháu Linh, cháu Thư là nhân chứng quan trọng của vụ án nhưng không được tham dự khám nghiệm với tư cách là nhân chứng. Do đó việc khám nghiệm không bảo đảm tính khách quan. Sau này, chính các cháu đã phản đối không thừa nhận biên bản hiện trường do cơ quan điều tra lập.
Mặt khác, trong trường hợp này, vụ việc có dấu hiệu tội phạm với hậu quả 2 người chết, song cảnh sát giao thông vẫn tiến hành khám nghiệm hiện trường. Việc làm đó, không đúng với Thông tư số 02 ngày 7/1/1995 của Liên ngành Bộ Nội vụ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao (mục 1 phần III) đã quy định rõ trong các vụ vị phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông có dấu hiệu tội phạm, gây thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản thì lực lượng cảnh sát giao thông chỉ được tiến hành các hoạt động khẩn cấp ban đầu, đồng thời thông báo ngay cho cơ quan điều tra để thực hiện việc khám nghiệm. Do việc khám nghiệm hiện trường không đúng trình tự, thủ tục, thành phần tham dự không đủ dẫn tới khám nghiệm không khách quan, phát sinh các khiếu kiện phức tạp.
b. Việc lập biên bản khám nghiệm:
Điều 129 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 1988 và điều 154 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định khi khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi điều tra viên phải lập biên bản khám nghiệm hiện trường, trong đó phải ghi rõ rõ nội dung các hoạt động tố tụng; những người tiến hành, tham gia hoặc có liên quan đến hoạt động tố tụng; những khiếu nại, yêu cầu, đề nghị của họ. Đây là quy định bắt buộc để bảo đảm việc khám nghiệm được khách quan, chính xác.Tuy vậy, trong thực tế còn có những trường hợp biên bản khám nghiệm được lập một cách rất sơ sài, đơn giản, không thể hiện rõ các hoạt động tố tụng cần thiết; sơ đồ hiện trường không mô tả đầy đủ và chính xác các đặc điểm, kích thước, màu sắc của các sự vật tại hiện trường, nhất là các vật chứng, dấu vết có thể làm chứng cứ của vụ án. Điều tra viên không ghi đủ thành phần tiến hành và tham gia việc khám nghiệm, dẫn đến có trường hợp biên bản lập xong nhưng người có liên quan không đồng tình với biên bản khám nghiệm hiện trường, làm cho việc giải quyết vụ án thêm phức tạp.
Đối với vụ án Huỳnh Văn Nam – Giết người, Cướp tài sản, ở Đồng Nai cũng có nhiều thiếu sót trong việc lập biên bản khám nghiệm hiện trường. Đêm 8/4/1992, Huỳnh Văn Nam và Phạm Minh Phương phục ở khu vực nhà ông Tư Hộ để cướp tài sản của anh Phạm Minh Thông, nhân viên thu tiền điện. Thấy anh Thông đi xe đạp về, Nam chạy ra ôm anh Thông, hai người giằng co nhau. Nam rút dao đâm anh Thông một nhát và đẩy anh xuống bờ sông. Phương đứng bên hỗ trợ Nam. Thấy anh Thông chết, Nam và Phương bỏ chạy. Khám nghiệm hiện trường, cơ quan điều tra có thu thập vết máu dính trên cây cỏ và gửi đi giám định, song không lập biên bản xác nhận việc thu giữ dấu vết máu ở đâu, khi nào và thu như thế nào; biên bản mô tả vết thương của nạn nhân rất sơ sài, dẫn đến không thể xác định được cụ thể tư thế, cách thức bị can đâm nạn nhân; chiếc áo thu giữ của bị can có vết máu, song biên bản thu giữ không mô tả vết máu này. Do đó, khi luật sư đưa ra những lập luận về sự không hợp lý của biên bản hiện trường thì kiểm sát viên rất lúng túng khi tranh luận với luật sư.
Trong vụ Láng-Hoà Lạc, điều đáng chú ý là một số cán bộ trong khi thi hành nhiệm vụ được phân công đã không làm đầy đủ trách nhiệm của mình, vẽ sơ đồ, lập biên bản hiện trường cẩu thả; các số đo, kích thước được tẩy xoá không đúng với thực tế vụ án xảy ra; không thể hiện rõ vị trí xe ôtô va chạm với xe đạp gây tai nạn cũng như vị trí hai nạn nhân nằm, gây nhiều khó khăn cho việc đánh giá chứng cứ vụ án. Do việc khám nghiệm hiện trường cẩu thả, nội dung biên bản không đầy đủ, sơ đồ hiện trường thiếu chính xác, làm phát sinh những khiếu nại rất phức tạp; cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cấp trên mất nhiều thời gian, công sức để khắc phục những thiếu sót, tồn tại đó nhưng vẫn không có tính thuyết phục cao.
Vụ án Phạm Thị út – "Giết người", ở thành phố Hồ Chí Minh: Theo cáo trạng, quá trình điều tra xác định do mâu thuẫn với gia đình ông Trương Ngọc Minh, người thuê nhà của bà Phạm Thị út, nên khoảng 3 giờ sáng ngày 13/9/1993, bà út đã phóng hoả đốt căn phòng của ông Minh, làm ông Minh và bà Huỳnh Thị Nga bị bỏng nặng dẫn đến chết. Đối với chiếc lon thu được ở sau nhà bị cáo, việc mô tả chiếc lon cũng không thống nhất: có văn bản ghi lon loại 0,8 kg còn dính dầu, có văn bản thể hiện lon sơn loại 1 lít, trong còn dính 1 ít xăng. Đối với chiếc lon thu được trong phòng ông Minh, biên bản vụ cháy ngày 13/9/1993, mô tả các lon bia thu được tại phòng ông Minh ghi là có mùi dầu. Nhưng sau đó, trong báo cáo ngày 30/11/1993 cơ quan Công an lại ghi là mùi xăng. Văn bản khám nghiệm ghi lon có dung tích 1 lít, bị cháy ám khói bên trong, có văn bản khác lại ghi lon sắt có nhiều xăng. Chúng ta đều biết, xăng là hoá chất rất nhạy cảm với lửa, khi căn phòng bị cháy như vậy, lượng xăng liệu có còn tồn tại trong chiếc lon ở trong phòng đó, hoặc còn để lại mùi xăng, hay là sẽ cháy hết ? Đây là những mâu thuẫn rất lớn mà sau này kết quả điều tra không được làm rõ.
Như vậy, biên bản hiện trường, sơ đồ hiện trường là kết quả của hoạt động khám nghiệm hiện trường của cơ quan điều tra, do điều tra viên thực hiện, do đó đòi hỏi phải được lập theo đúng quy định của pháp luật. Nội dung biên bản khám nghiệm phải được ghi nhận đầy đủ, khách quan, chính xác các hoạt động khám nghiệm, các thông tin về dấu vết vật chứng đã được phát hiện, thu thập. Biên bản khám nghiệm phải ghi nhận đầy đủ thông tin về đồ vật, tài liệu đó ở hiện trường như vị trí, đặc điểm, tình trạng, kích thước ... Do đó, thực tiễn cho thấy nếu biên bản hiện trường không được ghi cụ thể, chính xác, khách quan các dấu vết, vật chứng thì khi thực hiện việc tranh luận tại toà án, bị cáo, người bào chữa ... có thể đưa ra các ý kiến phản bác biên bản khám nghiệm. Lúc đó chắc chắn kiểm sát viên sẽ lúng túng, thậm chí có thể thất bại trước các lập luận của bị cáo, người bào chữa. Kiểm sát viên phải căn cứ vào các điều 95, 125, 150 và 154 Bộ luật tố tụng hình sự để yêu cầu điều tra viên lập biên bản khám nghiệm hiện trường cho chính xác.
c. Việc thu thập các dấu vết, vật chứng của hiện trường:
Điều 125, Bộ Luật tố tụng hình sự năm 1988 và điều 150 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003 đều quy định rõ "Khi khám nghiệm hiện trường, điều tra viên tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án; ghi rõ kết quả xem xét vào biên bản khám nghiệm trường". Điều tra viên cần xác định cho đúng những dấu vết, những vật chứng liên quan đến vụ án, có ý nghĩa trong việc làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, để từ đó tiến hành thu thập (thu lượm) như: vẽ sơ đồ, chụp ảnh đo đạc, dựng mô hình, thu nhặt các dấu vết, vật chứng cho thật đầy đủ, cụ thể và chính xác, khách quan. Cán bộ khám nghiệm phải ghi nhận đầy đủ thông tin về đồ vật, tài liệu ở hiện trường, như kích thước, màu sắc, chất liệu. Ví dụ thu được dao thì mô tả đó là loại dao gì, dao nhọn hay dao phay, gậy thì dài, đường kính bao nhiêu, bằng loại cây gì, áo thì loại vải gì, màu sắc ...Việc làm đơn giản, cẩu thả trong trường hợp này sẽ dẫn đến những sai sót nghiêm trọng trong việc xác định, đánh giá hành vi phạm tội. Trong vụ án tại đường Láng- Hoà Lạc, khi chụp ảnh hiện trường, cán bộ điều tra không đặt thước đo tỷ lệ. Sau đó sửa chữa, ghi thêm số liệu trên sơ đồ hiện trường, làm cho các dấu vết tại hiện trường bị mất tính khách quan. Có thể thấy rõ điều này trong vụ án Phạm Thị Út, một trong những vật chứng quan trọng của vụ án là chiếc thang tre được cho là phương tiện để bị can trèo lên tường nhà và tạt xăng xuống phòng nạn nhân thì tuy có chụp ảnh nhưng lại không được thu giữ.
Vụ Huỳnh Văn Nam ở Đồng Nai, theo kết luận điều tra trong quá trình thực hiện tội phạm bị cáo có sử dụng chiếc xe đạp để đi và như vậy, chiếc xe là phương tiện phạm tội, song cơ quan điều tra không thu giữ chiếc xe đạp này. Không thu thập dấu vân tay hay dấu vết khác trên con dao thu tại hiện trường, dẫn đến không khẳng định được có phải con dao của Nam mà y dùng để gây án hay không.
Trong vụ Nguyễn Thị Lâm ở Bình Thuận, cơ quan điều tra không thu được lá thư của chị Dương Thị Mỹ gửi cho tình nhân là Trần Văn Sáng nhưng cơ quan điều tra lại kết luận về lá thư đó mà Nguyễn Thị Nhung vợ Sáng cùng một số người trong gia đình đã căn cứ vào đó để tổ chức đánh, chém chị Mỹ. Cơ quan điều tra cũng không thu được con dao mà bị cáo Nén khai dùng để chém nạn nhân. Sau này, tiến hành khai quật con dao theo lời khai của Nén, thì vật thu được khác nhiều so với con dao Nén đã khai, không đảm bảo giá trị chứng minh. Đồng thời với kích thước con dao đó thì không phù hợp với vết chém trên đầu chị Mỹ. Trong vụ án Phạm Hồng Quân, khi khám nghiệm hiện trường cơ quan điều tra không kiểm tra xem khi Quân điều khiển phương tiện gây tai nạn, có sử dụng chất kích thích hay không. Do đó trong quá trình thu thập các dấu vết, vật chứng tại hiện trường, kiểm sát viên phải chú ý yêu cầu điều tra viên thu thập đầy đủ các dấu vết, vật chứng tại hiện trường, mọi chi tiết dù nhỏ nhưng liên quan đến vụ án phải được thu thạp đầy đủ. Nếu phát hiện điều tra viên bỏ sót các tài liệu, vật chứng thì yêu cầu được thu thập đầy đủ.
d. Việc bảo quản tang vật chứng, tài liệu, dấu vết thu tại hiện trường:
Việc thu giữ vật chứng quan trọng bao nhiêu thì việc quản lý vật chứng cũng càng quan trọng bấy nhiêu; vật chứng, tài liệu, dáu vết thu được tại hiện trường là những chứng cứ vô cùng quan trọng giúp cho điều tra viên, kiểm sát viên nghiên cứu, khai thác các thông tin phục vụ cho điều tra. Vật chứng thu được nhưng không bảo quản, để mất mát hoặc thay đổi hình dạng thì không còn ý nghĩa chứng minh. Khoản 2 điều 75 Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định: vật chứng phải được bảo đảm nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn và hư hỏng".
Trong thực tế vẫn còn những trường hợp cơ quan điều tra không quản lý, bảo quản tốt tang vật chứng thu thập được, đã để thất lạc, không tìm lại được. Vụ Nguyễn Thị Lâm ở Bình Thuận, qua khám nghiệm tử thi, cơ quan điều tra đã thu được mẫu tóc, dép của nạn nhân, nhưng sau đã để mất, gây khó khăn cho việc xác định rõ tung tích của nạn nhân, có đúng là chị Dương Thị Mỹ hay không. Chiếc bông tai thu tại hiện trường, điều tra viên đã tự tiện đem trả cho gia đình người bị hại, trong khi đó cơ quan điều tra không giám định để xác định rõ chủ nhân của nó có đúng là của người bị hại hay không.
Trong vụ án Huỳnh Văn Nam, cơ quan điều tra thu hai chiếc cúc trên hiện trường, nhận định một chiếc của bị cáo, một chiếc của nạn nhân; nhưng khi thu giữ không niêm phong, không đánh dấu cụ thể nên cuối cùng không xác định được chiếc cúc nào là của ai.
Do đó kiểm sát viên phải yêu cầu điều tra viên có trách nhiệm quản lý chặt chẽ các vật chứng, tài liệu, dấu vết đã thu được tại hiện trường. Thực tiễn cho thấy có nhiều vụ án vật chứng tài liệu, dấu vết bị mất nhưng không kết luận được mất ở khâu nào, ảnh hưởng rất lớn đến việc đánh giá chứng cứ vụ án. Do đó quá trình nghiên cứu, khai thác hoặc đựoc chuyển dịch theo hồ sơ vụ án giữa các cơ quan tố tụng, vật chứng, tài liệu dấu vết phải được lập biên bản giao nhận chặt chẽ.
e. Việc giám định tang vật chứng, tài liệu, dấu vết:
Theo điều 155 Bộ Luật tố tụng hình sự, cơ quan điều tra có quyền trưng cầu giám định khi xét thấy cần thiết cho việc điều tra vụ án. Bên cạnh đó còn quy định một số trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, đó là các trường hợp khi cần xác định nguyên nhân chết người, tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động; tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc người bị hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án; tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại, nếu việc đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có sự nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó; chất độc, chất ma tuý, chất phóng xạ, tiền giả.
Trong thực tế, sau khi khám nghiện hiện trường, có những chi tiết cần phải giám định để có kết luận của cơ quan chuyên môn, nhưng nhiều trường hợp, cơ quan điều tra đã không trưng cầu giám định hoặc việc giám định không kịp thời và thiếu chính xác, dẫn đến những khó khăn trong việc xác định các chứng cứ.
Trong vụ Phạm Thị Út, cơ quan điều tra thu được hai chiếc lon ở hiện trường, có tài liệu ghi có mùi xăng, có tài liệu ghi là đựng dầu, trong khi đó không giám định ngay lon có chứa xăng hay dầu, vì vậy không xác định được chất gây cháy. Vụ Huỳnh Văn Minh, không giám định để xác định rõ nguyên nhân gây nên các vết thương trên thân thể bị cáo. Sau này, bị cáo khai những vết thương đó của y không phải là do móng tay của người bị hại cào khi bị y cưỡng hiếp mà do là do gai của cây cam cào khi bị cáo hái cam, khiến cho việc xác định hành vi phạm tội của y trở nên phức tạp hơn. Vụ Huỳnh Văn Nam, không tiến hành giám định dấu vân tay, dấu vết khác trên con dao thu tại hiện trường; dấu vết trên chiếc giỏ (túi) của nạn nhân và những đồ vật liên quan đến vụ án cũng không được giám định rõ để xác định thủ phạm gây án.
Trong vụ Nguyễn Thị Lâm, cơ quan điều tra đã không cho giám định vân tay và ADN để xác định rõ nạn nhân là ai, quá tin vào việc nhận dạng của người nhà nạn nhân (mới 15 tuổi), dẫn đến sau này có những nghị ngờ về danh tính của nạn nhân. Cho nên sau khi tiến hành điều tra lại đã không khắc phục được những thiếu sót trong quá trình điều tra trước đây, các chứng cứ thu được đã không đảm bảo tính có căn cứ và tính hợp pháp theo luật định để chứng minh hành vi phạm tội của các bị can, do vậy đã phải đình chỉ điều tra.
Qua những dẫn chứng nêu trên, có thể nói trong nhiều vụ án, cán bộ làm nhiệm vụ khám nghiệm hiện trường tỏ ra rất thiếu tính chuyên nghiệp trong thực thi công việc; cẩu thả, tuỳ tiện, thậm chí ấu trĩ khi xử lý các vấn đề phát sinh, dẫn đến những thiếu sót trong quá trình khám nghiệm. Hậu quả là nhiều vụ án, công tác khám nghiệm không làm rõ được một cách khách quan, toàn diện về hiện trường, dẫn đến những khó khăn lớn trong việc đánh giá chứng cứ cũng như trong việc xác định đường lối giải quyết vụ án. Khi vụ án được truy tố, xét xử, những thiếu sót này là cơ sở để bị can, bào chữa phản phản bác, báo chí chỉ trích; trong khi đó việc tranh luận của kiểm sát viên thiếu thuyết phục; vì vậy không ít vụ án phải huỷ để điều tra lại. Tuy nhiên, việc điều tra lại, trong đó có việc xem xét lại hiện trường nhiều trường hợp rất khó khăn, do hiện trường đã thay đổi, những người chứng kiến vụ án cũng không còn nhớ chính xác từng sự việc xảy ra. Do vậy nhiều vụ án phải đình chỉ hoặc tuyên bị cáo không phạm tội.
Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, tuy nhiên chủ yếu do năng lực, trình độ của cán bộ thực thi nhiệm vụ còn nhiều hạn chế, yếu kém trong nhận thức và vận dụng các kỹ năng nghiệp vụ vào công việc cụ thể trong khám nghiệm hiện trường. Bên cạnh đó, tinh thần trách nhiệm của số cán bộ này cũng chưa tốt, chưa đi sâu phát hiện và làm rõ những dấu hiệu, những yếu tố của hiện trường để làm chứng cứ cho việc giải quyết vụ án. Cán bộ lãnh đạo của cơ quan điều tra ở nhiều nơi chưa thật sâu sát, cụ thể trong chỉ đạo công tác khám nghiệm hiện trường. Viện kiểm sát, trong nhiều trường hợp cũng chưa làm hết trách nhiệm của mình trong giám sát, kiểm tra nhằm đảm bảo cho việc khám nghiệm hiện trường theo đúng quy định của pháp luật.
3. Giải pháp hoàn thiện công tác khám nghiệm hiện trường ở nước ta hiện nay.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án các cấp cần phối hợp tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm về công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, rút ra những việc đã làm được, những khuyết điểm, thiếu sót trong công tác này và đề ra biện pháp cụ thể để khắc phục.
Viện kiểm sát các cấp nhất thiết phải cử kiểm sát viên trực tiếp kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường đối với tất cả các trường hợp; lãnh đạo cùng với kiểm sát viên trực tiếp tham gia những vụ quan trọng, không quả tang ... đúng theo yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại các chỉ thị công tác hàng năm, đảm bảo việc khám nghiệm hiện trường có chất lượng, hiệu quả thiết thực và đúng theo quy định của pháp luật (về trình tự thủ tục khám nghiệm, xây dựng biên bản khám nghiệm, thu thập chứng cứ, giám định, bảo quản tang vật chứng và thực nghiệm điều tra).
Tăng cường các biện pháp bồi dưỡng, quản lý, giáo dục nhằm nâng cao trình độ và ý thức trách nhiệm của cán bộ làm công tác khám nghiệm hiện trường. Tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu về công tác khám nghiệm hiện trường giúp cho cán bộ học tập, nghiên cứu nâng cao năng lực nghiệp vụ, thực hiện tốt các nhiệm vụ chuyên môn cụ thể về khám nghiệm hiện trường.
Vì hiện trường vụ án có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc đánh giá chứng cứ và kết luận giải quyết vụ án, Bộ luật tố tụng hình sự đã quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục việc khám nghiệm, các chủ thể tham gia khám nghiệm. Tuy nhiên, tại Thông tư số 01/2006/TT-BCA (C11) ngày 12/1/2006 của Bộ Công an hướng dẫn điều 35 Bộ luật tố tụng hình sự, tại nội dung thứ 3 có ghi: "Để công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi có kết quả, cơ quan điều tra mời (hoặc trưng dụng) những người có kiến thức chuyên môn trong từng lĩnh vực cụ thể để tham gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, như cán bộ kỹ thuật hình sự, bác sĩ pháp y, cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, kỹ sư đường sắt, kỹ sư ngành hàng không v.v...".
Theo quy định tại điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự thì các nhà chuyên môn kỹ thuật trên đây cơ quan điều tra có thể mời hoặc không mời, tuỳ vào tính chất của vụ án. Nhưng có hai chủ thể cơ quan điều tra bắt buộc phải báo cho họ để có mặt là kiểm sát viên và người chứng kiến. Nhưng Thông tư lại không quy định. Theo suy nghĩ của em: Việc tham gia khám nghiệm hiện trường theo quy định của pháp luật có điều tra viên, kiểm sát viên, người làm chứng, có thể cho bị can, người bị hại, người làm chứng và mời nhà chuyên môn tham dự việc khám nghiệm. Như vậy, điều 150 Bộ luật tố tụng hình sự điều chỉnh hoạt động của nhiều chủ thể liên quan đến nhiều cơ quan. Do đó Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và các cơ quan có liên quan cần xây dựng thông tư để hướng dẫn thực hiện điều 150, điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự.
KẾT LUẬN
Công tác khám nghiệm hiện trường ở nước ta hiện nay còn tồn tại khá nhiều bất cập, một phần xuất phát từ nguyên nhân khách quan là do các yếu tố môi trường, cá nhân, sinh vật ảnh hưởng đến hiện trường, phần khác chính là do sự cẩu thả, thiếu chuyên môn và trách nhiệm của các chủ thể có thẩm quyền trong công tác khám nghiệm hiện trường hiện nay. Để giải quyết vấn đề đó, Nhà nước cần đồng thời thực hiện tốt các biện pháp nhằm cải tổ cơ chế hoạt động của các cơ quan liên quan đến công tác khám nghiệm hiện trường, đồng thời có những quy định và sự hỗ trợ cụ thể cho các chủ thể có thẩm quyền thực hiện tốt công tác khám nghiệm hiện trường.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình khoa học điều tra hình sự, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, Chương 7.
3. TS. Ngô Sỹ Hiền, Tìm hiểu về kĩ thuật điều tra hình sự, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007
4. Viện khoa học hình sự - Bộ nội vụ, Sổ tay bảo vệ và khám nghiệm hiện trường, Hà Nội, 1992.
Cảm ơn bạn Phan Nhật Quỳnh đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment