TS. Ngô Huy Cương – Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội
Tạp chí nghiên cứu lập pháp
Tài sản là một khái niệm quen thuộc đối với bất kỳ ai, bởi đơn giản tài sản là công cụ của đời sống…
Tài sản là một khái niệm quen thuộc đối với bất kỳ ai, bởi đơn giản tài sản là công cụ của đời sống con người. Tuy nhiên, quan niệm pháp lý và quan niệm đời thường về tài sản lại có đôi chút khác biệt.
Về mặt pháp lý, nhận thức đúng về tài sản và phân loại tài sản có vai trò rất quan trọng trong việc tạo lập các quy định pháp luật và giải quyết các tranh chấp pháp lý. Nhưng ngay Bộ luật Dân sự 2005 của Việt Nam cũng đã diễn đạt khác nhiều so với quan niệm của thế giới về khái niệm tài sản và phân loại tài sản. Hệ quả là nhiều quy chế pháp lý liên quan tới tài sản đã không thỏa đáng về mặt khoa học và thực tiễn, gây ảnh hưởng không nhỏ tới giao lưu dân sự và phát triển kinh tế, thương mại.
1. Nhìn lại quan niệm về tài sản của Bộ luật Dân sự 2005
Điều 163, Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 giải nghĩa: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”. Có lẽ, đây là một giải nghĩa tài sản đặc biệt nhất đã từng được biết đến, bởi khó có thể tìm được một giải nghĩa tài sản tương tự ở trong các quyển từ điển thuật ngữ pháp luật và ở các BLDS của các nước trên thế giới, mặc dù con người không thể sống mà không có tài sản và pháp luật nói chung thì đã chú ý tới câu chuyện này từ nhiều thiên niên kỷ.Giải nghĩa này kế thừa có phát triển giải nghĩa tài sản tại Điều 172, BLDS năm 1995. Thế nhưng, chưa từng một lần những người “có trách nhiệm” giải thích cho giới luật học hiểu tính đúng đắn của những giải nghĩa như vậy. Tất nhiên quy định thì dễ, nhưng giải thích cho tính đúng đắn của quy định thì bao giờ cũng khó.
Gắn trực tiếp với Điều 163, có một số điều luật thể hiện rõ quan niệm của nhà làm luật về tài sản, như Điều 164, Điều 173, Điều 174, Điều 181… của BLDS 2005. Qua giải nghĩa khái niệm tài sản tại Điều 163 và các điều luật này của BLDS 2005, có thể rút ra mấy nhận xét sơ bộ như sau: thứ nhất, giải nghĩa được đưa ra theo kiểu liệt kê các loại tài sản, chứ không xác định phạm vi dứt khoát của tài sản; thứ hai, các quy định tiếp đó tại “Chương XI- Phân loại tài sản” (các Điều từ 174 đến 181) diễn giải cụ thể các loại tài sản được nêu ra trong giải nghĩa này không đề cập gì tới tiền và giấy tờ có giá; thứ ba, Điều 173, Điều 181 và toàn bộ các quy định của BLDS 2005 không diễn giải một cách có thể hiểu được phạm vi của quyền tài sản; thứ tư, quyền sở hữu được quy định dường như tách biệt với tài sản tại Điều 164 và Điều 174, BLDS 2005, có nghĩa là khái niệm tài sản dường như không bao trùm quyền sở hữu, trong khi vẫn quy định các vấn đề chuyển dịch tài sản gắn với quyền sở hữu tại rất nhiều các quy định.
Để phân tích những điểm phù hợp và bất cập trong quan niệm của nhà làm luật Việt Nam hiện nay về tài sản và lý giải cho các nhận xét sơ bộ trên, có lẽ cần khảo sát quan niệm về tài sản của pháp luật các nước.
Lần tới BLDS Liên bang Nga 1994 (có lẽ là một tài liệu tham khảo quan trọng của những nhà làm luật Việt Nam trong hai thập kỷ 80 và 90 của thế kỷ trước, khi đang xây dựng BLDS 1995), người ta thấy khó khăn trong việc tìm ra một giải nghĩa riêng về tài sản tại đó. Tuy nhiên để xác định các đối tượng chung của các quyền dân sự, Bộ luật này quy định:
“Điều 128. Các loại đối tượng của các quyền dân sự
Thuộc về đối tượng của các quyền dân sự phải được nhắc đến là vật, trong số đó bao gồm tiền và giấy tờ có giá và cũng bao gồm các loại tài sản khác, như các quyền tài sản; công việc và dịch vụ; thông tin; kết quả của hoạt động trí tuệ, bao gồm quyền loại trừ đối với chúng (quyền sở hữu trí tuệ); những giá trị phi vật chất”.
Có lẽ nhà làm luật Việt Nam đã chắt lọc từ điều luật này được bốn loại tài sản để đưa vào Điều 172, BLDS 1995 (đây chỉ là phỏng đoán), sau đó kế thừa và phát triển thành Điều 163, BLDS 2005? Nhưng xem ra, có sự khác biệt căn bản giữa Điều 163, BLDS 2005 với Điều 128, BLDS Liên bang Nga. Dựa trên nền tảng phân loại tài sản của Luật La Mã và có cập nhật các vấn đề mới phát sinh trong đời sống dân sự hiện nay, Điều 128, BLDS Liên bang Nga đã phân chia tài sản thành hai loại căn bản là tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Trong khi đó, Điều 163, BLDS 2005 không xác định rõ tiền và giấy tờ có giá thuộc về tài sản vô hình hay tài sản hữu hình nhưng vẫn cứ liệt kê. Lưu ý rằng, tài sản hữu hình liên quan tới vật, còn tài sản vô hình liên quan tới các quyền. Tuy nhiên Điều 128, BLDS Liên bang Nga cũng không xác định phạm vi dứt khoát của tài sản và chỉ liệt kê các loại tài sản nói riêng và các đối tượng của các quyền dân sự nói chung. Việc không xác định được phạm vi dứt khoát của tài sản sẽ được nói tới dưới đây.
Không đưa ra một định nghĩa về khái niệm tài sản, BLDS của Tiểu bang Louisiana (Hoa Kỳ) đã dựa vào phân loại tài sản để xác định khái niệm tài sản như sau:
“Điều 448. Phân loại tài sản
Tài sản được phân chia thành tài sản chung, tài sản công và tài sản tư; tài sản hữu hình và tài sản vô hình; và động sản và bất động sản”.
Điều luật này đã phân loại tài sản theo ba cách dựa trên các căn cứ khác nhau: Thứ nhất, căn cứ vào chủ sở hữu, tài sản được chia thành tài sản chung, tài sản công và tài sản tư; thứ hai, căn cứ vào việc có hay không có đặc tính vật lý, tài sản được chia thành tài sản hữu hình và tài sản vô hình; thứ ba, căn cứ vào đặc tính di dời hay không di dời được của tài sản hữu hình và các quyền được thiết lập trên đó hay không được thiết lập trên đó, tài sản được chia thành động sản và bất động sản. Mỗi phân loại tài sản như vậy có các quy chế pháp lý tương ứng.
BLDS Québec (Canada) đưa ra một định nghĩa khái niệm tài sản cũng dựa trên các phân loại tài sản như sau:
“Điều 899. Tài sản, dù hữu hình hay vô hình, được phân chia thành bất động sản và động sản”.
Chúng ta cũng bắt gặp các định nghĩa tài sản tương tự của các luật gia thuộc Common Law. Chẳng hạn Deluxe Back’s Law Dictionary giải nghĩa: Tài sản là một từ được sử dụng chung để chỉ mọi thứ là đối tượng của quyền sở hữu, hoặc hữu hình hoặc vô hình, hoặc bất động sản hoặc động sản. Ta cũng có thể bắt gặp cách định nghĩa tài sản khác mà các luật gia Common Law thường sử dụng, như: “Theo định nghĩa rộng về tài sản như một mớ quyền (a bundle of rights), tài sản là bất kể những gì có khả năng sở hữu, hoặc bởi cá nhân, tập thể hoặc cho lợi ích của người khác”1. Các định nghĩa như vậy về tài sản thường nhấn mạnh tới tài sản là một mớ quyền được thiết lập trên vật có hiệu lực chống lại những người khác2. Tại đây, người ta thể hiện quan niệm tài sản là các mối quan hệ giữa người với người liên quan tới vật, hơn là nhấn mạnh tới vật có đặc tính vật lý hay vật chất liệu như BLDS 2005. Tuy nhiên có thể nói đây là cách định nghĩa khai thác vào bản chất của tài sản, nghiêng hơn về giác độ nghiên cứu, có thể có những khó khăn nhất định khi đưa vào văn bản quy phạm pháp luật. Cho nên cách định nghĩa theo kiểu liệt kê các phân loại tài sản cơ bản thích hợp hơn đối với xây dựng văn bản. Tuy nhiên, khi cần phân loại các vật quyền thì không thể không tham khảo tới cách thức định nghĩa này.
Qua việc khảo sát các định nghĩa tài sản ở trên, có thể thấy: (1) Các định nghĩa đều sử dụng cách thức liệt kê các phân loại tài sản mà không đưa ra một phạm vi cụ thể của tài sản; (2) tài sản là đối tượng của quyền sở hữu; và (3) tài sản được phân chia thành bốn phân loại lớn là bất động sản hữu hình và động sản hữu hình, bất động sản vô hình và động sản vô hình.
Có thể hiểu tài sản là một khái niệm động và phụ thuộc vào giá trị kinh tế của nó bởi tài sản là công cụ của đời sống con người. Trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội loài người, tài sản có một phạm vi khác nhau, nhưng đều là công cụ đáp ứng các nhu cầu sống của con người. Vì vậy nó được nhận thức không mấy khác nhau ở các hệ thống pháp luật bởi con người rất nhạy bén với sự đáp ứng nhu cầu của mình. Tuy nhiên, người ta chỉ có thể nhận thức đầy đủ về nó qua phân loại.
Chưa cần luận giải sâu vào các phân loại tài sản cụ thể thì đã có thể thấy ngay: không có sự phân loại thì sẽ không thể hiểu được khái niệm tài sản. Và khó có thể thiết lập được các quy chế cụ thể cho việc điều tiết các hành vi pháp lý. Chẳng hạn, pháp luật điều tiết các hành vi mua bán hàng hóa (goods) của hầu hết các nền tài phán, trừ Việt Nam3, thường xác định hàng hóa là động sản hữu hình để xác lập cho các hành vi mua bán hàng hóa một quy chế khác với quy chế mua bán bất động sản, quy chế mua bán chứng khoán hay các động sản vô hình khác…
Luật La Mã phân chia tài sản thành vật chất liệu và tài sản phi chất liệu – đó là các quyền. Và bản thân các quyền này được phân chia thành hai loại là các quyền thiết lập trên vật chất liệu (rights in rem) và các quyền có giá trị kinh tế đối với người khác (rights in personam). Bản thân vật chất liệu cũng được phân chia thành hai loại là bất động sản và động sản. Việc phân chia vật thành bất động sản và động sản dẫn tới nhiều hệ quả pháp lý khác nhau. Chẳng hạn, các vật quyền được phân biệt thành hai loại: có loại chỉ thiết lập trên bất động sản và có loại thiết lập trên cả bất động sản và động sản. Các quyền thiết lập trên bất động sản và các quyền được thiết lập trên động sản có sự khác nhau về chi tiết, ví dụ: chủ nợ dễ dàng sai áp và bán động sản để lấy nợ hơn đối với bất động sản; hệ thống đăng ký bất động sản dễ dàng được thiết lập hơn so với đăng ký động sản, đặc biệt đối với các quyền mà không bao gồm việc chiếm hữu tài sản.
Ngày nay, với sự xuất hiện nhiều loại tài sản mới như: chứng khoán, sở hữu trí tuệ v.v.. thì chủ nghĩa vật chất liệu trong luật tài sản đã được xem xét lại. Tuy nhiên vẫn có nhiều nền tài phán đã mượn chủ nghĩa vật chất liệu trong luật tài sản để áp đặt cho một số loại tài sản. Có quan niệm chất liệu hoá tài sản vô hình, chẳng hạn: mặc dù có sự tách bạch giữa quyền với hình thức vật chất (giấy tờ) chứng minh nó như trong trường hợp đối với cổ phần hoặc trái phiếu, nhưng quan niệm này vẫn gộp quyền vào các giấy tờ chứng minh sự tồn tại của nó4.
Quyền sở hữu trí tuệ thường được phân biệt thành một loại quyền riêng biệt phụ thuộc vào pháp luật. Nó không phải là quyền đối vật và cũng không phải là quyền đối nhân. TS. Nguyễn Ngọc Điện nhấn mạnh rằng đây là một quyền vô hình tuyệt đối5.
Vì vậy qua các luận giải này, có thể hiểu được tại sao Điều 128, BLDS Liên bang Nga đã phân chia tài sản thành hai loại căn bản là tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Và trong đó xếp tiền và giấy tờ có giá vào tài sản hữu hình, còn phân biệt sở hữu trí tuệ thành một loại tài sản riêng biệt. Các điều luật sau đó cùng chương của Bộ luật này diễn giải cụ thể hơn các phân loại tài sản, nhưng đặt trọng tâm vào chủ nghĩa vật chất liệu. Vì đã lựa chọn pháp điển hóa theo hướng hợp nhất luật dân sự và luật thương mại, nên nhiều tài sản đặc biệt trong thương mại cũng được Bộ luật này xếp vào các phân loại. Đặc biệt, Bộ luật này đã thể hiện chính sách quan hệ quốc tế trong việc lãnh thổ hóa tàu bay, tàu biển, tàu thủy nội địa và tàu vũ trụ. Tuy quan niệm này cần được nhìn nhận nghiêm túc khi nghiên cứu, nhưng Bộ luật này cho ta thấy một kinh nghiệm là, từng quy định cần phải có một ý đồ được dẫn dắt bởi một chủ thuyết, chứ không thể là một sự sao chép đơn thuần.
Tóm lại, phân loại tài sản là một nhu cầu khách quan, là linh hồn của khái niệm tài sản và là kỹ thuật pháp lý quan trọng của luật dân sự nói chung và luật tài sản nói riêng.
2. Nhìn lại quan niệm về quyền sở hữu và quan niệm về các vật quyền của Bộ luật Dân sự 2005
2.1. Quan niệm về quyền sở hữu
Gắn liền với tài sản là quyền sở hữu. Do đó, khi nói tới tài sản không thể không nói về quyền sở hữu. Một trong các vấn đề quan trọng của quyền sở hữu là tính chất và phạm vi hay nội dung của nó.
BLDS 2005 quy định:
“Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
Chủ sở hữu là cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác có đủ ba quyền là quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài sản” (Điều 164).
Định nghĩa này không chỉ cho biết quan niệm về quyền sở hữu, mà còn cho thấy quan niệm về chủ sở hữu của pháp luật Việt Nam hiện nay. Trước hết, cần phân tích một số ảnh hưởng của quan niệm này về quyền sở hữu tới các quy định pháp luật khác về giao dịch pháp lý.
BLDS 2005 có đưa ra định nghĩa: “Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán” (Điều 428). Trong khi đó Luật Thương mại 2005 định nghĩa: “Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận” (Điều 3, khoản 8). Đều là định nghĩa về hợp đồng mua bán, nhưng hai định nghĩa kể trên có sự khác biệt lớn về một vấn đề pháp lý quan trọng. Đó là: định nghĩa của BLDS 2005 không hề đề cập tới nghĩa vụ của người bán chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người mua mà chỉ đề cập tới nghĩa vụ của người bán “giao tài sản” cho người mua; trong khi định nghĩa của Luật Thương mại 2005 đề cập tới nghĩa vụ của người bán giao hàng hóa và chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua. Câu chuyện này cần được luận giải cẩn trọng, bởi nó không chỉ là sự không nhất quán đơn thuần của hệ thống pháp luật, mà còn liên quan tới quan niệm về quyền sở hữu.
Có ý kiến cho rằng định nghĩa nói trên của BLDS 2005 là định nghĩa về mua bán tài sản chứ không phải là định nghĩa về mua bán hàng hóa, nên có sự khác biệt. Hiểu đơn giản rằng hàng hóa cũng là tài sản, nhưng là một khái niệm hẹp hơn và được sử dụng trong luật thương mại. Hợp đồng mua bán tài sản và hợp đồng mua bán hàng hóa có thể khác nhau về đối tượng (cứ cho là thế), song không thể khác nhau về bản chất mua bán. Có sự bênh vực khác nói rằng cụm từ “giao tài sản” có nghĩa rộng bao hàm cả chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản. Sự bênh vực này khó chấp nhận được bởi tại Điều 463 và Điều 465, BLDS 2005 có các định nghĩa như sau: “Hợp đồng trao đổi tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó các bên giao tài sản và chuyển quyền sở hữu đối với tài sản cho nhau” và “Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý nhận”. Hợp đồng trao đổi tài sản khác biệt với hợp đồng mua bán ở chỗ thay vì nhận một khoản tiền khi chuyển giao quyền sở hữu tài sản, người chuyển giao nhận một tài sản khác. Còn đối với hợp đồng tặng cho thì thay vì nhận một lợi ích khi chuyển giao quyền sở hữu một tài sản, người chuyển giao không nhận gì. Vậy là trong hai loại hợp đồng này nhà làm luật Việt Nam đã đề cập đầy đủ việc giao tài sản và chuyển quyền sở hữu tài sản và đã phân biệt dứt khoát giữa “giao tài sản” và “chuyển quyền sở hữu tài sản”. Bản thân BLDS 2005, ngay sau định nghĩa hợp đồng mua bán, có quy định: nếu đối tượng của hợp đồng mua bán là vật thì vật phải được xác định rõ, còn nếu đối tượng của hợp đồng mua bán là quyền tài sản thì phải có giấy tờ hoặc bằng chứng khác chứng minh quyền đó thuộc sở hữu của người bán (Điều 429) và thời điểm chuyển giao quyền sở hữu tài sản mua bán là thời điểm giao tài sản. Điều đó có nghĩa là, nhà làm luật đã biết là cần phải chuyển quyền sở hữu tài sản trong mua bán và phân biệt với giao tài sản. Thế nhưng trong khi định nghĩa hợp đồng mua bán tài sản thì nhà làm luật lại quên mất vấn đề này hay nhà làm luật thể hiện quan niệm về quyền sở hữu được nêu trong Điều 164, BLDS 2005?
Định nghĩa khiếm khuyết này nếu không được giải thích kỹ lưỡng theo logic của cả Chương XVIII, Mục 1 của BLDS 2005 thì khó thấy được đặc trưng quan trọng của hợp đồng mua bán là việc bên bán có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên mua, còn bên mua phải trả giá cho việc nhận được quyền sở hữu tài sản đó. Nhược điểm thứ hai của định nghĩa này là vấn đề giao tài sản mua bán. Trong nhiều trường hợp mua bán, bên bán chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên mua, còn giao tài sản (với tính cách là vật) cho người khác. Ví dụ: Trong thuê tài chính, người cho thuê mua thiết bị từ người bán theo yêu cầu của người thuê, có nghĩa là người bán trong trường hợp này nhận tiền từ người cho thuê và chuyển giao quyền sở hữu thiết bị cho người cho thuê, nhưng giao thiết bị cho người thuê.
Có thể còn có ý kiến bênh vực cho định nghĩa hợp đồng mua bán của BLDS 2005 bằng cách viện dẫn định nghĩa hợp đồng mua bán tại Điều 1582 của BLDS Pháp bởi định nghĩa này cũng chỉ nói tới vấn đề giao vật mà không nói tới việc chuyển giao quyền sở hữu. Điều luật này định nghĩa: “Hợp đồng mua bán là sự thỏa thuận theo đó một bên có nghĩa vụ giao một vật và người kia có nghĩa vụ trả tiền cho vật ấy”. Nhưng sau ngay định nghĩa này, Điều 1583, BLDS Pháp khẳng định: “Việc mua bán được hoàn thành khi quyền sở hữu vật đương nhiên chuyển sang cho người mua sau khi đã thỏa thuận về vật bán và giá cả, tuy rằng vật chưa được giao và tiền chưa được trả”.
Pháp luật Anh quan niệm hợp đồng mua bán hàng hóa là “Một hợp đồng mà bởi nó người bán chuyển giao hoặc đồng ý chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa (the property in goods) cho người mua để nhận lại một khoản đối ứng bằng tiền mà được gọi là giá”. Trong định nghĩa này có đôi điều cần phải giải thích. Thuật ngữ property của người Anh (mà người Việt thường dịch ra tiếng Việt là tài sản) có nhiều nghĩa. Tác giả H. R. Light giải thích: Khi một người nói về tài sản (property) của mình, thì hẳn trong đầu anh ta nghĩ tới đất đai, hàng hóa và chứng khoán mà anh ta có và đang kiểm soát chúng; nhưng khi chúng ta nói một người có tài sản trên một vật (the property in a thing), thì có nghĩa là anh ta có toàn quyền sở hữu (the full rights of ownership) để phân biệt với việc chỉ có quyền chiếm hữu (possession) với vật đó. Ông còn nhấn mạnh, việc phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền chiếm hữu là vấn đề quan trọng. Sự phân biệt này được ông lược giảng giống với quan niệm của truyền thống Civil Law rằng, quyền chiếm hữu là vấn đề thực tế, còn quyền sở hữu là vấn đề thiết yếu của pháp luật6. (Có thể vì chưa hiểu tường tận lắm về thuật ngữ property này, nên có tác giả Việt Nam phê bình rằng, người Việt hiện nay gọi “intellectual property” là sở hữu trí tuệ là không đúng, mà cần phải gọi là “tài sản trí tuệ”7).
Vì nhận thức rằng quyền sở hữu đã được chuyển từ người bán sang người mua, trong khi hàng hóa vẫn có thể thuộc chiếm hữu của người bán, nên trong vụ Tarling v. Baxter (1827) tòa án Anh đã ra phán quyết quyền sở hữu hàng hóa đã được chuyển từ Baxter sang Tarling, nên Tarling phải gánh chịu tổn thất đối với hàng hóa. Vụ án này có các tình tiết như sau: Nguyên đơn và bị đơn thỏa thuận mua bán đống cỏ khô vào ngày 01 tháng 12; Việc trả tiền cho đống cỏ được thực hiện vào ngày 01 tháng 01 năm sau; Hai bên thỏa thuận rằng vẫn để đống cỏ tại ruộng của bị đơn cho tới ngày 01 tháng 05 mặc dù đã trả tiền; Trước ngày 01 tháng 05, đống cỏ bị cháy; Nguyên đơn đòi bồi thường8.
Giảng giải về Common Law, J. E. Smyth, D. A. Soberman, J. H. Telfer và R. Johanson nói: một hệ thống pháp luật phức tạp có sự phân biệt giữa hai khái niệm quyền chiếm hữu và quyền sở hữu mà hai quyền này trong các xã hội sơ khai xem là hòa trộn dựa trên sức mạnh vật lý của sự chiếm hữu. Các luật gia này cho biết sự phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền chiếm hữu là vấn đề pháp lý được ghi nhận trong pháp luật Anh9.
Các nước theo truyền thống Civil Law quan niệm quyền sở hữu bao gồm quyền sử dụng, quyền thu lợi và quyền định đoạt. Chẳng hạn: Điều 206, BLDS Nhật Bản quy định: “Chủ sở hữu có quyền, phụ thuộc vào các giới hạn của luật và các sắc lệnh, tự do sử dụng, thu lợi và định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình”; Điều 544, BLDS Pháp quy định: “Quyền sở hữu là quyền hưởng dụng và định đoạt tài sản một cách tuyệt đối, miễn là không sử dụng tài sản vào việc pháp luật cấm”; Điều thứ 462, BLDS Bắc Kỳ 1931 cũng có quy định tương tự; Điều 348, BLDS Tây Ban Nha quy định: “Quyền sở hữu là quyền hưởng dụng và quyền định đoạt tài sản mà không có giới hạn nào khác hơn giới hạn được thiết lập bởi luật”. Quan niệm về nội dung của quyền sở hữu như vậy thừa hưởng từ nội dung của quyền sở hữu theo Luật La Mã, bao gồm: (1) Usus (sử dụng vật), có nghĩa là thu được lợi ích một cách đơn giản từ việc có vật; (2) Fructus: (thu nhặt lợi ích từ vật), có nghĩa là thu nhặt bất kỳ thứ gì có được từ vật do bản chất của vật mang lại; (3) Abusus (định đoạt vật), có nghĩa là quyết định số phận của vật về mặt vật lý và pháp lý.
Việc chiếm hữu một vật chất liệu là cần thiết để một vật trở thành tài sản. Nhưng quyền chiếm hữu thường được xem là một quan hệ thực tế. Vì vậy, Điều 854, khoản 1, BLDS Đức quy định: “Quyền chiếm hữu một vật được thủ đắc bởi việc nắm quyền kiểm soát thực tế đối với vật”.
Quyền sở hữu là một vật quyền mẫu mực và trở thành trung tâm của luật dân sự, bởi quyền sở hữu là một quyền lớn nhất thiết lập trên tài sản thể hiện chủ quyền đối với tài sản mà không có quyền nào đứng trên nó và là cơ sở cho tất cả các vật quyền chính yếu khác. Bản chất của quyền sở hữu là độc quyền hay quyền loại trừ những người khác. Vì vậy, quyền loại trừ được xem là xương sống của quyền sở hữu10 ở tất cả các truyền thống pháp luật. Quyền này thường được làm bật lên trong sở hữu trí tuệ. Vì vậy, BLDS Đức định nghĩa về quyền sở hữu như sau: “Chủ sở hữu của tài sản có thể, trong chừng mực không trái với pháp luật hoặc quyền của những người thứ ba, hành xử với tài sản theo sự lựa chọn của mình và loại trừ những người khác từ bất kể một sự can thiệp nào. Chủ sở hữu của một con vật phải cân nhắc tới những quy tắc pháp lý đặc biệt về việc bảo vệ thú vật khi thực hiện quyền sở hữu của mình” (Điều 903).
Các quy định này không nói tới nội dung của quyền sở hữu nhưng nhấn mạnh tới nguyên tắc chủ sở hữu có toàn quyền theo ý chí của mình đối với tài sản thuộc sở hữu của mình và quyền loại trừ. Ngoài ra thiết lập nguyên tắc đặc biệt đối với bảo vệ động vật.
2.2. Quan niệm về các vật quyền khác vật quyền sở hữu
Điều 173, BLDS 2005 rụt rè đưa ra các quy định khó hiểu và bất cập sau:
“1. Người không phải là chủ sở hữu chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản không thuộc sở hữu của mình theo thỏa thuận với chủ sở hữu tài sản đó hoặc theo quy định của pháp luật.
2. Các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản bao gồm:
a) Quyền sử dụng đất;
b) Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề;
c) Các quyền khác theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
3. Việc chủ sở hữu chuyển quyền sở hữu tài sản cho người khác không phải là căn cứ để chấm dứt các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản đó quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Các quyền đối với tài sản của người không phải là chủ sở hữu được bảo vệ theo quy định tại Điều 261 của Bộ luật này.
5. Các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản phải đăng ký bao gồm quyền sử dụng đất, quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề theo thỏa thuận và các quyền khác theo quy định của pháp luật”.
Và Điều 261, BLDS 2005 được nói tới ở điều trên chỉ đề cập tới quyền sử dụng đất và quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề.
Các Điều luật này thể hiện ý đồ của nhà làm luật phân chia các vật quyền thành hai loại là các quyền trên tài sản của mình và các quyền trên tài sản của người khác. Song đáng tiếc là hai điều luật này lại không nói được đầy đủ các vật quyền mà chỉ tập trung nói tới quyền sử dụng đất và địa dịch theo nghĩa hẹp. Trong khi đó chẳng biết vô tình hay hữu ý mà Bộ luật Dân sự 2005 lại đề cập tới nhiều vật quyền hơn thế. Để thấy rõ các bất cập của hai điều luật này cần giới thiệu quan niệm về vật quyền từ trước tới nay trên thế giới.
Quyền sở hữu là vật quyền thống trị và làm cơ sở cho việc phân chia và xác định các vật quyền khác mà các vật quyền này thường được gọi là các chi phân của quyền sở hữu. Được gọi là chi phân của quyền sở hữu bởi chúng là quyền sở hữu bị tiết giảm đi thành tố nào đó. Các vật quyền này được trao cho người khác không phải là chủ sở hữu của tài sản. Vì vậy, khi một vật quyền được tạo lập thì lập tức xuất hiện hai loại quyền cùng tồn tại trên một vật – đó là quyền sở hữu của chủ sở hữu và quyền của người khác trên vật đó, có nghĩa là chi phân của quyền sở hữu được thiết lập khi có hai vật quyền cùng tồn tại trên một đối tượng. Quyền sở hữu còn lại gọi là quyền sở hữu tối thiểu bởi nó đã bị cắt đi một phần bởi chi phân của quyền sở hữu. Và khi chi phân của quyền sở hữu chấm dứt thì quyền sở hữu lại trọn vẹn.
Vật quyền được thiết lập trên vật cụ thể đang tồn tại và nói tới mối quan hệ giữa người với vật, có nghĩa là người có vật quyền có quyền trực tiếp và tự do tiếp cận vật mà mình có quyền để thực hiện quyền đó.
Nếu vật quyền không phải là quyền sở hữu thì chủ sở hữu là người bị động; do đó, người có vật quyền chịu rủi ro trong phạm vi quyền mình có. Người có vật quyền có quyền yêu cầu toà án bảo vệ quyền của mình chống lại sự xâm phạm của người khác và được ưu tiên hơn những người thủ đắc sau với điều kiện đã đăng ký (nếu là bất động sản)11.
Vì các lẽ trên, BLDS của Tiểu bang Louisiana có quy định tổng quát như sau:
“Điều 476. Các quyền đối với tài sản
Một người có thể có các quyền khác nhau đối với tài sản:
1. Quyền sở hữu;
2. Dịch quyền thuộc người (personal servitudes) và dịch quyền thuộc vật (predial servitudes); và
3. Các vật quyền khác theo quy định của pháp luật”.
Vật quyền còn có thể được chia thành: Vật quyền chính yếu như quyền sở hữu…; và vật quyền phụ thuộc có chức năng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, có đặc điểm là không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào quyền đối nhân.
Các vật quyền có thể phát sinh bởi ý chí (hợp đồng, di chúc) và ngoài ý chí (chiếm giữ, phụ thêm và thủ đắc do thời hiệu).
Tóm lại, BLDS 2005 đã không đưa ra được quan niệm tài sản dựa trên sự phân loại thích hợp; quan niệm về quyền sở hữu khác biệt so với thế giới và không nhìn nhận đầy đủ các vật quyền – các quyền xuất hiện một cách khách quan trong đời sống dân sự.
3. Định hướng cải cách các quy định về tài sản và quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự 2005
1. Có lẽ, xây dựng lại BLDS thay thế BLDS 2005 là mong muốn lớn của nhiều luật gia Việt Nam hiện nay. Vì vậy, trước hết cần xây dựng mô hình BLDS mà tại đó phải phân loại và mô tả đầy đủ các vật quyền, có nghĩa là mô tả quan hệ giữa người và vật phát sinh một cách khách quan. Từ xưa tới nay người ta xem các vật quyền là phạm vi truyền thống của luật tài sản. Do đó không thể lảng tránh câu chuyện này. Kinh nghiệm Trung Quốc cho thấy, các vật quyền (ngoài quyền sở hữu) hiện nay được xem xét trực diện trong Đạo luật về tài sản mới ban hành 2007. Tuy nhiên, trong việc xây dựng mô hình BLDS phải lựa chọn được một chủ thuyết về pháp điển hóa luật dân sự mà trong đó có chủ thuyết về luật tài sản.
2. Trong mô hình BLDS tương lai cần tính đến việc thay đổi tận gốc quan niệm về quyền sở hữu và tách quyền chiếm hữu ra khỏi nội dung của quyền sở hữu cho phù hợp với giao lưu dân sự và kinh tế, thương mại ngày nay. Gắn với chúng là việc thiết lập quy chế cho ba loại tài sản: tài sản chung, tài sản công và tài sản tư, trong đó tài sản công do nhà nước đại diện chủ sở hữu, còn tài sản chung có quy chế bảo vệ và khai thác thích hợp.
3. Xuất phát từ các thành tố của quyền sở hữu mà loài người hiện nay thừa hưởng từ Luật La Mã, nên chia các quyền trên tài sản của người khác thành dịch quyền thuộc người bao gồm quyền hưởng dụng (trên cả động sản và bất động sản), quyền ngụ cư, quyền sử dụng; và dịch quyền thuộc vật.
(1) Robert W. Emerson, John W. Hardwick, Business Law, Barron’s educational series Inc., USA, 1997, p. 408.
(2) John G. Sprankling, Understanding Property Law, Lexis Nexis, New York, 2000, p.2; Bruce Ziff, Principles of Prop.
(3) Luật Thương mại 2005 của Việt Nam đã xem hầu hết các loại tài sản là hàng hóa, kể cả bất động sản và các tài sản vô hình (xem định nghĩa hàng hóa của đạo luật này).
4) John E. C. Brierley, Roderick A. Macdonald, Quebec Civil Law- An Introduction to Quebec Private Law, Emond Montgomery Publications Limited, Toronto, Canada, 1993, pp. 274- 275.
(5) Nguyễn Ngọc Điện, Nghiên cứu về tài sản trong luật dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 1999, tr. 70.
(6) H. R. Light, The Legal Aspects of Business and General Principles of Law, Sir Isaac Pitman & sons LTD, London, 1967, p. 30.
(7) Phạm Duy Nghĩa, Chuyên khảo luật kinh tế, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr. 181- 182
(8) H. R. Light, The Legal Aspects of Business and General Principles of Law, Sir Isaac Pitman & sons LTD, London, 1967, p. 242.
(9) J. E. Smyth, D. A. Soberman, J. H. Telfer, R. Johanson, Australian business law, Prentice- Hall of Australia Pty. Ltd., Australia, 1980
(10) Bruce Ziff, Principles of Property Law, Second Edition, Carswell, 1996, p. 6.
(11) John E. C. Brierley, Roderick A. Macdonald, Quebec Civil Law- An Introduction to Quebec Private Law, Emond Montgomery Publications Limited, Toronto, Canada, 1993, p. 283.
Link nguồn để copy bài viết: Link
No comments:
Post a Comment