Nhằm
đảm bảo nguyên tắc tự do, tự nguyện khi xác lập HĐLĐ, pháp luật lo động
quy định NLĐ và NSDLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Ngày nay, việc
các chủ thể của quan hệ lao động đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái luật xảy
ra ngày càng nhiều. Vì thế, việc pháp luật quy định “hậu quả pháp lý của trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật” có ý nghĩa lớn trong việc giải quyết thực trạng trên. Hãy cùng nhau phân tích, bình luận để hiểu sâu sắc hơn về nội dung này.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Vài nét về đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật
Đơn
phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật là việc NLĐ hoặc NSDLĐ chấm dứt
HĐLĐ không đúng với quy định của pháp luật hiện hành. Cụ thể là:
- Đối với NLĐ:
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật thể hiện ở việc NLĐ chưa đưa ra
một trong những lý do quy định tại khoản 1 Điều 37 (nếu HĐLĐ là xác
định thời hạn) và chưa tuân thủ thời hạn báo trước theo khoản 2, 3 Điều
27 BLLĐ.
- Đối với NSDLĐ:
trường hợp này thể hiện ở việc NSDLĐ chưa đưa ra được một trong những
lý do được định tại khoản 1 Điều 38, chưa tuân thủ thời hạn báo trước và
thủ tục chấm dứt HĐLĐ theo khoản 2, 3 Điều 38 hoặc vi phạm Điều 39
BLLĐ.
II. Hậu quả pháp lý của trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật
1. Chế độ trợ cấp và bồi thường
* Trường hợp NSDLĐ lao động đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật
Khoản 1 Điều 41 BLLĐ đã sửa đổi, bổ sung có quy định:
“
Trong trường hợp người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động trái pháp luật thì phải nhận người lao động trở lại làm công
việc theo hợp đồng đã ký và phải bồi thường một khoản tiền tương ứng với
tiền
lương và phụ cấp lương (nếu có) trong những ngày người lao động không
được làm việc cộng với ít nhất hai tháng tiền lương và phụ cấp lương
(nếu có).
Trong
trường hợp người lao động không muốn trở lại làm việc, thì ngoài khoản
tiền được bồi thường quy định tại đoạn 1 khoản này, người lao động còn
được trợ cấp theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật này.
Trong
trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận người lao động trở
lại làm việc và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền bồi thường
quy định tại đoạn 1 khoản này và trợ cấp quy định tại Điều 42 của Bộ
luật này, hai bên thỏa thuận về khoản tiền bồi thường thêm cho người lao
động để chấm dứt hợp đồng lao động.”
Như
vậy, hậu quả pháp lý trong trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ
trái pháp luật trước hết là phải nhận NLĐ trở lại làm công việc theo hợp
đồng đã ký và phải bồi thường một khoản căn cứ điều luật trên, Khoản 1
Điều 15 Nghị định 114/2002/NĐ-CP và Khoản 1 Điều 14 Nghị định số
44/2003/NĐ-CP.
Bên
cạnh đó, trong thực tế vẫn xảy ra trường hợp sau khi NSDLĐ đơn phương
chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật thì NLĐ không muốn tiếp tục làm việc hoặc
NSDLĐ không muốn nhận NLĐ trở lại làm việc. Lúc này, hậu quả pháp lý sẽ
khác đi. Cụ thể:
-
Nếu NLĐ không muốn trở lại làm việc, thì ngoài khoản tiền được bồi
thường quy định tại đoạn 1 khoản 1 Điều 41, NLĐ còn được trợ cấp theo
quy định tại Điều 42 BLLĐ, tức là NSDLĐ có trách nhiệm trợ cấp thôi việc
cho NLĐ đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức
từ đủ 12 tháng trở lên, cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với
phụ cấp lương (nếu có).
-
Nếu NSDLĐ không muốn nhận NLĐ trở lại làm việc và NLĐ đồng ý thì ngoài
khoản tiền bồi thường theo đoạn 1 khoản 1 Điều 41 và trợ cấp theo Điều
42 của BLLĐ, hai bên thỏa thuận về khoản tiền bồi thường thêm cho NLĐ để
chấm dứt HĐLĐ.
* Trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật
Khoản 2 Điều 41 BLLĐ đã sửa đổi, bổ sung quy định: “Trong
trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái
pháp luật thì không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người
sử dụng lao động nửa tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có).”
Điều 13 Nghị định số 44/2003/NĐ-CP có quy định: “Người
lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động phải bồi thường chi phí
đào tạo theo quy định tại khoản 4 Điều 32 Nghị định số 02/2001/NĐ-CP
ngày 09 tháng 01 năm 2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Bộ
luật Lao động và Luật Giáo dục về dạy nghề, trừ trường hợp chấm dứt hợp
đồng lao động mà thực hiện đúng và đủ các quy định tại Điều 37 của Bộ
luật Lao động đã sửa đổi, bổ sung.”
Như vậy, trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật thì bên
cạnh việc không được trả trợ cấp thôi việc, NLĐ còn phải bồi thường cho
NSDLĐ nửa tháng lương và phụ cấp lương (nếu có). Đồng thời, nếu NLĐ đơn
phương chấm dứt HĐLĐ trái luật mà không thực hiện đúng, đủ các quy định
tại Điều 37 BLLĐ đã sửa đổi, bổ sung thì phải bồi thường chi phí đạo
cho NSDLĐ theo khoản 4 Điều 32 Nghị định 02/2001/NĐ-CP.
2. Thời hạn thực hiện trách nhiệm
Trong
thời hạn 7 ngày kể từ gày chấm dứt HĐLĐ, hai bên có trách nhiệm thanh
toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên. Trường hợp
đặc biệt có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày.
III. Bình luận.
Tóm
lại, việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật có thể do NLĐ hay
NSDLĐ và để lại những hậu quả pháp lý khác nhau. Từ việc phân tích trên
ta nhận thấy:
- Trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật: Khoản 1 Điều 41 BLLĐ quy định “NSLĐ… phải nhận NLĐ làm việc trở lại… và bồi thường…”,
điều này cho thấy BLLĐ luôn hướng đến bảo vệ quyền lợi của NLĐ. Tuy
nhiên, nhằm đảm bảo tính tự do, tự nguyện trong giao kết HĐLĐ, pháp luật
cũng quy định NLĐ có không trở lại làm việc và NSDLĐ cũng có quyền
không để NLĐ trở lại làm việc nhưng NLĐ phải đồng ý. Mỗi trường hợp này
đều đem lại những hậu quả pháp lý khác nhau, chứng tỏ pháp luật lao động
luôn nghiêng về phía NLĐ nhưng vẫn không hạn chế quyền lợi của NSDLĐ
nhằm đảm bảo yếu tố bình đẳng trong quan hệ lao động (NSDLĐ có thể đề
nghị NLĐ không trở lại làm việc và chấp nhận bồi thường theo quy định
pháp luật).
- Trường hợp NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật:
Khoản 2 Điều 41 BLLĐ đã sửa đổi, bổ sung quy định trường hợp này NLĐ
không được nhận trợ cấp và phải bồi thường cho NSDLĐ. Điều này cho thấy
pháp luật lao động không chỉ bỏ vệ NLĐ mà còn bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của NSDLĐ.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Nhìn
chung, hậu pháp lý của trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ được pháp
luật quy định tương đối rõ ràng, cụ thể và hợp lý. Điều này có ý nghĩa
lớn trong việc điều chỉnh các quan hệ lao động, giảm thiểu các tranh
chấp nảy sinh sau sự kiến đơn phương chấm dứt HĐLĐ và giải quyết phần
nào thực trạng ngày nay về HĐLĐ và việc làm.
No comments:
Post a Comment