Bài tập nhóm tháng 2 môn Luật Bình đẳng giới.
Đề bài:
Vai trò của gia đình trong việc nhận thức và thực hiện bình đẳng giới hiện nay ở Việt Nam.
1. VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC NHẬN THỨC VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI HIỆN NAY Ở VIỆT NAM.
Bình
đẳng giới là một vấn đề không mới trong đời sống xã hội hiện nay nhưng
không phải ai cũng có nhận thức đúng đắn về vấn đề này. Việc thực hiện
bình đẳng giới phải đi từ nhận thức đến hành động, chính vì thế việc
nhận thức những vấn đề liên quan đến bình đẳng giới là rất cần thiết.
Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội; trong cuộc sống con người
tham gia vào các hoạt động sống như lao động, học tập và từ đó hình
thành nhân cách. Và gia đình chính là ngôi trường đầu tiên đào tạo, hình
thành nhận thức của con người về mọi lĩnh vực của xã hội, trong đó có
bình đẳng giới. Gia đình có một vai trò quan trọng trong việc hình thành
những nhận thức, thái độ về các quan hệ giới, đồng thời cũng là nơi
diễn ra quá trình xã hội hoá cá nhân bởi vậy có thể nói rằng gia đình là
một xã hội thu nhỏ. Mỗi một hành vi, một thái độ của mỗi thành viên
trong gia đình về vấn đề bình đẳng giới đều được truyền từ đời này sang
đời khác, nó cũng ăn sâu “thâm căn cố đế” vào tiềm thức của thế hệ sau,
rất khó thay đổi. Chính vì vậy việc nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới
có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện và tiến tới bình đẳng
giới thực chất. Trong công tác thực hiện bình đẳng giới chúng ta không
thể không nhắc đến vai trò của gia đình – tế bào của xã hội, trước hết
đó là trong việc nhận thức về bình đẳng giới.
1.1. Gia đình có vai trò quan trọng giúp các thành viên trong gia đình nhận thức đúng đắn về các khái niệm của Luật bình đẳng giới.
Để nhận thức đúng về bình đẳng giới trước hết phải hiểu đúng các khái
niệm liên quan đến nó như: giới, giới tính, vai trò giới...từ đó rút ra
thái độ ứng xử của mình trong quan hệ giới. Luật bình đẳng giới năm 2006
đã đưa ra những khái niệm về giới, giới tính và bình đẳng giới tại
khoản 1, 2, 3 Điều 5:
" 1. Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ xã hội.
2. Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam, nữ.
3.
Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của
cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát
triển đó."
Việc quy định chi tiết như trên là bước tiến quan trọng trong việc thực
hiện bình đẳng giới bởi nó sẽ giúp ích rất lớn trong công tác tuyên
truyền, giáo dục về bình đẳng giới. Vấn đề đặt ra là gia đình Việt Nam
ngày nay đã được trang bị đủ những kiến thức về bình đẳng giới hay chưa?
Câu hỏi này rất khó trả lời bởi điều kiện kinh tế xã hội của chúng ta
đã có sự thay đổi theo hướng tích cực nhưng vẫn còn nhiều vùng khó khăn
,đại bộ phận người dân chưa được trang bị những kiến thức nền tảng về
sinh học, về giới và các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới.
Bất cứ ai cũng được sinh ra và lớn lên trong một gia đình. Gia đình bao
gồm những người sống chung dưới một mái nhà, ăn chung một bếp, có lợi
ích kinh tế chung và có trách nhiệm với nhau trong cuộc sống. Gia đình
vừa là nơi đáp ứng nhu cầu riêng tư vừa thực hiện chức năng phát triển
nòi giống và là trường học đầu tiên hình thành, phát triển nhân cách con
người.
Trong mỗi gia đình vai trò của cha mẹ có vị trí quan trọng. Bên cạnh
quan hệ cha mẹ - con cái còn có quan hệ vợ chồng. Đây là quan hệ cơ bản,
đan xen giữa khía cạnh tự nhiên – sinh học, kinh tế và tâm lý đạo đức.
Văn hóa trong gia đình nói chung, quan hệ vợ chồng nói riêng đều có sự
ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển nhân cách của các
thành viên trong gia đình. Bầu không khí tâm lý – đạo đức của gia đình
tác động trực tiếp đến nếp nghĩ, lối sống của trẻ. Mọi xung khắc của các
cá nhân trong gia đình, nhất là giữa bố và mẹ, đều ảnh hưởng đến con
cái. Trong nếp nghĩ của trẻ nhỏ luôn lưu giữ hình dáng, lời ăn tiếng nói
của cha mẹ.
Giáo dục con cái không thể chỉ bằng lời nói mà phải
bằng những công việc cụ thể, mọi hành vi, thái độ, lối sống của người
lớn có có tác động trực tiếp tới việc hình thành, phát triển nhân cách
của trẻ.
Chính
vì vậy, trong một gia đình mà người cha hoặc người mẹ hoặc cả hai có
nhận thức đúng đắn về những vấn đề liên quan tới giới, giới tính, vai
trò giới và đặc biệt là nhận thức đúng đắn về bình đẳng giới trong cách
đối xử với nhau và đối xử với con cái sẽ có những biểu hiện quan tâm,
chia sẻ trong công việc, và điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới nhận
thức của những đứa trẻ trong gia đình. Với kiến thức, những nhận thức
đúng đắn về bình đẳng giới thì tất yếu trong cách giáo dục, dạy con cái
của họ sẽ ít nhiều thể hiện điều này. Chẳng hạn như đối xử với con trai
và con gái như nhau trong việc thực hiện quyền học tập của chúng, trong
phân công lao động trong gia đình, dạy các con phải biết giúp đỡ chia sẻ
công việc với nhau không phân biệt trai gái…Hay với những kiến thức của
mình về bình đẳng giới, những bậc cha mẹ có thể trực tiếp giáo dục cho
con những kiến thức về giới, giới tính, cách hiểu đúng đắn về bình đẳng
giới…
Tóm
lại, tất cả những gì diễn ra trong gia đình, cách đối xử bình đẳng, sự
quan tâm chia sẻ trong công việc giữa cha, mẹ với nhau; cách đối xử bình
đẳng của cha mẹ đối với con trai, con gái; sự giúp đỡ, chia sẻ nhau
trong công việc, học tập giữa các anh, chị, em trong gia đình; đặc biệt
là sự giáo dục của cha, mẹ trong việc truyền đạt những kiến thức về bình
đẳng giới cho con cái thì đều ảnh hưởng trực tiếp tới nhận thức của
chúng.
1.2.
Bên cạnh việc nhận thức đúng về các khái niệm liên quan đến bình đẳng
giới, vai trò của gia đình trong việc nhận thức về bình đẳng giới còn
thể hiện trong việc đẩy lùi, dần xoá bỏ những định kiến giới còn tồn tại
trong xã hội.
Khoản 4 Điều 5 Luật Bình đẳng giới quy định: “Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò, năng lực của nam hoặc nữ”.
Việt Nam là một đất nước nông nghiệp, bị ảnh hưởng sâu sắc bởi hệ tư
tưởng Nho giáo phong kiến, do đó định kiến giới tồn tại phổ biến và nặng
nề trong đời sống xã hội. Trình độ dân trí thấp cùng với đời sống nghèo
nàn, lạc hậu là điều kiện cho định kiến giới tồn tại và ảnh hưởng sâu
sắc tới hệ tư tưởng, nhận thức của các gia đình Việt Nam. Định kiến giới
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác đã ăn sâu vào tiềm thức của
mỗi con người ở các vùng, miền, dân tộc với các mức độ khác nhau gây nên
hiện tượng bất bình đẳng giới. Gia đình là một xã hội thu nhỏ là một
thể chế quan trọng đóng vai trò là một yếu tố tác động trực tiếp và
thường xuyên tới việc bảo đảm bình đẳng giới. Chính vì lẽ đó, đảm bảo
bình đẳng giới trong gia đình có ý nghĩa đối với việc hình thành nhận
thức và hành động vì sự bình đẳng giới của mỗi cá nhân. Để đảm bảo thực
hiện bình đẳng giới thì một trong những vai trò rất quan trọng của gia
đình là phải nhận thức được về các định kiến giới đang tồn tại trong đời
sống xã hội. Từ đó gia đình sẽ tiến tới xoá bỏ các định kiến giới, hình
thành những nhận thức mới đúng đắn về giới, đảm bảo thực hiện bình đẳng
giới.
Gia
đình có vai trò quan trọng trong việc nhận thức về các định kiến giới.
Các thành viên trong gia đình đặc biệt là thế hệ trước như ông bà, cha
mẹ phải có nhận thức đúng về vai trò, vị thế của nam giới và nữ giới,
tránh phân biệt giới dựa trên cơ sở sự khác biệt về giới tính. Nhận thức
của ông bà, cha mẹ trong gia đình có ảnh hưởng sâu sắc tới nhận thức
của con cái. Bởi vậy, các thành viên lớn tuổi trong gia đình cần tránh
có những nhận xét, đánh giá thiếu toàn diện, phiến diện, thiên lệch dẫn
đến cách nhìn tiêu cực về vị thế, vai trò, năng lực của nam, nữ. Khi có
sự đánh giá không đúng về vai trò giới tức là có định kiến giới trong
gia đình, điều này sẽ hạn chế khả năng của các cá nhân trong việc thực
hiện các quyền của mình cũng như thụ hưởng các lợi ích.
Có rất nhiều định kiến giới đang tồn tại trong cuộc sống. Trong gia
đình tư tưởng đề cao vai trò của người đàn ông, hạ thấp vai trò, vị thế
của người phụ nữ là phổ biến. Quan niệm chung của nhiều người là trong
gia đình người chồng giữ vai trò lãnh đạo mọi vấn đề của cuộc sống gia
đình là điều đương nhiên. Những việc nội trợ là việc nhẹ không tạo ra
thu nhập cho cuộc sống chung của gia đình, người chồng là người chủ chốt
kiếm ra tiền nên họ là chủ gia đình. Tư tưởng trọng nam khinh nữ, gia
trưởng tồn tại trong suốt thời kì phong kiến hiện nay vẫn còn ảnh hưởng
nặng nề tới suy nghĩ, nhận thức không chỉ của nam giới mà cả những người
phụ nữ trong gia đình Việt Nam. Đặc biệt định kiến giới tồn tại nặng nề
ở những gia đình vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, khó khăn.
Định kiến giới là một tập hợp các đặc điểm mà một nhóm người, một cộng
đồng cụ thể nào đó gán cho nam giới hay phụ nữ. Người ta hay cho rằng
phụ nữ không đủ mạnh để làm lãnh đạo, hay nam giới không có khả năng
chăm sóc con cái. Một trong những định kiến giới biểu hiện khá rõ là gắn
phụ nữ với vai trò gia đình, coi việc nội trợ, chăm sóc gia đình nuôi
dạy con cái là của phụ nữ. Đáng chú ý là hiện nay nhiều người đang cổ
suý cho tư tưởng đưa phụ nữ quay trở về với gia đình. Từ suy nghĩ đó
nhiều phụ nữ, trẻ em gái bị hạn chế trên con đường học tập lao động,
phấn đấu và vươn lên trong sự nghiệp, giảm khả năng đóng góp nhiều hơn
về sức lực và trí tuệ cho xã hội. Khi gia đình gặp khó khăn về kinh tế,
không thể cho cả con trai và con gái đi học, định kiến giới trọng nam
khinh nữ sẽ ảnh hưởng tới việc quyết định cho trẻ em trai đi học, còn
trẻ em gái ở nhà lao động giúp việc cho gia đình. Hiện tượng này khá phổ
biến ở các vùng nông thôn, dân tộc thiểu số miền núi. Gốc rễ sâu xa của
hiện tượng này có phần bắt nguồn từ định kiến giới. Bởi vậy, ông bà,
cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình cần phải có nhận thức đúng
đắn về định kiến giới, nhận thức được những thái độ, quan điểm tiêu cực
về vai trò, vị thế của nam và nữ. Từ đó định hướng đúng đắn về mặt nhận
thức cho con cháu về vai trò của từng giới trong gia đình cũng như trong
xã hội. Những thành viên lớn tuổi trong gia đình cần thiết phải có sự
giảng giải cho con cháu hiểu biết và nhận thức được các định kiến giới
đang tồn tại trong gia đình và xã hội cũng như những hậu quả tiêu cực
xuất phát từ định kiến giới. Từ đó các thành viên trong gia đình sẽ nhận
thức được đâu là định kiến giới và có những hiểu biết đúng đắn về giới
từ đó tiến tới xoá bỏ những định kiến giới. Hơn nữa định kiến giới là hệ
thống thái độ tiêu cực được hình thành một cách lâu dài, có tính chất
cố hữu, bảo thủ thường ăn sâu bám rễ trong đời sống xã hội nên các
thành viên trong gia đình phải có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị thế,
năng lực của từng giới trong từng hoạt động của đời sống gia đình cũng
như ngoài xã hội, xoá bỏ được định kiến giới tạo nên nhận thức và thói
quen suy nghĩ mới về giới. Nhận thức và xoá bỏ định kiến giới trong gia
đình là tiền đề xây dựng nhận thức đúng đắn về giới và xoá bỏ định kiến
giới trong xã hội.
Tóm
lại gia đình là cái nôi văn hoá đầu tiên của mỗi người, vậy nên gia
đình có vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành nhân cách cũng
như nhận thức của mỗi người về mọi lĩnh vực, mọi khía cạnh của đời sống
xã hội trong đó có vấn đề về bình đẳng giới. Ảnh hưởng từ gia đình về
vấn đề bình đẳng giới là ảnh hưởng trực tiếp và có khả năng tác động
mạnh mẽ tới nhận thức của mỗi thành viên trong gia đình. Đây sẽ là những
nhận thức mang tính chất nền tảng để họ đón nhận những tri thức mới từ
những môi trường khác. Từ nhận thức sẽ đi đến hành động, vậy khi có nhận
thức đúng đắn về vấn đề bình đẳng giới từ những ảnh hưởng của gia đình,
chúng ta sẽ thực hiện bình đẳng giới ra sao?
2. VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH TRONG VIỆC THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI HIỆN NAY Ở VIỆT NAM.
2.1. Vai trò của gia đình đối với thực hiện bình đẳng giới trong chính môi trường này
Qua
việc trình bày vai trò của gia đình trong việc nhận thức bình đẳng
giới, chúng ta đã có thể phần nào hình dung ra được vai trò của gia đình
trong việc thực hiện bình đẳng giới hiện nay. Thế nhưng thực hiện nó
như thế nào lại là câu chuyện cần bàn: Hiểu thế nào cho đúng? thực hiện
tốt hay chưa? liệu đó có trở thành truyền thống gia đình? là nền tảng
cho một xã hội bình đẳng, lành mạnh....Ở Việt Nam hiện nay, đây đang là
đề tài rất nóng, là mối quan tâm và hướng tới của toàn xã hội. Gần đây
nhất, trong chương trình thực hiện đề án “ Tuyên truyền, giáo dục đạo
đức, lối sống trong gia đình Việt Nam giai đoạn 2010-2020” của Bộ văn
hóa Thể thao và Du lịch, Trung tâm thông tin Triển lãm- Sở văn hóa, Thể
thao và Du lịch thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với bản tin quận - huyện,
giới thiệu một số nội dung kiến thức, kĩ năng cơ bản về đời sống gia
đình. Đó được xem là những hướng dẫn để các thành viên thực hiện tốt
bình đẳng giới trong gia đình.
Thứ nhất,
gia đình có ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện bình đẳng giới về
phân công lao động trong gia đình. Từ các yếu tố truyền thống đã tác
động tới nhận thức của các thành viên trong gia đình từ đó tạo nên các
thái độ, xây dựng lên các hành vi xử sự về sự bình đẳng trong gia đình.
Với việc tác động của truyền thống gia đình về sự phân công vai trò giới
giữa người chồng với người vợ, giữa nam và nữ như người chồng thường
làm các công việc được cho là mang tính chất nặng nhọc, phải thực hiện
các công việc để đảm bảo nuôi sống gia đình, làm trụ cột kinh tế, là
người thay mặt gia đình trong quan hệ giao tiếp còn người vợ được cho là
người đứng sau phải làm các công việc mang tính chất đòi hỏi sự khéo
léo, chăm sóc gia đình…việc phân công này đã có từ rất lâu và được coi
là một truyền thống dân tộc, truyền từ đời này sang đời khác, truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác do đó việc tiếp nối, tiếp thu, chịu ảnh
hưởng của các thành viên trong gia đình là điều không tránh khỏi. Từ đó,
hình thành nên các hành vi ứng xử của thế hệ sau được tiếp tục thực
hiện như một tập quán, thói quen xử sự. Ví dụ như, nếu như người chồng
giúp đỡ người vợ làm những công việc gia đình thì những bé trai trai
trong gia đình coi những công việc đó mình cũng có thể làm được, từ đó
những bé trai sẽ tham gia vào các công việc gia đình làm cho sự phân
công lao động trong gia đình bình đẳng hơn. Còn đối với người mẹ, người
vợ trong gia đình nếu được người chồng chia sẻ công việc nhà và bản thân
có thể tham gia các công việc trong xã hội thì con gái của họ cũng sẽ
có cách nhận thức tương tự như người con trai về vai trò của mỗi giới
trong gia đình.
Thứ hai,
gia đình có ảnh hưởng tới việc tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực,
chính vì từ xưa người chồng có vai trò làm trụ cột gia đình, làm chủ
kinh tế do vậy có quyền quyết định trong các vấn đề của gia đình còn
người vợ phải phụ thuộc vào người chồng và thường không có điều kiện để
phát huy hết khả năng của mình trong xã hội. Ví dụ như hầu hết quyền
đứng tên trong sổ nhà đất thông thường là người chồng do vậy khi có
những chính sách phát triển kinh tế mà người vợ muốn tham gia (trong
trường hợp người chồng không muốn) thì người vợ gặp khó khăn trong việc
thực hiện vay vốn phát triển kinh tế.
Thứ ba,
gia đình tác động đến việc thực hiện các quyết định các vấn đề trong
gia đình. Những công việc được xem là công việc chung của gia đình,
không phải của riêng ai, chẳng ai nên quyết định một mình “ ôm rơm cho
rặm bụng”, để người làm thì kêu nhiều trách nhiệm, kẻ không can thiệp
thì chạnh lòng. Do đó, mọi người cần cung cấp thông tin về sự việc, bàn
bạc, cân nhắc và ra quyết định sao cho hợp lí nhất. Những công việc
riêng của thành viên cũng không nên tự quyết định, hãy đưa ra và tham
khảo ý kiến của đại gia đình. Đây chính là một biểu hiện của sự dân chủ
trong gia đình.
Thứ tư,
gia đình có ảnh hưởng tới việc lựa chọn nghề nghiệp, quyền thụ hưởng
các lợi ích xã hội của các thành viên trong gia đình. Quyền tự do lựa
chọn việc làm, học tập nâng cao trình độ hiểu biết cá nhân. Trẻ em đến
tuổi phải được tới trường, được học tập, cha mẹ không nên vì lí do công
việc gia đình mà bắt con cái phải nghỉ học ở nhà phụ gia đình. Vợ, chồng
tôn trọng nhau và tôn trọng con cái trong việc lực chọn công việc,
trường học, ngành nghề miễn sao không trái với truyền thống gia đình và
đạo đức xã hội. Cá nhân nào không đồng ý có thể trình bày quan điểm của
mình, có thể khuyên bảo, phân tích cho nhau hiểu. Tuyệt đối không được
áp đặt ý chí của mình cho các thành viên khác, kể cả bố mẹ với con cái.
Bố mẹ và con chủ động chia sẻ thông tin với nhau, chịu khó lắng nghe tâm
tư, nguyện vọng của con cái, tôn trọng những mong muốn, nguyện vọng và ý
kiến đó, luôn đặt lợi ích vật chất và tinh thần của con lên hàng đầu
khi quyết định những vấn đề liên quan tới con. Gia đình nào mà thực hiện
được như vậy, chứng tỏ bình đẳng giới đã được thực hiện với đúng bản
chất của nó.
Quyền được chăm sóc sức khỏe, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí,
hưởng thụ văn hóa và hưởng thụ các dịch vụ xã hội. Đây là một trong
những quyền năng cơ bản pháp luật trao cho một con người, pháp luật
không cấm, xã hội không lên án, gia đình càng không có bất kì lí do gì
để hạn chế quyền đó của các thành viên trong gia đình mình. Tất cả các
thành viên trong gia đình, không phân biệt già- trẻ, gái- trai pháp luật
đểu cho phép ai cũng có quyền được đi bệnh viện khám sức khỏe, được
nghỉ ngơi, được giải trí, ... từ quỹ kinh tế của gia đình và hỗ trợ
ngoài xã hội; pháp luật quy định các thành viên trong gia đình có quyền
được hưởng tài sản phân chia từ khối tài sản chung khi vợ chồng li hôn,
và tài sản từ tài sản được thừa kế (theo pháp luật) bình đẳng như nhau.
Còn nhiều quyền năng khác cần được các thành viên trong gia đình tôn
trọng lẫn nhau. Mỗi người đều nghĩ ai cũng là một thành viên trong gia
đình mình, ai cũng có nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc các thành viên còn lại
thì sẽ biết tôn trọng nhau như thế nào, người cùng thế hệ tôn trọng lẫn
nhau, người của thế hệ sau tôn trọng thế hệ trước.
2.2. Vai trò của gia đình đối với việc thực hiện bình đẳng giới trong các lĩnh vực, đời sống xã hội.
2.2.1. Trong lĩnh vực kinh tế.
Quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa tạo cho gia đình Việt Nam
điều kiện tiếp thu những giá trị văn hóa mới của xã hội hiện đại, sự
biến đổi về quy mô, cơ cấu và chức năng của gia đình trong cuộc sống
công nghiệp đang có những chuyển biến tích cực ở một số giá trị văn hóa
gia đình; tỉ lệ số phụ nữ được thực hiện quyền bình đẳng về kinh tế,
việc làm và hưởng thụ thành quả ngày càng cao.
Hiện nay, cùng với sự phát triển ngày càng cao của công nghệ thông tin
phụ nữ ngày càng có điều kiện tiếp cận nguồn thông tin, nguồn lực nhằm
tự nâng cao trình độ hiểu biết của mình tạo điều kiện để tham gia vào
các hoạt động kinh tế góp phần nâng cao thu nhập cho gia đình. Tuy vậy,
hiện nay ở nước ta vẫn còn tồn tại nhiều trường hợp những người phụ nữ
có học vấn, có những nền tảng để tham gia vào hoạt động kinh tế khi còn
độc thân, nhưng đến khi lập gia đình họ lại “an phận thủ thường” làm
những công việc nội trợ chăm lo cho gia đình. Mặc dù hiện nay ngày càng
có nhiều công cụ và các điều kiện giúp cho con người giảm nhẹ sức lao
động, nhưng người phụ nữ ngoài việc tham gia công việc, đóng góp ngày
càng cao vào thu nhập chung nhưng vẫn phải đảm nhiệm hầu hết các công
việc trong cuộc sống gia đình.
Từ những trình bày ở trên, chúng ta có thể thấy được rằng để thực hiện
bình đẳng giới trong gia đình thì cần xóa bỏ những tư tưởng lạc hậu mang
tính tiêu cực. Vợ chồng trong gia đình cần có quyền lợi và nghĩa vụ
ngang bằng nhau trong các hoạt động của gia đình có ý thức trách nhiệm
thực hiện các quyền nghĩa vụ của họ một cách công bằng trên cơ sở chia
sẻ giúp đỡ lẫn nhau, tạo sự đồng thuận. Chính sự đồng thuận quan tâm này
sẽ giúp cho gia đình được hạnh phúc, ổn định và bền vững. Điều này giúp
cho người phụ nữ được san sẻ những công việc gia đình, giảm bớt những
lo toan trong gia đình từ đó giúp cho người phụ nữ tham giam một cách
tốt nhất vào hoạt động kinh tế. Thực hiện được điều này, một phần làm
tăng vị thế của người phụ nữ trong hoạt động gia đình, mặt khác cũng góp
phần đẩy mạnh công tác thực hiện bình đẳng giới trong gia đình, từ đó
khẳng định gia đình góp phần quan trong vào công tác thực hiện bình đẳng
giới trên thực tế nói chung và lĩnh vực kinh tế nói riêng.
2.2.2. Trong lĩnh vực Chính trị.
Ngày nay mặc dù những định kiến giới vẫn còn tồn tại nhưng vị thế của
người phụ nữ nói chung trong gia đình và xã hội đã được nâng cao lên so
với trước. Nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội đã có những
chuyển biến tích cực, tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dần dần được khắc
phục. Trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội địa vị của người phụ nữ
đã dược nâng cao đáng kể. Tuy nhiên vấn đề bình đẳng giới trong xã hội
nói chung và trong gia đình nói riêng vẫn còn gặp phải những thách thức
mới. Trong điều kiện kinh tế đang dần dần thay đổi một cách nhanh chóng
thì các chuẩn mực, giá trị văn hóa liên quan tới vai trò giới dường như
biến chuyển rất chậm chạp. Tình trạng bất bình đẳng giới còn tồn tại
trong một số những lĩnh vực, đặc biệt là trong gia đình. Điều này ảnh
hưởng nghiêm trọng tới sự tiến bộ của người phụ nữ trong các lĩnh vực
nói chung và trong lĩnh vực chính trị nói riêng. Hiện nay trong xã hội
có rất nhiều người phụ nữ nắm giữ những cương vị quan trong trong bộ máy
nhà nước nhưng cũng có một bộ phận không nhỏ những người phụ nữ không
thể tham gia đảm nhiệm những cương vị này vì lý do gia đình. Điều này
dẫn tới sự bất bình đẳng đối với những người phụ nữ đã có gia đình.
Mặc dù phụ nữ Việt Nam tham gia vào hoạt động chính trị rất tích cực
song cơ hội tiến thân của họ là rất ít. Một phần là do phụ nữ thiếu khả
năng tiếp xúc với những cơ hội do những bất bình đẳng trong tiếp cận
giáo dục và đào tạo, trong việc tiếp nhận những thông tin, nguồn lực.
Nhưng chủ yếu lo do những tác động từ phía gia đình khiến những người
phụ nữ thiếu đi những yếu tố cần để tham gia vào hoạt động chính trị.
Trong gia đình, tư tưởng đề cao vai trò của người đàn ông trong gia đình
cũng như hạ thấp vị thế của người phụ nữ trong gia đình là khá phổ
biến. Quan niệm chung của nhiều người là người chồng lãnh đạo là lẽ
đương nhiên. Nhiều người cho rằng những việc nội trợ là nhẹ nhàng và
không làm ra tiền, vì vậy mà ngượi đàn ông kiếm ra tiền do đó sẽ làm chủ
gia đình. Với tư tưởng như vậy, người đàn ông đã vô tình tạo ra một rào
cản khiến cho người phụ nữ không có quyền quyết định trong gia đình và
từ đó không thể tham gia vào bất cứ một hoạt động nào kể cả hoạt động
chính trị.
Vì
vậy khi thực hiện bình đẳng giới trong gia đình sẽ tạo nền tảng giúp
cho người phụ nữ có cơ hội tham gia vào các hoạt động chính trị, từ đó
tự khẳng định vị thế vủa mình trong xã hội, đồng thời làm nổi bật vai
trò của gia đình trong công tác thực hiện bình đẳng giới trong các lĩnh
vực của cuộc sống nói chung và trong lĩnh vực chính trị nói riêng.
2.2.3. Trong lĩnh vực lao động.
Ở
một số gia đình, khi có một công việc tốt mà chỉ được một người con
trai hoặc con gái được làm, phần lớn gia đình sẽ có xu thế bảo con gái
nhường con trai dù có thể người con gái có khả năng làm tốt hơn, phù hợp
hơn với suy nghĩ con trai mới là người trụ cột nuôi sống gia đình, đây
là một quan niệm sai lầm dẫn đến sự bất bình đẳng cho việc bình đẳng
trong cơ hội việc làm. Mặt khác, thu nhập do lao động kiếm ra dù là của
bất cứ thành viên nào kiếm ra cũng đều đáng coi trọng, không thể phân
chia thu nhập của người này là quan trọng thu nhập của người kia là
không quan trọng. Thậm chí, lao động trong gia đình cũng cần được coi
trọng.
Khi các thành viên trong gia đình khi có nhận thức đúng đắn về các vấn
đề bình đẳng sẽ góp phần tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình
hiểu, thông cảm và chia sẻ công việc lao động trong gia đình để các
thành viên có thời gian tham gia vào các công việc ngoài xã hội, giúp
tăng thêm thu nhập cho gia đình nói chung và bản thân thành viên đó nói
riêng. Ngoài ra, các thành viên khi được gia đình mình tạo điều kiện sẽ
có đủ khả năng để thể hiện mình năng lực của mình (đặc biệt là người phụ
nữ), tạo nên sự bình đẳng giữa nam và nữ trong công việc. Sự khuyến
khích và tạo điều kiện của gia đình có nhận thức đúng đắn về bình đẳng
giới sẽ tạo thêm động lực cho các thành viên lao động một cách tích cực
hơn. Các thành viên trong những gia đình này sẽ hiểu rõ được quyền lợi
cũng như cơ hội việc làm của mình. Không những vậy, khi họ tham gia quan
hệ lao động với tư cách người quản lý cũng sẽ có thái độ đối xử bình
đẳng hơn, tạo điều kiện để bình đẳng giới phát triển.
2.2.4. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.
Thời kỳ phong kiến còn mang nặng tư tưởng“ trọng nam kinh nữ” ; “ tiểu
nhân và đàn bà là hai loại khó dạy” thì việc giáo dục và đào tạo gần như
không đặt ra đối với người phụ nữ. Người phụ nữ chỉ được giáo dục một
điều duy nhất là nội trợ, chăm sóc gia đình, không hề tạo cơ hội học tập
và phát triển. Nhưng hiện nay, khi mỗi gia đình đã có những nhận thức
đúng đắn về bình đẳng giới thì việc đi học của các thành viên trong gia
đình trở lên dễ dàng hơn, không còn việc ngăn cấm, cản trở . Nam nữ đều
được tới trường theo đúng độ tuổi, được giáo dục và đào tạo như nhau. Cả
nam giới và phụ nữ đều được gia đình tạo điều kiện lựa chọn ngành
nghề, chuyên môn, nghiệp vụ theo sở thích và khả năng. Các chính sách
giáo dục đặt ra đều được cả hai giới thụ hưởng một cách bình đẳng.
2.2.5. Trong lĩnh vực y tế.
Gia đình là nơi các thành viên cùng sinh hoạt, lao động trong một môi
trường bởi vậy giữa vợ -chồng, con trai – con gái, có sự tiếp xúc trực
tiếp, thường xuyên với nhau. Việc đảm bảo giới trong gia đình có vai trò
quan trọng trong việc đảm bảo sức khỏe của tất cả các thành viên.
Từ việc được giáo dục bình đẳng trong gia đình sẽ giúp cho vợ - chồng,
nam - nữ bình đẳng trong tham gia các hoạt động giáo dục, truyền thông
về chăm sóc sức khỏe, sức khỏe sinh sản. Đồng thời xuất phát từ chính sự
dạy dỗ về tâm lí, sinh lí của mẹ và con gái, giữa bố và con trai, bình
đẳng giữa vợ - chồng sẽ tạo điều kiện cho việc thực hiện bình đẳng giữa
nam và nữ trong việc lựa chọn, sử dụng biện pháp tránh thai, biện pháp
an toàn tình dục, phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền
qua đường tình dục. Muốn thực hiện được tốt và thụ hưởng các dịch vụ từ
trong lĩnh vực y tế một cách toàn diện, đầy đủ của mỗi cá nhân thì nhân
tố cần thiết là phải có sự giáo dục của gia đình trong vấn đề bình đẳng
giới.
2.2.6 Vai trò của gia đình trong việc thực hiện bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ.
Vợ,
chồng có quyền bình đẳng tham gia trong việc tiếp cận ứng dụng khoa
học. Vợ, chồng bình đẳng trong việc tiếp cận các khóa đào tạo về khoa
học và công nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học, công nghệ và
phát minh, sáng chế. Tùy khả năng của mỗi người, cả vợ và chồng nếu một
trong hai người có khả năng và cơ hội tham gia và phát triển trong lĩnh
vực khoa học và công nghệ thì người còn lại sẽ có một vai trò rất lớn
trong việc ủng hộ và giúp đỡ người kia tham gia. Những người lớn tuổi
trong gia đình tạo mọi điều kiện cho con cái học tập, tiếp cận các khóa
đào tạo về khoa học và công nghệ, phổ biến kết quả nghiên cứu khoa học,
công nghệ và phát minh, sáng chế.
2.2.7. Vai trò của gia đình trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao.
Gia đình cũng có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện bình đẳng
giới trong lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao. Từ việc nhận
thức về vai trò của lĩnh vực văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao trong
đời sống xã hội và những tác động của nó đến các thành viên trong gia
đình. Gia đình tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho các thành viên trong
gia đình bình đẳng tham gia vào các hoạt động liên quan đến lĩnh vực
văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao.
3. MỐI LIÊN HỆ GIỮA NHẬN THỨC VÀ THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG GIỚI THÔNG QUA VAI TRÒ CỦA GIA ĐÌNH.
Để
đạt được hiệu quả cao trong việc thực hiện bình đẳng giới ở toàn xã
hội, thì không những phải có nhận thức tốt về vấn đề này mà còn phải có
những hành động cụ thể, thiết thực trong đời sống. Mỗi cá nhân được giáo
dục tốt về vấn đề bình đẳng trong gia đình là điều kiện, nền tảng thuận
lợi để tiến hành hoạt động bình đẳng giới trong xã hội. Nhưng nếu cá
nhân đó chỉ dừng lại ở việc nhận thức “nói suông” mà không thực hiện sẽ
làm giảm đáng kể vai trò giáo dục của gia đình. Vì vậy để nâng cao được
sự kết hợp và nhận thức về vấn đề bình đẳng giới trong mỗi cá nhân,
chúng ta phải nâng cao được trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục
vấn đề này.
Thứ nhất,
phải tạo điều kiện cho các thành viên trong gia đình nâng cao nhận
thức, hiểu biết và tham gia các hoạt động về bình đẳng giới.
Thứ hai, giáo dục các thành viên có trách nhiệm chia sẻ và phân công lao động hợp lí công việc trong gia đình.
Thứ ba, chăm sóc sức khỏe sinh sản và tạo điều kiện cho phụ nữ làm việc an toàn.
Thứ tư, đối xử công bằng, tạo cơ hội như nhau giữa con trai, con gái trong học tập, lao động và tham gia các hoạt động khác.
No comments:
Post a Comment