Đề bài.
Như chúng ta đã biết, đạo luật hình sự giữ vai trò rất quan trọng trong đấu tranh và phòng chống tội phạm, bởi vì chỉ có đạo luật hình sự mới quy định hành vi bị coi là tội phạm và hình phạt có thể áp dụng đối với người mà đã gây ra tội đó. Tình huống sau đây của em là một trong những ví dụ minh họa cho vấn để trên:
M (nữ) cùng hai tên H và Q rủ L là một cô gái 17 tuổi cùng đi dự sinh nhật M tại một nhà nghỉ có phòng hát karaoke. Cả bốn cùng uống rượu, nhảy múa, H và Q còn pha thuốc kích dục vào đồ uống của mình. Một lát sau M rủ H là bạn trai của mình lên phòng nghỉ và đề nghị L cũng vào phòng nghỉ thành một cặp với Q. Tuy nhiên L từ chối và đòi về. M, H và Q dùng vũ lực kéo L lên phòng nghỉ. Thấy L vẫn tiếp tục nằng nặc từ chối M đã rút con dao đặt lên bàn và bảo “Mày thích gì? Có chiều Q không thì bảo?” L sợ quá đành đồng ý ở lại cùng Q. Sau đó Q đã thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của L.
Hỏi:
1. Tội hiếp dâm có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình thức? Trong trường hợp trên tội hiếp dâm đã hoàn thành chưa? Tại sao? (2 điểm)
2. Trong trường hợp này M có phải chịu TNHS về tội hiếp dâm không? Tại sao? (2 điểm)
3. Có ý kiến cho rằng trong trường hợp phạm tội này H chỉ có lỗi cố ý gián tiếp, còn Q có lỗi cố ý trực tiếp. Hãy bình luận ý kiến trên. (1 điểm)
4. Nếu sau khi M và H bỏ đi, L khóc lóc van xin Q tha cho mình và Q đã mủi lòng nên không thực hiện hành vi giao cấu với L thì Q có phải chịu TNHS về tội hiếp dâm không? Tại sao?
Bài làm.
1. Tội hiếp dâm có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình thức? Trong trường hợp trên tội hiếp dâm đã hoàn thành chưa? Tại sao?
a. Tội hiếp dâm có cấu thành tội phạm vật chất hay cấu thành tội phạm hình thức?
Tội hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc dùng thủ đoạn khác để giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ, được quy định tại điều 111 BLHS( Bộ Luật hình sự).
Trong quá trình áp dụng pháp luật xử lí đối với các trường hợp phạm tội “hiếp dâm” được quy định tại Điều 111 Bộ Luật hình sự thì có rất nhiều ý kiến khác nhau về việc xác định đây là tội phạm có cấu thành vật chất, hay hình thức. Để xác định tội hiếp dâm thuộc cấu thành tội phạm nào thì cần hiểu rõ thế nào là cấu thành tội phạm vật chất, cũng như hình thức.
-Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm trong đó có các dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả.
-Cấu thành tội phạm hình thức là cấu thành tội phạm trong đó chỉ có một dấu hiệu của mặt khách quan là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Trong cấu thành cơ bản của loại tội này được quy định tại Điều 111 Bộ luật hình sự thì dấu hiệu về mặt hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc cho nên nó là cấu thành tội phạm hình thức. Theo mô tả trong luật thì chỉ cần người nào có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể chống cự được của nạn nhân như bị say, bị ốm hay bị tâm thần dể thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân, thì kể cả tội chưa đạt thì cũng vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm.
Hơn nữa tội hiếp dâm thuộc nhóm các tội xâm phạm tới nhân phẩm, danh dự là những hành vi cố ý xâm phạm tới quyền được tôn trọng về danh dự, nhân phẩm. Hậu quả của hành vi này là gây ra những thiệt hại thể hiện dưới dạng tinh thần đối với nạn nhân. Hậu quả này không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, cho nên đây là tội có cấu thành tội phạm hình thức.
Như vậy tội hiếp dâm có cấu thành tội phạm hình thức.
b. Trong trường hợp trên tội hiếp dâm đã hoàn thành chưa? Tại sao?
Trong tình huống này sau khi M, H và Q dùng vũ lực kéo L lên phòng nghỉ, L tiếp tục phản kháng bằng cách tiếp tục từ chối, thì M đã rút dao đặt lên bàn và đe dọa L, L sợ quá đành đồng ý ở lại cùng Q, sau đó Q đã thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của L.
Để xác định được trong tình huống trên tội hiếp dâm đã hoàn thành hay chưa thì cần hiểu được khái niệm thế nào là tội phạm hoàn thành.
Tội phạm hoàn thành là trường hợp hành vi phạm tội đã thỏa mãn hết các dấu hiệu được mô tả trong cấu thành tội phạm, nghĩa là khi tội phạm hoàn thành thì hành vi phạm tội đã có đủ các dấu hiệu phản ánh đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi đó.
-Đối với tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất hoàn thành khi người phạm tội đã gây ra hậu quả của tội phạm. Ví dụ như tội giết người thì tội phạm hoàn thành khi mà người phạm tội gây ra cái chết cho nạn nhân.
-Đối với tội phạm có cấu thành hình thức thì tội phạm hoàn thành khi người phạm tội đã thực hiện được hành vi phạm tội, như trong trường hợp này thì người phạm tội chỉ cần dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực...để giao cấu với nạn nhân thì tội phạm được coi là hoàn thành.
Như vậy trong tình huống này tội hiếp dâm đã hoàn thành không những về mặt pháp lí- tức là tội phạm đã thỏa mãn hết các dấu hiệu của cấu thành tội phạm, cụ thể ở tình huống này Q đã có hành vi là cùng M và H dùng vũ lực kéo L lên phòng nghỉ và sau khi M dùng dao đe dọa và L sợ quá đành đồng ý ở lại với Q thì Q đã thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn của L. Có thể thấy trong tình huống này không những M, H và Q đã dùng vũ lực để bắt L lên phòng nghỉ mà M còn dùng dao đe dọa làm cho sự phản kháng của nạn nhân hoàn toàn bị tê liệt và mục đích cuối cùng là hành vi giao cấu trái với ý muốn của nạn nhân xảy ra.
Tội hiếp dâm đòi hỏi người phạm tội phải có hành vi giao cấu với nạn nhân, nhưng không đòi hỏi hành vi giao cấu đó phải kết thúc về mặt sinh lí. Vậy ở tình huống trên tội hiếp dâm đã hoàn thành.
2. Trong trường hợp này M có phải chịu TNHS về tội hiếp dâm không? Tại sao?
Trong tình huống này L là cô gái 17 tuổi cho nên, theo khoản 4 Điều 111 Bộ Luật hình sự thì: “ phạm tội hiếp dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ năm năm tới mười năm”. Do vậy đây thuộc loại tội rất nghiêm trọng, hơn nữa đây lại là tội được gây ra bởi lỗi cố ý, cho nên nếu đủ từ 14 trở lên thì M sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự, được quy định tại Điều 12 Bộ Luật hình sự: “ Người đủ từ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Đặt giả thiết về các trường hợp độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của M.
-Trường hợp thứ nhất nếu M dưới 14 tuổi thì M sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đồng phạm hiếp dâm, cũng như bất cứ một loại tội phạm nào.
-Trường hợp hai, nếu M đủ 14 trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi thì M sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
-Trường hợp ba là khi M đủ từ 16 tuổi trở lên thì M sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi loại tội phạm.
Như vậy thì có thể thấy nếu như M chỉ cần đủ 14 tuổi trở lên thì đã phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đồng phạm hiếp dâm, với vai trò là người giúp sức.
Theo quy định tại Điều 20 của Bộ Luật hình sự: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”.Người đồng phạm phải tham gia vào tội phạm với một trong những hành vi:
-Hành vi thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người thực hành.
-Hành vi tổ chức thực hiện tội phạm. Người có hành vi này gọi là người tổ chức.
-Hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người xúi giục.
-Hành vi giúp sức người khác thực hiện tội phạm. Người có hành vi này được gọi là người giúp sức.
Xét thấy chủ thể của tội hiếp dâm là chủ thể đặc biệt, người thực hiện hành vi phạm tội của tội này chỉ có thể là nam giới. Nữ giới chỉ có thể tham gia trong vụ đồng phạm hiếp dâm với vai trò là người xúi giục, giúp sức hay tổ chức.
Cụ thể trong tình huống này thì M(nữ) phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đồng phạm hiếp dâm với vai trò là người giúp sức. Bởi vì M, H có hành vi cùng Q dùng vũ lực kéo L lên phòng nghỉ, và sau đó L vẫn tiếp tục phản kháng bằng cách tiếp tục nằng nặc đòi về thì M đã rút dao đặt lên bàn và bảo “Mày thích gì? Có chiều Q không thì bảo?” do vậy L sợ quá lên đã phải ở lại cùng Q.
Với tình huống này H cũng phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đồng phạm hiếp dâm với vai trò là người giúp sức, vì có hành vi dùng vũ lực giúp sức cùng M và Q kéo L lên phòng nghỉ.
Còn Q sẽ chịu trách nhiệm hình sự về tội đồng phạm hiếp dâm với vai trò là người thực hành. Vì Q đã tự mình thực hiện hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm.
Như vậy, trong tình huống trên thì M phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đồng phạm hiếp dâm với vai trò người giúp sức, H cũng là người giúp sức, còn Q sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự trong vụ đồng phạm hiếp dâm này với vai trò là người thực hành.
3. Có ý kiến cho rằng trong trường hợp phạm tội này H chỉ có lỗi cố ý gián tiếp, còn Q có lỗi cố ý trực tiếp. Hãy bình luận ý kiến trên.
Để biết được trong trường hợp này H và Q có lỗi cố ý gián tiếp hay lỗi cố ý trực tiếp thì cần phải hiểu được rõ thế nào là lỗi cố ý trực tiếp và thế nào là lỗi cố ý gián tiếp.
Lỗi cố ý trực tiếp là lỗi của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả đó xảy ra (Điều 9 Bộ Luật hình sự).
Về lí trí: thì người phạm tội nhận thức rõ được hành vi của mình là gây nguy hiểm cho xã hội và thấy trước được hậu quả của hành vi đó.
Về ý chí: người phạm tội mong muốn cho hậu quả phát sinh, tức là hậu quả cảu hành vi phạm tội do người phạm tội gây ra hoàn toàn phù hợp với mục đích và mong muốn của người phạm tội.
Lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước được hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra( Điều 9 Bộ Luật hình sự).
Về lí trí: của lỗi cố ý gián tiếp thì không có gì khác so với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội đã nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó.
Về ý chí: khác với lỗi cố ý trực tiếp người phạm tội không mong muốn hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra, nhưng lại có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra, và hậu quả xảy ra đó thì không phù hợp với mục đích của người phạm tội.
Vậy xét thấy trong tình huống này thì H không thể có lỗi cố ý gián tiếp mà phải là cố ý trực tiếp. Xét về mặt lí trí, thì cả H, M và Q đều nhận thức rõ được hành vi của mình là gây nguy hiểm cho xã hội. Xét về ý chí thì cả 3 đối tượng trên đều mong muốn cho hậu quả sẽ xảy ra, cho nên H không thể mang lỗi cố ý gián tiếp. Khi M và H, Q dùng vũ lực kéo L lên phòng nghỉ thì mục đích của 3 người này đã được xác định rất rõ ràng.
Như vậy trong tình huống này cả H và Q đều có lỗi cố ý trực tiếp.
4. Nếu sau khi M và H bỏ đi, L khóc lóc van xin Q tha cho mình và Q đã mủi lòng nên không thực hiện hành vi giao cấu với L thì Q có phải chịu TNHS về tội hiếp dâm không? Tại sao?
Giả thiết được đặt ra là sau khi M và H bỏ đi, L đã khóc lóc van xin Q tha cho mình, Q mủi lòng cho nên đã không thực hiện hành vi giao cấu với L thì Q sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm.
Theo quy định tại Điều 19 của Bộ Luật hình sự: “ Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự ý mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này”.
Theo luật hình sự Việt Nam thì tội phạm tự ý nửa chừng chấm dứt phải thảo mãn các dấu hiệu sau:
-Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải xảy ra khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc ở giai đoạn chưa hoàn thành. Như vậy thì có thể thấy tự ý nửa chừng chấm dứt phạm tội chỉ có ý nghĩa khi tội phạm đang ở giai đoạn chuẩn bị hoặc chưa hoàn thành, còn khi tội phạm đã hoàn thành thì không thể có tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội vì khi đó hành vi phạm tội đã có đầy đủ những đặc điểm thể hiện tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện.
-Việc chấm dứt không thực hiện tiếp tội phạm phải là tự nguyện và dứt khoát. Tức là khi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải hoàn toàn là do động lực bên trong chi phối chứ không phải do những tác động trở ngại khách quan bên ngoài. Và khi đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội phải thể hiện rõ việc từ bỏ hẳn ý định phạm tội chứ không phải dùng những thủ đoạn khác để tiếp tục phạm tội.
Trong giả thiết này thì có thể thấy việc Q không thực hiện hành vi giao cấu với L là hoàn toàn tự nguyện, không hề bị bất kì yếu tố khách quan bên ngoài nào chi phối. Và đây là việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đang ở giai đoạn chuẩn bị cho nên Q sẽ khôg phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm.
Đặt trường hợp sau khi M, H và Q kéo L lên phòng nghỉ, và L tiếp tục nằng nặc từ chối và đòi về, M rút dao đặt lên bàn đe dọa, sau đó L sợ quá đành phải đồng ý ở lại với Q, và sau khi hai đối tượng kia bỏ đi L khóc lóc, van xin Q tha cho mình, Q đã mủi lòng không thực hiện hành vi giao cấu với L nữa, nhưng trong khi dùng vũ lực kéo L lên phòng mà M, H và Q đã gây ra thương tích cho L nếu đủ các yếu tố cấu thành tội phạm của tội cố ý gây thương tích theo Điều 104 của Bộ Luật hình sự thì Q tuy không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm, nhưng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Vậy trong giả thiết này thì Q không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm.
Kết luận.
Các tội phạm thuộc nhóm tội xâm hại tới tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người là những hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trong xã hội hiện nay thì số các vụ án về hiếp dâm đối với nạn nhân là phụ nữ, trẻ vị thành niên, trẻ em gái đang ngày càng ra tăng. Phải chăng chế tài cũng như hình phạt của phát luật với loại tội này còn quá nhẹ nhàng? Hậu quả của những vụ án này sẽ là những vết thương lớn cho nạn nhân cả về thể xác lẫn tâm hồn. Bởi vậy đấu tranh và phòng chống loại tội phạm này không còn là trách nhiệm của riêng cá nhân hay tổ chức nào nữa mà nó là nhiệm vụ chung của toàn xã hội.
Danh mục tài liệu tham khảo.
1.Giáo trình luật hình sự Việt Nam tập I,NXB Công an nhân dân, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2007.
2.Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 ( có sửa đổi bổ sung năm 2009)
3. Mô hình Luật hình sự Việt Nam, các bảng hệ thống và sơ đồ của GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, NXB Công an nhân dân Hà Nội, năm xuất bản 2010.
Cảm ơn bạn Đắc Liễu đã chia sẻ tài liệu này!
No comments:
Post a Comment